Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học
HÌNH ẢNH XOANG BƯỚM TRÊN CT SCAN
Nguyễn Hữu Dũng*
TÓM TẮT
Trong nghiên cứu này, chúng tôi nêu lên những dạng giải phẫu của xoang bướm và các liên quan
của nó dựa trên 65 trường hợp chụp phim CT scan xoang bướm.
Kết quả: có 3 loại thông bào xoang bướm: loại xoang bướm có thông bào nhỏ có 4 trường hợp chiếm
6%, loại xoang bướm có thông bào trung bình có 18 (28%) trường hợp, loại xoang bướm có thông bào lớn
có 43 trường hợp chiếm 66%. Trong khi lồi động mạch cảnh vào lòng xoang bướm có đến 44 trường hợp
(67%), chỉ có 22 trường hợp (34%) ống thò lồi vào thành trên ngoài xoang bướm, trong đó có 3 trường hợp
dây thần kinh thò bò bộc trần. Vách ngăn liên xoang bướm đính vào lồi động mạch cảnh trong 12 trường
hợp (18%).
Kết luận: Với những hình ảnh xoang bướm ghi nhận được trên CT scan giúp phẫu thuật viên đánh
giá được hình dạng cấu trúc xoang bướm và các liên quan của nó để chọn phương pháp phẫu thuật nội
soi thích hợp nhằm tránh tối đa các biến chứng nguy hiểm.
SUMMARY
CT IMAGING OF THE SPHENOID SINUS
Nguyen Huu Dung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of No 1 * 2004: 22 – 27
In our study, we would like to present normally anatomical variants of sphenoid sinuses and their
relations to surrounding structures, by using CT scan images of 65 circumstances.
Results: There are three types of sphenoid pneumatization: 4 cases of the small sphenoid sinus out of 65
(6%), 18 average (28%) and 43 large (66%). While the prominence of the internal carotid artery on the
sphenoid sinus wall is found in 44 cases, which makes up 67%, there are only 22 cases (34%) of optic canal
protrude into the superolateral part of the sphenoid sinus, in which there are 3 cases (5%) of optic nerves
dehiscent. 12 cases of the intersinusal septum terminates at the bulge of the internal carotid artery.
Conclusion: CT scan images provide valuable preoperative information about sphenoid sinuses
regarding morphology and relationships, which lead to more focus on endoscopically surgical procedures
and help to avoid significantly serious complications as well.
Đối tượng nghiên cứu
Chọn 65 phim CT của 65 người không có bệnh
xoang bướm, không bò chấn thương hàm mặt hoặc sọ
não trước đó. Phim được chụp theo hai mặt cắt: (1)
mặt cắt trán (coronal) (Hình 1) và (2) mặt cắt nằm
ngang hay mặt cắt trục (axial) (Hình 2), mỗi mặt cắt
cách nhau 5mm.
Hình 1: Các lớp cắt theo mặt cắt trán
* Bộ môn Tai Mũi Họng - ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh
Chuyên đề Tai Mũi Họng - Mắt
22
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
Hình 2: Các lớp cắt theo mặt cắt trục
Phương pháp nghiên cứu
Xác đònh độ lớn của xoang bướm dựa vào sự
thông bào của nó trên các lớp cắt của 2 mặt cắt:
(1) mặt cắt trán (coronal) và (2) mặt cắt trục
(axial), mỗi lớp cắt cách nhau 5mm. Trong mặt cắt
trục, có một lớp cắt chính đi qua ống thò, một lớp
đi qua chỗ bám của chân bướm vào cánh lớn xương
bướm. Trong mặt cắt trán, có một lớp cắt đi qua
mỏm yên trước, một lớp cắt đi qua mỏm yên sau,
một lớp đi qua đầu sau ống thò.
* Xoang bướm nhỏ: trên các lớp cắt nằm
ngang, thành ngoài xoang bướm không vượt ra
khỏi ống thò, thành sau không ra tới mặt phẳng
giữa mấu yên trước và sau; trên các lớp cắt bình
diện vòng cung, thành ngoài xoang bướm không
vượt quá bờ trong chân bướm, thành trên không
vượt quá mặt phẳng giữa vòm họng và sàn hố yên.
*Xoang bướm lớn: trên các lớp cắt nằm ngang,
thành ngoài xoang bướm vượt ra khỏi ống thò,
thành sau vượt ra khỏi mặt phẳng giữa mấu yên
trước và sau; trên các lớp cắt theo mặt phẳng trán,
thành ngoài xoang bướm vượt quá bờ trong chân
bướm hoặc thông bào xuống cả chân bướm, thành
trên đến sát sàn hố yên.
*Xoang bướm trung bình: nằm giữa các tiêu
chuẩn xoang bướm nhỏ và xoang bướm lớn.
2.2. Đánh giá sự liên quan của động mạch
cảnh trong và thần kinh thò với xoang bướm.
KẾT QUẢ
Sự thông bào của xoang bướm:
Bảng 1: Sự thông bào của xoang bướm
n = 65 Tỉ lệ
Nhỏ 4 6%
Trung bình 18 28%
Lớn 43 66%
Thông bào đến mảnh nền thông bào ra đến cánh
bướm lớn
Hình 3: xoang bướm lớn
Hình 4: xoang bướm nhỏ
Hình 5: xoang bướm rất lớn:
Chuyên đề Tai Mũi Họng - Mắt
23
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học
Hình 6: xoang bướm rất lớn
Trên lát cắt theo mặt phẳng trán
(coronal):
+ Xoang bướm nhỏ: bờ ngoài xoang bướm không
vượt quá mặt phẳng đi qua ngành trong chân bướm.
+ Xoang bướm lớn: bờ ngoài xoang bướm vượt
quá mặt phẳng đi qua ngành trong chân bướm.
Trên lát cắt theo mặt phẳng nằm ngang (axial):
Xoang bướm nhỏ: bờ sau xoang bướm không vượt
quá mặt phẳng đi qua hai mấu yên trước.
Xoang bướm lớn: bờ sau xoang bướm vượt quá
mặt phẳng đi qua hai mấu yên sau.
Bảng 2: Vách liên xoang bướm
N=65 Tỉ lệ
1 vách 27 41%
1 vách + vách phụ bên trái 22 34%
Số lượng
1 vách + vách phụ bện phải 16 25%
Lệch trái 35 53%
Lệch
Lệch phải 30 47%
Vách đính ở vò trí động mạch cảnh trong 12 18%
Nhận xét : Khi có vách ngăn phụ, vách ngăn
chính thường nằm lệch một bên, khi đó xoang
bướm một bên rất lớn một bên rất nhỏ. Vách ngăn
phụ nằm ở xoang lớn và không ngăn kín hoàn toàn
xoang này. Chúng tôi cũng nhận thấy khi có 2
vách ngăn, vách ngăn chính và phụ thường đính
vào vò trí của động mạch cảnh trong (Hình 7 và 8)
và cả thần kinh thò.
Hình 7 và 8: Vách liên xoang bướm đính trên lồi
động mạch cảnh trong.
Bảng 3: Lồi động mạch cảnh trong vào lòng xoang
bướm
Mức độ Số ca Tỉ lệ
1/3 đường kính 12 18%
1/2 đường kính 26 40%
2/3 đường kính 6 9%
Tổng cộng 44 67%
Bảng 4: Lồi thần kinh thò vào lòng xoang bướm
Mức độ Số ca Tỉ lệ
1/3 đường kính 9 14%
1/2 đường kính 6 9%
2/3 đường kính 4 6%
phơi trần hoàn toàn 3 5%
Tổng cộng 22 34%
Nhận xét: Lồi thần kinh thò vào lòng xoang
bướm (Hình 11 và 12) chiếm tỉ lệ 29% ít hơn lồi
động mạch cảnh trong. Có 3 trường hợp thần kinh
thò nằm hẳn trong xoang không có lớp xương bảo
vệ (Hình 13 và 14).
Chuyên đề Tai Mũi Họng - Mắt
24
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
Hình 9 và 10: Lồi động mạch cảnh trong vào xoang
bướm (mũi tên).
Hình 11 và 12: Lồi thần kinh thò vào lòng xoang
bướm.
Hình 13 và 14: Thần kinh thò nằm trong lòng xoang
bướm.
BÀN LUẬN
Kỹ thuật chụp C.T scan ra đời như một cuộc cách
mạng trong chẩn đoán hình ảnh
(2,8,9,13)
.
Phim CT giúp khảo sát chi tiết các xoang và hốc
mũi nơi có phức hợp lỗ thông mũi xoang, được xem
là chìa khóa trong chẩn đoán và điều trò viêm xoang
mạn tính. Nhờ thực hiện được nhiều lát cắt ở hai mặt
cắt: mặt cắt trán (coronal) và mặt cắt nằm ngang
(axial), thầy thuốc đánh giá chính xác vùng thương
tổn và hướng dẫn cho phẫu thuật nội soi
(12,13)
.
Từ khi có phim CT, xoang bướm được khảo sát
đầy đủ hơn về hình dạng, kích thước cũng như các
liên quan của nó. Hình dạng xoang bướm thật đa
dạng và có nhiều ngóc ngách. Theo Ramón
(8)
, trên
phim CT thấy các xoang bướm thường không đối
xứng do vách ngăn liên xoang lệch về một bên. Sự
thông bào của xoang bướm thường rộng, lan đến
chân bướm-khẩu cái, phần sau vách ngăn, phần sau
hố yên hoặc mảnh nền
(1)
. Do sự thông bào quá mức
này, có thể làm một số cấu trúc bò hở không có xương
bảo vệ như thần kinh thò, thần kinh hàm trên, động
Chuyên đề Tai Mũi Họng - Mắt
25
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học
mạch cảnh trong (Hình 7, 8, 9 và 10).
Trong 65 trường hợp khảo sát xoang bướm trên
phim CT của chúng tôi, xoang bướm có thông bào lớn
chiếm tỉ lệ cao nhất với 66%, tỉ lệ này gần với tỉ lệ của
các tác giả Congdon 67%
(3)
, Kevin 67%
(6)
, Lang
76%
(7)
. Xoang bướm lớn thông bào chiếm phần lớn
thân xương bướm, có xoang thông bào tận chân
bướm và các mấu yên trước cũng như mấu yên sau.
Số lượng và vò trí vách ngăn liên xoang bướm rất
thay đổi
(3)
. Vách ngăn phụ khá nhiều, trong nghiên
cứu chúng tôi có 59% trường hợp. Khi có vách ngăn
phụ, vách ngăn chính thường nằm lệch một bên, khi
đó xoang bướm một bên rất lớn, bên đối diện rất nhỏ.
Vách ngăn phụ nằm ở xoang lớn và không ngăn kín
hoàn toàn xoang này. Chúng tôi cũng nhận thấy khi
có 2 vách ngăn, vách ngăn chính và phụ thường đính
vào vò trí của động mạch cảnh trong và cả thần kinh
thò. Trong trường hợp chỉ có một vách ngăn, vách
ngăn này nằm lêch một bên, vách ngăn này cũng
thường đính vào động mạch cảnh trong (12%). Điều
này giải thích nguyên nhân tổn thương động mạch
cảnh trong gây chảy máu ồ ạt trong một số trường
hợp chấn thương vỡ sàn sọ. Vì vậy khi phẫu thuật
xoang bướm phải cân nhắc khi lấy đi vách ngăn
xoang (để làm thông thương hai xoang bướm hoặc
trong phẫu thuật lấy u tuyến yên), nên khảo sát trên
phim CT xem vách ngăn có đính vào động mạch
cảnh trong hoặc thần kinh thò hay không.
Lồi động mạch cảnh trong vào lòng xoang bướm
chiếm tỉ lệ khá cao: theo Van Alyea 65%
(11)
, theo Lang
là85,7%
(7)
, số liệu của chúng tôi là 67%. Theo
Kennedy
(5)
có 25% trường hợp động mạch cảnh trong
phơi trần trong xoang không có vỏ xương bảo vệ,
Fujii
(4)
có 8%, Sethi
(10)
có 7%. Trong nghiên cứu của
chúng tôi không ghi nhận được trường hợp nào.
Chúng tôi nhận thấy lồi động mạch cảnh trong và lồi
thần kinh thò gặp trong những xoang có kích thước
lớn và ở bên xoang có thể tích lớn hơn.
Lồi thần kinh thò vào lòng xoang bướm chiếm tỉ
lệ ít hơn lồi động mạch cảnh trong, theo Van Alyea là
40%
(11)
và Lang là 19%
(7)
, số liệu chúng tôi là 29%.
Trong công trình nghiên cứu về sự liên quan giữa
mạch máu và thần kinh với xoang bướm Fujii
(4)
đã
tìm thấy có 4% thần kinh không có ống xương,
Sethi
(10)
tìm thấy 3%. Trong lô nghiên cứu của chúng
tôi có 5% (3 trường hợp) thần kinh thò nằm hẳn trong
xoang không có lớp xương bảo vệ.
KẾT LUẬN
Khảo sát xoang bướm trên phim CT cho thấy
xoang bướm có hình dạng và kích thước rất thay đổi
do sự thông bào của nó, trong đó xoang bướm lớn
chiếm đa số. Liên quan giữa xoang bướm với động
mạch cảnh trong và thần kinh thò rất đa dạng: vách
ngăn liên xoang bướm có thể đính ngay vào lồi động
mạch cảnh trong hoặc thần kinh thò; đáng lưu ý nhất
là độ lồi của động mạch cảnh trong và thần kinh thò
vào xoang bướm, có trường hợp động mạch cảnh
trong và thần kinh thò nằm lọt vào trong xoang bướm
và không có lớp xương bảo vệ. Trước khi phẫu thuật
xoang bướm hoặc phẫu thuật tuyến yên, ngoài việc
đánh giá bệnh tích các cơ quan này, phẫu thuật viên
cần quan sát các liên quan trên với xoang bướm
nhằm tránh biến chứng đến mức tối đa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1). Calhoun KH, Rotzer WH and Stiernberg CM (1990),
“Surgical anatomy of the lateral nasal wall”,
Otolarygol Head and Neck Surg, 1032, pp. 156-160.
(2). Chong V.F.H., Fan, Y. F. Sethi, D.S. (1998), “Funtional
Endoscopic Sinus Surgery: What Radiologists Need to
Know”, Clinical Radiology, Vol. 53, pp. 650-658.
(3). Congdon E.D (1920), “The distribution mode of origin of
septa and walls of sphenoid sinus”, Anat Rec, Vol. 18,
pp.142-146.
(4). Fujii K, Chambers SM, Rhoton AL (1979),
“Neurovascular relationships of the sphenoid sinus”,
Journal Neurosurg,V.50, p.31-39.
(5). Kennedy DW, Zinreich SJ (1990), “The internal carotid
artery as it relates to endonasal
sphenoethmoidectomy”, Am. J. Rhinol. Vol. 4, pp.
(6). Kevin Katzenmeyer, Byron J Bailey (2000), “Aproaches
to the sphenoid”, Grand Rounds Presentation, UTMB,
Dept. of Otolaryngology.
(7). Lang J (1989), “Clinical anatomy of the nose, nasal
cavity and parasinuses”, Thieme Medical Publishers,
Inc.,New York, pp. 85-98
(8). Ramón E. Figueroa (1997), “Radiologic anatomy of the
paranasal sinuses”, NXB Williams & Wilkins,
Maryland, USA, pp. 27-44.
(9). Scott C. Manning (1997), “Computed Tomography and
Magnetic Resonance Diagnosis of allergic fungal
sinusitis”, Laryngoscpe, Vol. 107, pp. 170-176.
Chuyên đề Tai Mũi Họng - Mắt
26