Chiến tranh Việt-Chiêm 1069
Chiến tranh Việt-Chiêm 1069 là cuộc chiến do nhà Lý phát động năm 1069 nhằm đánh
Vương quốc Champa ở phương Nam với lý do người Chăm từ chối thần phục nhà Lý. Nhà
Lý gọi cuộc chiến này là Chiến dịch phạt Chiêm 1069.
Hoàn cảnh lịch sử
Từ khi Đại Việt giành được độc lập (thế kỷ thứ 10) việc đánh Chiêm Thành thường được
các vua Lý tiến hành mỗi khi Chiêm Thành bỏ việc tiến cống và thông sứ hoặc quấy nhiễu
các vùng biên giới trên bộ và ven biển Đại Việt.
Năm Giáp Thân (1044), Lý Thái Tông đã đánh Chiêm Thành với lý do nước này bỏ thông
hiếu, phá quốc đô Phật Thệ và giết chúa Xạ Đẩu.
Sang thời Lý Thánh Tông, năm 1065 - 1069, Champa bỏ cống. Vua Thánh Tông lại đem
quân Nam chinh. Nhưng một vài sử gia cho rằng tới giai đoạn lịch sử này cuộc đánh
Chiêm chẳng phải riêng vì việc đoạn tuyệt giao hiếu, mà do Đại Việt bắt đầu thi hành
chính sách mở rộng biên giới, dựa vào chỗ Champa có tinh thần bất khuất chống đối đối
với Đại Việt và lại lén lút thần phục nhà Tống
[1]
.
Quốc vương Chế Củ (Rudravarman III) muốn dựa vào nhà Tống để chặn bước tiến của Đại
Việt, xin thần phục và được vua Tống Thần Tông giúp đỡ, cho ngựa trắng và cho phép họ
mua lúa ở Quảng Châu, Champa không tiếp tục nạp cống cho Đại Việt nữa. Mọi hành
động của Champa đều bị người Việt cho là khiêu khích họ
[2]
.
Diễn biến
Năm 1068 vua Lý Thánh Tông sửa soạn thêm chiến thuyền (việc giao thông từ thành Phật
Thệ tới Đại Việt bằng đường núi theo lời sứ Chiêm tâu với vua Tống phải mất 40 ngày.
Vua nhà Tiền Lê trước đây có đào tân cảng và sửa chữa đường sá nhưng xét ra dùng thủy
đạo vẫn dễ dàng cho việc chuyển quân hơn. Lực lượng quân sự của Lý triều tất cả có
chừng 200 chiếc thuyền, Lý Thường Kiệt được làm Đại tướng đi tiên phong, em Thường
Kiệt là Lý Thường Hiến giữ chức Tán kỵ Võ úy.
Ở triều bấy giờ Lý Thánh Tông giao cho Nguyên phi Ỷ Lan và Thái sư Lý Đạo Thành
trông coi việc nước. Bảy ngày sau khi rời khỏi Thăng Long các đạo quân Việt đã có mặt ở
Nghệ An, ba ngày sau tới phía Nam núi Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh), vào hải phận Champa.
Năm ngày sau Lý Thường Kiệt tới cửa Nhật Lệ là nơi tập trung của thủy quân Champa.
Tại Nhật Lệ, một nhóm nhỏ thủy quân Chăm xông ra chặn giặc. Tướng của quân Lý là
Hoảng Kiệt đánh lui họ rồi tiến về phía Nam không bị ngăn trở, mục đích của quân Đại
Việt là tiến thẳng tới thành Phật Thệ phá kinh đô và bắt quốc vương. Bốn ngày sau nữa tới
cửa Tư Dung nay gọi là Tư Hiền là cửa sông vào các phá và sông thuộc Quy Nhơn ngày
nay. Quân Lý mất ba ngày nữa, tính tất cả là 26 ngày từ Thăng Long đến đấy.
Thành Phật Thệ
[3]
, ba phía Tây-Nam-Bắc có núi che chở, phía Đông giáp biển. Thủy quân
của nhà Lý đổ bộ ở đây. Tướng Chăm là Bố Bì Đà La dàn trận trên bờ sông Tu Mao chặn
đánh. Quân Lý xông lên giết được Bố Bì Đà La và rất nhiều binh sĩ.
Lý Thường Kiệt vượt được sông Tu Mao, lại qua hai con sông nữa mới tới kinh đô
Champa. Đang đêm nghe tin quân của mình bại trận ở Tu Mao, vua Chế Củ mang vợ con
chạy trốn. Đêm ấy, quan quân nhà Lý tràn vào thành Phật Thệ, đến bến Đồng La, dân ở
thành Phật Thệ phải xin hàng
[4]
.
Vua Thánh Tông đánh Chiêm Thành lâu lắm không hạ nổi, bèn đem quân trở về. Đi nửa
đường đến châu Cư Liên, vua nghe thấy nhân dân khen bà Nguyên phi ở nhà giám quốc,
trong nước được yên trị, Thánh Tông nói: "Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà
mình đi đánh Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm sao?"
Vua Thánh Tông quay trở lại đánh Chiêm. Lý Thường Kiệt đem quân theo phía Nam.
Tháng tư quân Lý tiến đến biên giới Chân Lạp, qua các vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày
nay mà tiếng Chăm gọi là Panduranga. Tháng 4 Lý Thường Kiệt bắt được vua Chế Củ ở
biên giới Chân Lạp. Vua Chăm vốn có cựu thù với nước Chân Lạp nên hết đường chạy
phải ra hàng, kết quả là ông bị Lý Thường Kiệt cầm tù. Cuộc đuổi bắt vua Chế Củ mất hết
một tháng.
Người có công lớn nhất trong cuộc đại thắng này của nhà Lý là Lý Thường Kiệt.
Tháng 5 Lý Thánh Tông ngự tiệc cùng quần thần ở cung điện của vua Chăm, vua lại thân
hành múa thuẫn và đánh cầu ở nơi thềm điện ấy. Trước khi về nước Thánh Tông còn
không quên sai đếm tất cả nhà của dân ở trong và ngoài thành Phật Thệ, gồm có hơn 2.660
căn đều thiêu rụi sạch
[5]
.
Ngày 19 tháng 6 năm Quý Tỵ, thuyền của quân Lý về đến cửa Tư Minh, có lẽ là Tư Dung.
Ngày 17 tháng 7 năm Tân Dậu, đạo quân Nam chinh về tới Thăng Long. Vua lên bộ ngự
trên xe, quân thần cỡi ngựa theo sau. Vua Chăm mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng
cây gai, tay bị trói sau lưng do 5 tên lính Võ đô dắt. Quyến thuộc đi sau cũng bị trói. Chế
Củ xin dâng 3 châu Bố Chính, Ma Linh và Địa Lý để chuộc tội nên ông được tha về.
Mùa thu, tháng 7 tại nhà Thái Miếu, vua Lý Thánh Tông dâng trình việc thắng trận. Chiến
tranh kết thúc với thắng lợi và mở rộng đất đai của Đại Việt.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia