Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ BẤT LỢI CỦA CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC) ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.06 KB, 16 trang )

LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ BẤT LỢI
CỦA CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC) ĐỐI VỚI VIỆT NAM
PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng 1
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là một cơ chế hợp tác khu vực vừa tạo ra lợi
ích kinh tế và gây ra những bất lợi đối với các nước thành viên. Việc phân tích và đánh
giá các loại lợi ích và bất lợi kinh tế của AEC là cần thiết để tiến tới hình thành cơ chế
hợp tác theo chiều sâu giữa các nước thành viên nhằm tối đa hóa các loại lợi ích và giảm
thiểu những bất lợi, hình thành lợi ích mang tính chiến lược của cả cộng đồng, tạo nền
tảng duy trì sự ổn định và phát triển bền vững của cộng đồng về lâu dài. Bài viết chỉ ra
các loại lợi ích và bất lợi của nền kinh tế Việt Nam trong AEC từ đó đề xuất giải pháp để
Việt Nam gia tăng lợi ích và giảm thiểu bất lợi cũng như góp phần thúc đẩy sự hình thành
và phát triển AEC có hiệu quả.
Từ khóa: Lợi ích và bất lợi kinh tế, AEC, Việt Nam
Abstract
AEC is a regional cooperative mechanism that brings both economic benefits and
costs for each member. It is neccesary to analyze and evaluate economic benefits and
costs of AEC towards establishing a deep co-operation mechanism between members to
maximize economic benefits and minimize costs as well as to establish the strategic
benefit, stability and sustainable develepment for the community. The paper analyzes the
economic benefits and costs for Vietnam within AEC, and then suggests the solutions to
increase the benefits and to reduce the costs, which will partially contributes to AEC’s
effective establishment and development.
Key words: Economic benefits and costs, AEC, Vietnam
1. Giới thiệu
Tự do hóa thương mại là xu hướng mang tính khách quan và cơ bản trong chính
sách thương mại quốc tế đồng thời phản ánh sự vận động quy luật lợi thế so sánh trên
phạm vi toàn cầu. Nó vừa tạo ra lợi ích vừa dẫn đến những bất lợi đối với các bên tham
gia do tác động của sự gia tăng nhanh chóng thậm chí đột biến thương mại cũng như di
chuyển nguồn lực. Lợi ích và bất lợi gần như là những nội dung gắn với việc tham gia


vào các khu vực thương mại hoặc hội nhập kinh tế khu vực và thực chất, đó là những tác
động tích cực và tiêu cực đưa lại từ đàm phán kinh tế và kinh doanh quốc tế. Lợi ích là
phần giá trị mới được sáng tạo vượt ra ngoài chi phí. Bất lợi được hiểu là các khoản chi
phí vượt quá lợi ích thậm chí cả những tổn thất và thiệt hại. Bất kỳ một điều chỉnh chiến

1

Đại học Kinh tế quốc dân ĐT: 0983478486 Email:

1


lược, chính sách hay các biện pháp nào trong hội nhập đều dẫn đến những tác động có lợi
hay bất lợi đối với các bên tham gia.
AEC được thành lập năm 2015 phù hợp với xu hướng vận động của hội nhập khu
vực như là sự tiếp tục những kết quả đạt được trong việc thành lập Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA) từ năm 1993. Những lợi ích và bất lợi của tham gia vào cộng đồng
này đòi hỏi phân tích cụ thể và tổng thể để hiểu rõ bản chất, xu hướng vận động nhằm đề
xuất chiến lược, chính sách thích hợp với từng quốc gia và cả cộng đồng. AEC là một bộ
quy tắc ứng xử mới đối với các quốc gia và cả cộng đồng.
Cho đên nay, chưa có nhiều nghiên cứu cụ thể về lợi ích và bất lợi của AEC đối
với các nước thành viên mặc dù các nghiên cứu về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) đối với 10 nước thành viên ASEAN được thực hiện khá cụ thể cũng như các vấn
đề lý thuyết về cấp độ hội nhập kinh tế quốc tế được Balassa đưa ra vào năm 1961. Hơn
nữa, thực tế xuất hiện nhiều yếu tố mới đòi hỏi phải tính toán và cân nhắc đầy đủ để các
đánh giá lợi ích và bất lợi đầy đủ và cập nhật với thực tế đặc biệt là việc đàm phán giữa
Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản thành lập Khu vực mậu dịch tự do Bắc Á và việc
đàm phán để ký kết Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái- Bình Dương (TPP).
Bài viết tập trung phân tích, đánh giá các loại lợi ích và bất lợi chủ yếu về kinh tế
của AEC đối với các nước thành viên thông qua sử dụng phương pháp phân tích, tổng

hợp và so sánh dựa trên mô hình tạo lập và chuyển hướng mậu dịch cũng như mô hình di
chuyển vốn quốc tế để tính toán các lợi ích và bất lợi này đối với một số quốc gia lựa
chọn và cả AEC. Dữ liệu sử dụng trong bài được thu thập là cơ sở dữ liệu của Ban thư ký
ASEAN, Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và số liệu
thống kê của các nước thành viên.
2. Đặc trưng của AEC
Theo lý thuyết hội nhập kinh tế quốc tế của Balassa (1961)-một lý thuyết có ảnh
hưởng đáng kể và khá lâu dài đến phương pháp luận phân tích các quá trình hội nhập
quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế có các cấp độ khác nhau như thành lập khu vực mậu
dịch tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh tiền tệ, liên minh kinh tế.
Hội nhập còn có thể xem xét từ khia cạnh hội nhập đơn phương, song phương hoặc đa
phương.
Tinberger phát triển và đưa ra khái niệm hội nhập thụ động và hội nhập chủ động.
Hội nhập thụ động là quá trình loại bỏ các loại rào cản đặc biệt là rào cản nhân tạo còn
hội nhập chủ động là quá trình sáng tạo ra các thể chế và cơ chế mới cũng như áp dụng
các loại công cụ và biện pháp mới hoặc điều chỉnh thể chế hiện có.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có những đặc điểm nổi bật, thể hiện:
- Lấy các lợi ích cơ bản và chiến lược làm nền tảng đánh giá, phân tích và xây
dựng các hình thức, chiến lược và chính sách hội nhập.
- Các hiệp định quốc tế về thương mại và các lĩnh vực có liên quan được đàm
phán, ký kết tạo khuôn khổ pháp lý ổn định, vững chắc.
- Dẫn đầu khu vực thường là một nhóm nước có trình độ phát triển cao, nhận thức
đầy đủ về xu hướng vận động tất yếu của hội nhập, đề xướng khuôn khổ phát triển cũng
như xây dựng thể chế vận hành cả hệ thống.

2


- Các nguyên tắc ứng xử lâu dài được coi trọng và đề cao, trở thành mối quan tâm
hàng đầu của các quốc gia trong quá trình đàm phán hội nhập cũng như là nền tảng giải

quyết các tranh chấp quốc tế.
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) bên cạnh cộng đồng chính trị-an ninh, cộng
đồng văn hóa- xã hội gồm có 10 thành viên ASEAN với những đặc trưng chủ yếu bao
gồm:
- Đây là cấp độ hội nhập khu vực có những đặc trưng của thị trường chung và tiến
dần tới liên minh kinh tế. Nhiều quốc gia thành viên là thành viên của WTO cũng đang
đàm phán để ký kết nhiều hiệp định nhằm hội nhập sâu hơn vào các giao dịch kinh tế
quốc tế như Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP).
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế thiếu sự đồng đều, chênh lệch tăng trưởng là nền tảng
dẫn đến sự chênh lệch về giá trị gia tăng cũng như thể hiện sự khác nhau về hiệu quả tăng
trưởng tổng thể về kinh tế. Hình 1 chỉ ra sự “thiếu bằng phẳng” về tốc độ tăng trưởng của
các nền kinh tế trong AEC cho thấy nguy cơ tiềm ẩn sự bất ổn định của cộng đồng cần có
cơ chế giám sát phù hợp. Đồng thời, cơ chế duy trì sự ổn định tăng trưởng lâu dài của các
quốc gia bộc lộ nhiều khía cạnh thiếu hiệu quả.
Hình 1: Tốc độ tăng trưởng các nước thành viên ASEAN
giai đoạn 2008-2012

Nguồn: www.asean.org
- Các mục tiêu đặt ra của AEC là xây dựng một thị trường và cơ sở sản xuất thống
nhất, một khu vực kinh tế cạnh tranh, phát triền kinh tế công bằng và hội nhập kinh tế
toàn cầu. (xem Hộp 1) Các mục tiêu này tạo ra tiến trình vận động của AEC tương tự như
sự vận động của một liên minh kinh tế hoặc một phương thức vận hành tương tự như
Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) trước năm 1992. Những mục tiêu đặt ra của AEC tạo
nên tính đặc trưng của AEC so với các khu vực khác. Mỗi loại mục tiêu này khi thực hiện
sẽ tạo ra các lợi ích và bất lợi nhất định. Việc giảm thuể nhập khẩu đến mức 0% là điều
kiện gia tăng sự tự do về hàng hóa di chuyển và dịch vụ cung ứng giữa các nước thành
viên. Đồng thời các yếu tố về vốn, đầu tư, lao động có kỹ năng cũng được di chuyển tự
do.

3



A.

B.

C.

D.

Hộp 1: Những nội dung của AEC
Một thị trường thống nhất và một cơ sở sản xuất
A1. Di chuyển hàng hóa tự do
A2. Di chuyển dịch vụ tự do
A3. Di chuyển đầu tư tự do
A4. Di chuyển vốn tự do
A5. Di chuyển lao động có kỹ năng tự do
A6. Các lĩnh vực hội nhập ưu tiên
A7. Thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp
Một khu vực kinh tế cạnh tranh
B1. Chính sách cạnh tranh
B2. Bảo vệ người tiêu dùng
B3. Quyền sở hữu trí tuệ
B4. Thuế khóa
B5. Thương mại điện tử
Phát triển kinh tế công bằng
C1. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
C2. Sáng kiến hội nhập ASEAN
Hội nhập kinh tế toàn cầu
D1. Tăng cường phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại

D2. Tham gia tích cực vào chuỗi cung ứng toàn cầu
Nguồn: ASEAN Secretariat

- Hầu hết các quốc gia thành viên có nhiều điểm tương đồng về kinh tế như cơcấu
nặng về nông nghiệp, các ngành công nghiệp chủ yếu khai thác khoáng sản và tài
nguyên, coi trọng thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như khả
năng rơi vào bẫy thu nhập trung bình đặc biệt là các nước thuộc nhóm CLMV
(Cambodia, Lào, Myanmar, Việt Nam). Những vấn đề khó khăn nội tại nền kinh tế tương
đối giống nhau như vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đặc biệt là hệ thống luật
pháp và các chính sách kinh tế, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao và phát triển khoa học- công nghệ. Chỉ số xếp hạng năng lực cạnh tranh
toàn cầu của các nước thành viên ASEAN có sự chênh lệch khá lớn. (Hình 2)
Hình 2: Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của các nước ASEAN
2012-2013 và 2013-2014

*Nguồn: Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF)
Lưu ý: Lào và Myanmar không có số liệu từ Diễn đàn kinh tế thế giới
4


Theo Hình 2, trong giai đoạn 2012-2013 và 2013-2014, Singapore có vị trí xếp
hạng cao nhất (thứ hai liên tiếp trong 2 năm trong 148 quốc gia tham gia phân hạng)
trong số các nước ASEAN, trừ Lào và Myanmar không có số liệu, Cambodia, Phillipin
và Việt Nam là những quốc gia có chỉ số xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu thấp nhất
tương ứng là (85, 86), (65, 59), và (75, 70). Vấn đề cải thiện năng lực cạnh tranh của các
quốc gia là một vấn đề mang tính chiến lược của các nước thành viên trong quá trình
thành lập AEC. Điều này đặt ra mục tiêu chiến lược để các quốc gia có thể hội tụ về năng
lực cạnh tranh quốc tế.
- Tiềm lực của AEC khá lớn về diện tích đất đai (khoảng 4,4 triệu km2), dân số
đông (trên 600 triệu người), GDP khoảng 2.400 tỷ USD, tốc độ tăng GDP bình quân

khoảng 5%, thu nhập bình quân đầu người khoảng 4.000 USD, tổng kim ngạch xuất- nhập
khẩu hàng hóa khoảng 2.600 tỷ USD, lượng vốn FDI thu hút mỗi năm trung bình 120 tỷ
USD và lượng khách du lịch đến ASEAN khoảng 90 triệu lượt khách/năm. Điều này cho
thấy tiềm năng lớn của AEC có thể huy động để phát triển kinh tế trong thời gian tới bằng
thể chế hiệu quả và mức độ liên kết nội bộ cao. (Bảng 1)
Bảng 1: Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của AEC
Chỉ tiêu
Tổng diện tích đất
Tổng dân số
GDP
hành)

(giá

hiện

Tăng trưởng GDP
GDP bình quân (giá
hiện hành)
Thương mại quốc tế
hàng hóa
Xuất khấu
Nhập khẩu
FDI di chuyển vào
Khách du lịch

Đơn vị
tính
km2
Nghìn

người
Triệu
USD
Phần
trăm
USD
Triệu
USD
Triệu
USD
Triệu
USD
Triệu
USD
Nghìn
người

4.435.670

4.435.674

4.435.617

2013 (sơ
bộ)
4.435.617

600.291

609.161


617.165

625.096

1.884.068

2.184.546

2.320.840

2.398.154

7,8

4,9

5,8

5,1

3.139

3.586

3.760

3.836

2.009.116


2.388.444

2.476.427

2.510.127

1.051.614

1.242.199

1.254.581

1.270.467

957.502

1.146.245

1.221.847

1.239.660

100.360

97.537

114.082

119.756


73.752,6

81.229,0

89.225

-

2010

2011

2012

*Nguồn: Thống kê ASEAN, Ban thư ký ASEAN
3. Các lợi ích và bất lợi của AEC đối với các nước thành viên và cộng đồng
Các lợi ích
Về lợi ích kinh tế đặc biệt về thương mại, phân tích từ mô hình do Viner (1950) và
Lipsey (1957) chỉ rõ tác động tạo lập mậu dịch và chuyển hướng mậu dịch. Tạo lập mậu
dịch mở ra khả năng phát triển mạnh các ngành có lợi thế so sánh còn chuyển hướng mậu
dịch tạo điều kiện phát triển các ngành kém hiệu quá trong quốc gia thành viên, hình
thành lợi ích cộng đồng hay nhóm lợi ích. Thuế nhập khẩu trên toàn thế giới, mặc dù đã
5


được đàm phán giảm xuống liên tục từ khi Hiệp định Thương mại và thuế quan (GATT)
ký kết năm 1947, nhưng để đạt con số 0% trên toàn thế giới hoặc xét riêng trong AEC,
cần phải có một khoảng thời gian ít nhất không dưới 10 năm vì chênh lệch về trình độ
phát triển còn rất lớn giữa các quốc gia, mức độ bảo hộ khá cao và bảo đảm nguồn tài

chính công, bảo vệ sản xuất trong nước, tạo việc làm đối với các quốc gia có trình độ
phát triển thấp trở thành vấn đề mang tính cấp thiết.
Hình 3: Phân tích tác động tạo lập mậu dịch và chuyển hướng mậu dịch
Chuyển hướng mậu dịch

Tạo lập mậu dịch

Diện tích tam giác CJM và NHB
thể hiện lợi ích tạo lập mậu dịch

Diện tích chữ nhật J’MH’N thể
hiện lợi ích chuyển hướng mậu dịch

 Nguồn: Kinh tế học quốc tế P.Krugman (2005)
Nếu sử dụng các số liệu thương mại nội bộ AEC (Bảng 2) với tổng kim ngạch
nhập khẩu khoảng 278, 2 tỷ USD năm 2012 trong lộ trình giảm thuế trung bình
1,5%/năm (theo lộ trình giảm thuế thông thường trong AFTA), tỷ lệ tăng trường kim
ngạch nhập khẩu trung bình 10%/năm. Khoản lợi ích thu được do tạo lập mậu dịch cả
khối đạt được khoảng 4,173 tỷ USD/năm. Ở trường hợp đặc biệt hay cực đoan nhất, tất
cả các nước AEC chỉ nhập khẩu hoàn toàn từ nội bộ với số liệu nhập khẩu của năm 2012
là 1.221,8 tỷ USD, lợi ích do tạo lập mậu dịch thu được là 183,27 tỷ USD. Đây là trường
hợp AEC gần như đóng cửa nhập khẩu hoàn toàn với phần còn lại của thế giới và điều
này hầu như không xảy ra do không phù hợp với nội dung D của AEC (Hộp 1) là hội
nhập kinh tế toàn cầu.

6


Bảng 2: Thương mại nội bộ và ngoài ASEAN năm 2012
 Đơn vị tính: Kim ngạch (triệu Đô la Mỹ), Tỷ trọng (%)

Quốc gia

Xuất khẩu nội bộ
ASEAN
Kim
ngạch

Brunei
Darussalam

Tỷ
trọng

Xuất khẩu ngoài
ASEAN
Kim
ngạch

Tổng kim
ngạch xuất
khẩu

Tỷ
trọng

Nhập khẩu nội bộ
ASEAN
Kim
ngạch


Tỷ
trọng

Nhập khẩu từ
ngoài ASEAN
Kim
ngạch

Tổng kim
ngạch nhập
khẩu

Tỷ
trọng

1.737,1

13.2

11.445,1

86.8

13.182,2

1.603,0

43.6

2.071,0


56.4

3.674,1

Cambodia

990,5

13.3

6.444,5

86.7

7.434.9

4.152,5

37.0

7.076,3

63.0

11.228,8

Indonesia

41.831,1


22.0

78.0

190.031,8

53.823,4

28.1

71.9

191.689,5

Lao PDR

1.170,2

44.1

55.9

2.655,2

1.167,0

33.3

66.7


3.503,5

Malaysia

60.945,2

26.8

73.2

227.537,8

54.867,5

27.9

72.1

196.392,6

Myanmar

3.399,0

36.5

5.916,0

63.5


9.314,9

4.126,5

44.9

5.061,9

55.1

9.188,4

Philippines

9.804,4

18.9

42.190,9

81.1

51.995,2

14.953,9

22.9

50.432,5


77.1

65.386,4

68.2

408.393,6

79.819,0

21.0

79.0

379.723,3

75.3

229.524,2

42.805,9

17.3

82.7

247.777,7

Singapore


129.802,3

31.8

148.200,7
1.485,0

166.592,6

278.591,3

137.866,1
2.336,6

141.525,0

299.904,3

Thailand

56.729,6

24.7

Viet Nam

17.445,7

15.2


97.065,1

84.8

114.510,7

20.874,6

18.4

92.408,0

81.6

113.282,5

ASEAN

323.855,0

25.8

930.725,7

74.2

1.254.580,7

278.193,2


22.8

943.653,6

77.2

1.221.846,8

172.794,6

204.971,8

Nguồn: Ban thư ký ASEAN
Bên cạnh đó, mô hình Mac Dougall- Kemp phân tích tác động của di chuyển đầu
tư và vốn giữa các quốc gia theo đó di chuyển lao động quốc tế kể cả lao động có kỹ
năng cũng xem xét tương tự. (Xem Hình 4) Dựa vào mô hình có thể tính toán được các
lợi ích kinh tế tổng thể đối với nền kinh tế. Chẳng hạn, trái tức chính phủ có tỷ lệ trung
bình 5% trong các nước ASEAN, tỷ lệ lợi nhuận trung bình của dòng FDI di chuyển vào
AEC là 15%, lợi ích tăng lên do FDI từ ngoài khu vực vào các nước AEC là 6 tỷ USD.
Do thiếu số liệu chính thức về di chuyển lao động giữa các nước thành viên AEC,
cho nên nếu sử dụng số liệu về khách du lịch quốc tế trong Bảng 1 và giả sử mỗi lượt
khách chi tiêu trung bình 1.000 USD cho mỗi chuyến du lịch tại AEC, trung bình mỗi
năm thu nhập từ du lịch của AEC khoảng 90 tỷ USD. Khoản thu nhập này góp phần làm
tăng GDP của các quốc gia thành viên và làm tăng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước
thành viên AEC với phần còn lại của thể giới và cũng như giữa các nước thành viên. Việc
mở cửa thị trường lao động có kỹ năng tạo điều kiện để tăng năng suất lao động cả cộng
đồng nhưng cạnh tranh trên thị trường lao động sẽ găy gắt.

7



Hình 4: Các mô hình di chuyển quốc tế vốn và lao động
(b) Lao động

(a) Vốn

F
N
C
O
A

M
P
K
A

M
MP
E KR
BG
B A

J
H

wA,
MP


M
P

LA

L

T

A
D

A

O

O

L

B

A

2

Diện tích tam giác MEG biểu thị lợi ích
tăng lên của hai quốc gia khi có di chuyển
vốn giữa chúng


M
BP
GFD
OO
L
AB

CB
L
1

F
G
O
B

Diện tích tam giác ABC biểu thị lợi
ích tăng lên của hai quốc gia khi có di
chuyển lao động giữa chúng

Nguồn: Kinh tế học quốc tế P. Krugman (2005)
Như vậy, các lợi ích kinh tế từ AEC là cụ thể và rõ ràng cả quốc gia và toàn khu
vực. AEC mỗi năm có thể có thu nhập tăng thêm khoảng 100 tỷ USD. Nếu xét riêng từng
quốc gia, những tác động theo chủ thể hoặc lĩnh vực, ngắn hạn và dài hạn. Chính phủ của
các quốc gia chịu tác động đến nguồn thu thuế và các loại phí, lệ phí. Cơ cấu kinh tế có
sự chuyển dịch theo hướng phát triển các ngành có lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh.
Thể chế luật pháp, chính sách, cơ chế được hoàn thiện và các loại thủ tục được đơn giản
hóa cao nhất. Các doanh nghiệp chịu cạnh tranh do hàng hóa từ các nước thành viên di
chuyển tự do. Cả nền kinh tế và doanh nghiệp có sự tái cơ cấu để thích nghi. Người tiêu
dùng được hưởng lợi do giá cả thấp cũng như thu nhập được cải thiện. Một thị trường với

khoảng 625 triệu dân với thu nhập ngày càng tăng tạo tổng cầu lớn đối với tất cả các
nước thành viên.
Các lợi ích đối với doanh nghiệp còn được bộc lộ rõ nét ở việc hình thành chuỗi
giá trị ASEAN như chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng. Nếu các doanh nghiệp ASEAN có tất
các các khâu của chuỗi giá trị từ nghiên cứu, thiết kế đến sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trên
thị trường ASEAN có nghĩa là xuất hiên chuỗi giá trị trong ASEAN còn nều có bất cứ
một khâu thực hiện ngoài ASEAN có nghĩa là xuất hiện chuỗi giá trị giữa ASEAN với
phần còn lại của thế giới. Chẳng hạn, mặt hàng gạo hay đường được sản xuất tại Thái
Lan được bán lẻ tại các siêu thị, cửa hàng của các nước ASEAN khác là sự thể hiện chuỗi
giá trị hai mặt hàng này được hình thành trong ASEAN. Các sản phẩm được sản xuất
trong ASEAN được chính thực hiện ngay trong khu vực này. Còn nếu tiêu thụ ngoài
ASEAN thể hiện việc hình thành chuỗi giá trị liên khu vực và phản ánh sự hội nhập toàn
cầu của nền kinh tế các nước ASEAN. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có áp lực hội nhập
để đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo nhân lực, điều chỉnh chiến lược để thích nghi với
cạnh tranh, tối ưu hóa chi phí- lợi ích, quy mô thị trường, đổi mới sản phẩm, tổ chức lại
mạng lưới phân phối và tiêu thụ. Các loại chi phí giao dịch được loại bỏ, môi trường kinh
doanh được hình thành thống nhất trong AEC và khả năng cao lợi ích gia tăng được mở
rộng.
8


Cả cộng đồng AEC giảm thiểu được chi phí, tăng tổng cầu về đầu tư và tiêu dùng,
hình thành môi trường kinh doanh minh bạch, đơn giản, dễ tiếp cận, xây dựng lòng tin
lâu dài và vững chắc giữa các nước AEC. AEC tạo điều kiện hình thành cơ cấu kinh tế
khu vực thống nhất, tạo sức kháng cự với sự can thiệp của các thế lực từ bên ngoài đặc
biệt từ các nước lớn. Sự hình thành AEC thống nhất còn tạo nền tảng giải quyết triệt để
những vấn đề chưa thống nhất về an ninh- chính trị, thúc đẩy mở rộng giao lưu văn hóaxã hội, tạo nền tảng hình thành cộng đồng an ninh- chính trị, văn hóa- xã hội thống nhất
giữa các nước thành viên ASEAN.
Các bất lợi của việc tham gia AEC
Đối với các nước thành viên:

+ Phải đầu tư nhiều vào điều chỉnh chính sách và tổ chức lại bộ máy quản lý phù
hợp với những quan hệ kinh tế mới và cách ứng xử mới được hình thành đặc biệt là chính
sách tiền tệ- tài khóa, chính sách thuế, đầu tư công.Điều này đòi hỏi chi phí đáng kể và
thời gian.
+ Hoàn chỉnh thể chế vận hành để phù hợp với bộ quy tắc ứng xử mới trong
AEC. Các quy định pháp luật và thủ tục hành chính được điều chỉnh, sửa đổi và xây dựng
mới nhằm phù hợp với tình hình.
+ Điều chỉnh những sự khác biệt trong nhận thức và khắc phục chênh lệch đáng
kể về trình độ phát triển.
- Đối với doanh nghiệp:
+ Cạnh tranh găy gắt dẫn đến tình trạng bị thôn tín, lũng đoạn hoặc buộc phải
sáp nhập, mua lại thậm chí bị phá sản. Tính tương đồng càng cao, khả năng cạnh tranh
càng lớn do phải giành giật thị trường.
+ Tình trạng thất nghiệp có nguy cơ gia tăng, áp lực về việc làm lớn và thị
trường lao động có sự thay đổi đáng kể theo hướng phát triển phân khúc lao động có tay
nghề cao.
+ Khả năng bị thua lỗ lớn do thu hẹp thị trường và những đòi hỏi cao của người
tiêu dùng về chất lượng khó đáp ứng đầy đủ.
+ Dễ rơi vào tình trạng theo đuổi lợi ích ngắn hạn vì AEC mới thành lập cho nên
có nhiều cơ chế ưu đãi trong thời gian đầu thành lập có ảnh hưởng lớn đến chiến lược
phát triển của doanh nghiệp. Đồng thời do xu hướng tự do hóa thương mại diễn ra nhanh
chóng, nhiều cơ chế hợp tác và đối tác mới có sức thu hút cao hơn. Điều này gây ra áp
lực buộc doanh nghiệp đầu tư thêm công sức và chi phí để chuyển hướng phù hợp hoặc
tận dụng cả hai loại cơ chế.
- Đối với người tiêu dùng:
+ Ảnh hưởng đến văn hóa tiêu dùng do tác động của văn hóa giao lưu giữa các
thành viên, làm mất bản sắc văn hóa tiêu dùng bản địa.
+ Thúc đẩy việc chạy theo hàng ngoại nhập khẩu do đó làm giảm thói quen tiêu
dùng hàng sản xuất trong nước. Điều này có thể dẫn đến khả năng vô hiệu hóa những
công cụ hay biện pháp bảo hộ cần thiết và được phép của các nước AEC.

- Đối với toàn thể cộng đồng
9


+ Dễ dẫn đến tình trạng không khai thác hiệu quả mọi nguồn lực của từng nước
thành viên làm tăng sự lãng phí của toàn cộng đồng. Cơ chế khai thác và phân bổ nguồn
lực của AEC chưa thể hoàn thiện trong thời gian ngắn do AEC là một cơ chế đang trong
bước đầu thử nghiệm và sự trả giá là hiện tượng khó tránh khỏi.
+ Có thể bị các nước lớn chi phối chiến lược phát triển vì cả cộng đồng là một hệ
thống thống nhất với mục tiêu chiến lược thống nhất. Đồng thời, nếu sự liên kết hoặc
mức độ thống nhất không cao có thể bị các nước lớn chia rẽ, mục tiêu hình thành AEC
khó đạt được như mong đợi. Hiện tại, các nước thành viên trong AEC và với các nước
trong khu vực khác vẫn thiếu bộ quy tắc ứng xử (COC) cho nên những bất đồng còn có
thể xảy ra.
+ Khó có thể đối phó hiệu quả với những tác động bất lợi hoặc những cú sốc từ
bên ngoài như khủng hoảng, suy thoái…do thiếu cơ chế điều phối hiệu quả như thiếu
Ngân hàng phát triển AEC hay Quỹ tiền tệ AEC hay một đồng tiên chung AEC… Cuộc
khủng hoàng tài chính- tiền tệ Châu Á năm 1997 cho thấy tính phức tạp trong điều chỉnh
chính sách của các nước ASEAN.
+ Những ưu đãi vượt trội trong AEC có khả năng làm giảm vị thế đàm phán của
các nước trong AEC so với các quốc gia bên ngoài và tất yếu dẫn đến những thua thiệt
khó tránh khỏi đối với toàn khu vực thậm chí chịu áp lực lớn hơn từ bên ngoài.
Ngoài ra, còn có các loại bất lợi như biến dạng quan hệ thương mại, chuyển hướng
mậu dịch mang tính cục bộ bất lợi, ưu đãi lẫn nhau có thể làm giảm lợi ích tổng thể và lâu
dài của cả hệ thống và dễ bị các đối tác bên ngoài lợi dụng. Thể chế trong AEC chưa thực
sự là một tổ chức hay liên minh chặt chẽ của một cơ cấu kinh tế thống nhất mà chỉ dừng
lại ở những thỏa thuận dựa trên nguyên tắc nhất trí trong ASEAN. Điều này đang làm
phân tán đáng kể nguồn lực và mối quan tâm của các quốc gia đối với việc phát triển
AEC theo định hướng thống nhất cao. AEC chưa có chiến lược đón đầu để thành lập liên
minh kinh tế do đó, thể chế vẫn còn phải tiếp tục hoàn thiện trong giai đoạn tới như phải

thành lập nghị viện hoặc quốc hội, phát hành đồng tiền chung và sự phồi hợp chính sách
tài khóa- tiền tệ phù hợp.
4. Kinh nghiệm của một số nước trong tham gia AEC
Kinh nghiệm của Singapore
Singapore là quốc gia có năng lực cạnh tranh cao nhất AEC và là một trong 3 nền
kinh tế có năng lực cạnh tranh cao nhất thế giới trong nhiều năm. Các yếu tố cốt lõi của
AEC hầu như đã được Singapore đáp ứng đầy đủ. Singapore là quốc gia thực hiện giảm
thuể xuống 0% trong AFTA từ năm AFTA có hiệu lực (1993) do đó, chiến lược thích
nghi của Singapore với AEC vừa mang tính đón đầu vừa mang tính vượt trội. Để đón đầu
AEC, Singapore hoàn thiện thể chế theo kết quả đàm phán trong AEC. Thực tế Singapore
đi đầu trong hoàn thiện thể chế đặc biệt về luật pháp, chính sách và quy đinh. Singapore
thể hiện sự vượt trội về kinh tế đặc biệt trong việc phát hiện các thế mạnh đối với các
ngành có lợi nhuận cao và phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế của khu vực và thế
giới. Mặc dù Singapore có thế mạnh trong các ngành đóng tàu và chế tạo nhưng từ năm
2012, sau khi hoàn thành xây dựng và đưa vào vận hành thành công sòng bạc lớn thứ hai
thế giới, vốn đầu tư vào song bạc này được thu hồi sau 1 năm vận hành, Singapore có
chiến lược phát triển quốc gia thành trung tâm tài chính hàng đầu châu Á thậm chí đứng
đầu thế giới. Điều này đang tạo nền tảng để Singapore trở thành quốc gia dẫn dắt AEC về
lĩnh vực tài chính và tận dụng lợi ích của việc di chuyển đầu tư tài chính với lợi ích thu
10


được lớn hơn so với lợi ích được tạo ra từ thương mại. Để tăng uy tín trong AEC,
Singapore còn tham gia tích cực vào các vấn đề về an ninh- chính trị như đưa ra tuyên bố
phản đối Trung Quốc hạ đặt giàn khoan nước sâu HD 981 trái phép trong vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Singapore coi trong mở rộng các hoạt động giao
lưu văn hóa, giáo dục với các quốc gia trong AEC. Những thế mạnh đáng kể của
Singapore đang tạo đà để quốc gia này chủ động, tích cực hơn trong phát triển các quan
hệ nội bộ AEC và ngoài AEC
Kinh nghiệm của Thái Lan

Thế mạnh của Thái Lan là các mặt hàng nông sản và sản xuất các loại linh kiện
điện tử, ô tô. Trong AEC, Thái Lan có khả năng dẫn đầu về sản xuất và phân phối gạo
cũng như các sản phẩm linh kiện điện tử và cơ khí (ô tô, xe máy, xe đạp…) Trong AEC,
Thái Lan có thể trở thành quốc gia phát huy thế mạnh nền nông nghiệp công nghệ cao và
cung cấp các sản phẩm công nghiệp trung gian chất lượng tốt. Do đó, các quốc gia cũng
có thế mạnh về nông nghiệp sẽ không cạnh tranh trực tiếp với Thái Lan mà cạnh tranh
trên các đoạn thị trường rất khác nhau chủ yếu ở đoạn thị trường có trình độ công nghệ
trung gian trong sản xuất sản phẩm nông nghiệp thậm chí sản xuất theo phướng pháp thô
sơ.
Để duy trì thị trường gạo bền vững, Thái Lan sử dụng chính sách trợ giá nông sản
với mức trợ giá trung bình mối hộ nông dân trồng lúa vào khoảng 20.000 USD từ năm
2012. Điều này đang tạo lợi thế trong khống chế nguồn cung gạo của Thái Lan để nhằm
tăng giá gạo Thái Lan cũng như để tăng giá trị thương hiệu hàng nông sản của quốc gia
này. Cách ứng xử này đang từng bước gia tăng đẳng cấp của các mặt hàng nông sản của
Thái Lan trước các mặt hàng nông sản các nước khác trong khu vực khi hình thành mạng
sản xuất gạo trong AEC.
Tuy nhiên, để ứng phó với tình hình lao động Việt Nam và Lào sang làm việc tại
Thái Lan dưới danh nghĩa khách du lịch, từ tháng 8/2014, Thái Lan đưa ra quy định bắt
buộc lao động di cư từ Việt Nam nếu không chứng minh được mục đích du lịch phải xin
thị thực nhập cảnh. Có thể nói đây là một phản ứng về chính sách mang tính đón đầu của
Thái Lan nhằm giảm thiểu dòng lao động di chuyển từ Việt Nam và Lào sang Thái Lan
khi AEC thành lập.
Trong điều kiện Việt Nam có xu hướng giảm sự phụ thuộc vào thị trường và hàng
hóa Trung Quốc, một tập đoàn Thái Lan đã nhanh chóng mua lại hệ thống Metro Cash &
Carry tại Việt Nam như là việc hình thành hệ thống phân phối hàng Thái Lan tại Việt
Nam để thay thế dần hàng Trung Quốc khi thành lập AEC.
Kinh nghiệm của Ma-lai-xia
Ma-lai-xia quan tâm nhiều đến phát triển công nghệ cao trong công nghiệp như
công nghiệp máy tính, phần mềm cũng với sản phẩm chế tạo. Với chiến lược đầu tư vào
công nghiệp nặng và công nghiệp tàu thủy, Ma-lai-xia đóng vai trò dẫn đầu AEC về lĩnh

vực chế tạo và sản xuất linh kiện chất lượng cao về ô tô, xe máy, sản phẩm điện tử. Các
mặt hàng điện tử của Ma-lai-xia có độ tin cậy cao nhất trong AEC. Chiến lược chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của Ma-lai-xia đang tạo ảnh hưởng lớn đến toàn AEC đặc biệt là việc
hình thành mạng sản xuất công nghiệp nội bộ AEC với sự dẫn đầu của Ma-lai-xia. Thế
mạnh của Ma-lai-xia được phát huy bằng cơ chế mới của AEC. Hiện tại Ma-lai-xia đang
chuẩn bị thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình để hướng tới quốc gia có thu nhập cao với
11


thu nhập bình quân đầu người 11.000 USD (năm 2013). AEC chắc chắn sẽ là thể chế hỗ
trợ Ma-lai-xia trở thành nước công nghiệp.
Kinh nghiệm của In-đô-nê-xia
In- đô-nê-xia coi trọng việc phát triển mạnh lĩnh vực ngân hàng và thực tế cho
thấy lĩnh vực ngân hàng của In-đô-nê-xia có tỷ suất lợi nhuận cao nhất thế giới trong năm
2013. In-đô-nê xia có chiến lược phát triển lĩnh vực ngân hàng theo hướng nâng cao năng
lực cạnh tranh và thường xuyên đề cao hiệu quả kinh doanh. Các ngân hàng In-đô-nê-xia
có khả năng cạnh tranh hiệu quả với các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại In-đônê-xia. Với thành công trong phát triển lĩnh vực ngân hàng, In-đô-nê-xia sẽ coi trọng đầu
tư vào lĩnh vực ngân hàng ở nước ngoài trước hểt trong AEC và coi đó là hướng đầu tư ra
nước ngoài được cân nhắc trong dài hạn khi những lợi thế tự nhiên và có sẵn đang giảm
dần. Sự phát triển lĩnh vực ngân hàng cho thấy có sự thay đổi cơ bản trong chiến lược
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của In-đô-nê-xia. Việc hoàn thiện thể chế của AEC vừa là
điều kiện vừa là động lực để lĩnh vực ngân hàng In-đô-nê-xia phát triển cả về quy mô và
hiệu quả do những thế mạnh nổi trội của nó so với lĩnh vực này ở các quốc gia khác. Hơn
nữa, do AEC chỉ là khuôn khổ của các cam kết, thiếu những ràng buộc chặt chẽ về pháp
lý hay thể chế cho nên ngân hàng In-đô-nê-xia có thể triệt để phát huy lợi thế cạnh tranh
để mở rộng thị trường trong AEC.
Từ một số kinh nghiệm của các quốc gia trên đây có thể thấy AEC đang mở ra
điều kiện phát triển mới của các quốc gia. Mỗi quốc gia đều có chiến lược chuẩn bị hay
đón đầu bằng phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn hay những ngành có lợi thế so sánh
lớn và khả năng cạnh tranh cao. Do đó, cần có cách nhìn nhận mới dựa trên các nền tảng

phát triển mới nhằm hình thành chiến lược phát triển tối ưu trong AEC.
5. Tình hình Việt Nam trong AEC
Khái quát vị thế Việt Nam trong ASEAN
Việt Nam gia nhập ASEAN vào ngày 28/7/1995 và tuân thủ nghiêm túc các
nguyên tắc hoạt động của ASEAN, các cam kết được phê chuẩn và tham gia hầu hết các
sự kiện trong ASEAN. Vị thế nền kinh tế Việt Nam trong ASEAN ngày càng gia tăng.
Số liệu của Ban thư ký ASEAN năm 2013 cho thấy Việt Nam có diện tich đất
chiếm tỷ trọng 7,461% tổng diện tích đất của toàn ASEAN, dân số chiếm 14,383%, GDP
chiếm 7,139% nhưng GDP bình quân đầu người tính theo giá hiện hành chỉ bằng
49,748% của mức trung bình toàn ASEAN. (xem Bảng 3) Chỉ số lợi thế so sánh tổng thể
của Việt Nam trong AEC có khả năng được cải thiện nếu có sự chuyển hướng thương
mại phù hợp. Trong giai đoạn 2010-2013, tốc độ tăng trưởng FDI trung bình của Việt
Nam nằm trong khoảng 5,5%-6%/năm tương đương với tốc độ tăng trưởng GDP của cả
AEC cùng giai đoạn.

12


Bảng 3: Tỷ trọng của Việt Nam trong ASEAN về một số chỉ tiêu cơ bản năm
2013

Đơn vị
tính
Việt
Nam
ASEAN
Tỷ
trọng
(%)


Diện tích

Dân số

GDP (giá
hiện hành)

GDP
bình
quân
(giá
hiện
hành)

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Tổng kim
ngạch xuấtnhập khẩu

FDI
vào

Km2

Nghìn
người

Đô la Mỹ


Đô la
Mỹ

Nghìn đô la

Nghìn đô la

Nghìn đô la

Tỷ đô
la

330.951

88.772,90

171.219,30

1.908,60

132.664,10

132.109,90

264.774,00

8,90

4.435.617


617.165,10

2.398.153,70

3.836,50

1.270.466,0

1.239.659,90

2.510.126,70

119,75

7,461

14,383

7,139

49,748

10.442

10,656

10,548

7,431


Nguồn: Ban thư ký ASEAN và tính toán của tác giả
Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN khác đạt
18,4 tỷ USD và nhập khẩu đạt 21,35 tỷ USD. Thị trường ASEAN ít gây ra các loại rủi ro
hơn đối với hàng hóa xuất- nhập khẩu của Việt Nam so với thị trường Trung Quốc. Sau
sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trên thềm lục địa và vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam, việc giảm thiểu sự phụ thuộc của Việt Nam vào thị trường
Trung Quốc đang làm tăng thêm sự chú ý của Việt Nam vào thị trường ASEAN.
Những lợi ích và bất lợi đặc thù đối với Việt Nam
Các loại lợi ích
- Giảm bớt rủi ro trong xuất- nhập khẩu từ việc giảm thiểu sự phụ thuộc quá lớn
vào thị trường Trung Quốc, tăng sự thay thế của thị trường ASEAN đối với thị trường
Trung Quốc.
- Tạo cơ hội để Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng
khu vực trước hết là chuỗi cung ứng giá trị hàng nông sản và các sản phẩm chế tạo trung
gian. Điều này, một mặt, gia tăng khả năng sáng tạo giá trị nghĩa là làm tăng GDP; mặt
khác, cải thiện năng lực cạnh tranh, khai thác hiệu quả nguồn lực bên trong và bên ngoài
cũng như tạo lợi thế theo quy mô. Việc làm và thu nhập của dân cư tăng lên và người tiêu
dùng Việt Nam có cơ hội lớn hơn để tiêu dùng nhiều loại hàng hóa được sản xuất trong
ASEAN.
- Thúc đẩy quá trình thực hiện các đột phá chiến lược để đửa Việt Nam về cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng và phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển khoa học- công nghệ. Đường lối hội nhập quốc
tế chủ động, tích cực được thực hiện thành công.
- Tăng cường sự hiểu biết toàn diện giữa Việt Nam và các nước thành viên AEC
khác, mở rộng giao lưu văn hóa- xã hội giữa các quốc gia, tạo điều kiện để phát huy các
13



giá trị và bản sắc Việt Nam trong AEC, hofp phần giảm bớt sự khác biệt trong nhận thức
và trình độ phát triển.
Những bất lợi
- Cạnh tranh gia tăng do tính tường đồng khá cao trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
và mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài.
- Các chính sách kinh tế vĩ mô dễ bộc lộ hạn chế khi hình thành cơ cấu đầu tư, sản
xuất và thương mại khu vực với quy mô lớn.
- Đội ngũ lao động Việt Nam thiếu tay nghề cao, năng suất lao động không cao
(năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn ở Ma-lai-xia 7 lần và thấp hơn 15 lần so với
Sing-ga-po) và hạn chế về kỷ luật lao động so với đội ngũ này ở các nước ASEAN khác
như Sing-ga-po, Ma-lai-xia, Phi-lip-pin…có thể rơi vào tình trạng mất việc làm, khả năng
đáp ứng với thị trường lao động trong AEC thấp, tiền lương thấp thậm chí có thể bị thất
nghiệp.
Một số giải pháp gia tăng lợi ích và hạn chế bất lợi trong AEC của Việt Nam
Đối với nhà nước
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp lý, chinh sách và quy định để chủ
động, tích cực hội nhập theo chiều sâu trong AEC. Thể chế cần được hoàn thiện theo
hướng không chỉ phù hợp với những khuôn khổ được các quốc gia xác định mà còn cần
có tính đón đầu ở mức độ phù hợp, đặc biệt là xu hướng mở rộng và phát triển theo chiều
sâu liên kết kinh tế và hội nhập .
Thứ hai, phát triển các quan hệ phối hợp chính sách với từng đối tác thành viên
AEC để tạo khả năng thích nghi lẫn nhau song phương có hiệu quả. Trước mắt, cần coi
trọng phát triển quan hệ đối tác chiến lược song phương với các nước trong AEC nhằm
tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc và lòng tin lâu dài, toàn diện và bền vững giữa Việt
Nam với các nước trong AEC. Dựa trên các quan hệ đối tác chiến lược được xây dựng,
cần đẩy mạnh việc đàm phán, ký kết các hiệp định song phương như các hiệp định
thương mại và đầu tư song phương, hiệp định hợp tác xuất- nhập khẩu sức lao động, hiệp
định về hợp tác ngân hàng- tài chính…
Thứ ba, cần khai thác tính khác biệt giữa các quy định trong AEC cũng như các
quy định trong các hiệp định thương mại, đầu tư, đối tác kinh tế được ký kết giữa các

nước trong AEC với các nước ngoài AEC. Vai trò trung tâm của Ủy ban quốc gia về hội
nhập kinh tế quốc tế nhằm liên kết các bộ, ban, ngành của Việt Nam cần được phát huy
trong việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.
Thứ tư, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng
sang chiều sâu để hạn chế những tác động bất lợi và tối đa hóa những lợi ích đạt được,
đồng thời tạo khả năng đón đầu trong phát triển kinh tế.
Thứ năm, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giữa Việt Nam với các nước trong
AEC để hàng hóa, dịch vụ, vốn đầu tư và lao động có kỹ năng được di chuyển thuận lợi,
tự do. Bên cạnh giao thông đường bộ, hàng không, đường thủy, đường sắt nối Việt Nam
với các nước thành viên AEC còn chú ý hoàn thiện hệ thống thủ tục thông quan hàng
hóa, dịch vụ và thủ tục xuất- nhập cảnh theo hướng hiện đại, đơn giản hóa, tối thiểu hóa
thời gian và chi phí giao dịch. Điều này đòi hỏi việc xây dựng quy hoạch hệ thống giao
thông Việt Nam kết nối hiệu quả, tối ưu với các nước trong AEC.
14


Đối với doanh nghiệp
1. Thường xuyên theo dõi biến động của thị trường AEC để hiểu rõ xu hướng vận
động trong ngắn hạn và dài hạn, lựa chọn mặt hàng, dịch vụ để xuất khẩu và nhập khẩu
phù hợp.
2. Đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc để mở rộng quy mô, tiết kiệm chi phí và nâng
cao năng lực cạnh tranh trong AEC. Xây dựng chuỗi cung ứng trong AEC để tận dụng cơ
hội liên kết nội khối, tăng lợi nhuận và tận dụng các ưu đãi lẫn nhau.
3. Tự đổi mới công nghệ hoặc sử dụng đầu tư nước ngoài để hiện đại hoá dây
chuyền sản xuất nhằm sản xuất sản phẩm có chất lượng cao, giá cả hạ và thương hiệu
mạnh để thích nghi với AEC. Đồng thời, coi trọng việc phát triển nguồn nhân lực có khả
năng làm việc với các đối tác AEC vê chuyên môn, ngoại ngữ, khả năng hợp tác và trình
độ học hỏi.
Đối với các đối tượng hữu quan khác
Đối với người tiêu dùng, trong điều kiện các hàng rào thương mại bị loại bỏ,

hàng hóa, dịch vụ từ các nước AEC di chuyển vào Việt Nam với khối lượng lớn với giá
cả cạnh tranh, hàng Việt Nam có thể bị hàng ngoại lấn át. Chính vì thế cuộc vận động
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng và dịch vụ Việt Nam” cần được coi trọng và đề cao.
Đối với các tổ chức chính trị-xã hội, hội, hiệp hội như hội như hội nông dân, tổ
chức công đoàn, hội bảo vệ người tiêu dùng cần chú trọng bảo vệ quyền lợi của nông
dân, công nhân, người tiêu dùng để giảm thiểu các lợi ích bị thua thiệt.
6. Kết luận
Việc thành lập AEC là một bước tiến quan trọng trong xu hướng liên kêt quốc tế
ngày càng phổ biến và có ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế của từng quốc gia và cả
cộng đồng. Tuy nhiên, giữa lợi ích thu được và bất lợi của sự thành lập AEC, lợi ích thu
được vẫn lớn hơn và đó là động lực thúc đẩy từng quốc gia thành viên cũng như cả cộng
đồng tăng cường hợp tác cả về chiều rộng và chiều sâu.
Việt Nam là thành viên của AEC và việc tham gia AEC tạo ra lợi ích cũng như
dẫn đến những bất lợi nhất định. Vấn đề là cần nhận thức sâu sắc chúng để có giải pháp
tối ưu với tùng chủ thể.

15


Tài liệu tham khảo
1.
ASEAN Secretariat, ASEAN Economic Community Bulletin
( />2.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI. Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia.
3.
Gregory Emeka Kwentua (2006), Trade creation and trade diversion effects on the
EU- South Africa free trade agreement ( />4.
Ho Sze Yin, Trade creation and diversion effects of ASEAN Free Trade
Area, ( )

5.
Alejandro Foxley (2008), Regional Trade Blocs- The way to the future?
( />6.
Kabeer MUHAMMAD, Aycil YUCER, (2009), Impact of Regional Trade
agreements: Trade creation and Trade diversion in Western Hemisphere,
( />7.
Katarina Goude, (2004), The fisrt, The fattiest, The best, ( />8.
Luciana Fonseca Damasceno Vieira (2001), The effect of preferential trade
agreement in the economy of the countries involved: The case of MERCOSUR
( />9.
Mary E. Burfisher, Sherman Robinson, and Karen Thierfelder (2004),
Regionalism: old and new, theory and practice, Discussion Paper No.65.
( />10.
Anthony T. Thrilwall, Trade, trade liberalization and economic growth: Theroy and
Evidence ( />11.
Philippe De Lombaerde, Luk Van Langenhove (2005), Indicators of
regional integration: methodological issues
(file:///C:/Documents%20and%20Settings/Admin/My%20Documents/Downloads/0deec5
2206d85dea5b000000.pdf)
12.
Richard G. Lipsey (1957), The theory of customs union: trade diversion
and wealfare, Economica, New Series, Vol.24. No.93. (Feb., 1957), pp.40-46.
13.
Ricardo Arguello (2000), Economic Integration: An overview of basic
economic theory and other related issues
( />14.
Vicent Vicard, On trade creation and regional trade agreements: does depth matter?
( />15.
WTO Trade Report (2011), Causes and effects of PTAs: Is it all about
preferences? ( />

16



×