Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tài liệu KẾT HỢP LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.91 KB, 4 trang )

KẾT HỢP LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN
TRONG GIÁO DỤC NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM

NGUYỄN ĐỨC VŨ

Để rèn luyện cho sinh viên các kĩ năng dạy học cần thiết, việc giáo dục
nghiệp vụ sư phạm phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa lí luận và thực tiễn dạy
học. Việc làm này đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực của các giảng viên phương
pháp dạy học bộ môn, mà còn cần đến cả sự phối hợp đồng bộ của các giảng
viên khoa học cơ bản và giáo viên ở các trường phổ thông.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thực tế thực tập sư phạm (TTSP) cuối khóa hiện nay của sinh viên một số
trường đại học sư phạm (ĐHSP) có 2 biểu hiện nổi cộm:
- Thứ nhất, sinh viên mặc dù đã được học, được thực hành những phương pháp
dạy học (PPDH) tiên tiến, phương tiện dạy học hiện đại vào bài giảng cụ thể, nhưng khi
th
ực tập sư phạm ở các trường phổ thông, nhiều em vẫn đang sử dụng các PPDH truyền
thống theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều. Nhiều sinh viên chưa thể hiện những
điều đã học được ở trường đại học. Vô hình chung, học một đường, làm một nẻo và
những đổi mới giáo dục không đi vào được thực tế bằng con đườ
ng thực tập sư phạm.
- Thứ hai, nhiều sinh viên không theo kịp thực tế đổi mới giáo dục đang diễn ra
sôi động ở trường phổ thông hiện nay. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, một số sinh
viên ít quan tâm và không có được những kỹ năng cần thiết đáp ứng kịp thời nhiệm vụ
đổi mới PPDH hiện nay của ngành, của bộ môn.
Tình hình đó buộc phải có sự quan tâm nghiêm túc với thái độ khoa học đối v
ới
công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên.
II. GIÁO DỤC NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM PHẢI DỰA TRÊN CÁC CƠ SỞ LÝ
LUẬN CẦN THIẾT


Giáo dục nghiệp vụ sư phạm, về cơ bản là hình thành và bồi dưỡng kỹ năng. Bất
kỳ kỹ năng nào, kể cả kỹ năng dạy học, đều phải có hai thành tố tạo nên: tri thức về kỹ
năng và hoạt động tạo kỹ năng. Thiếu một trong hai thành tố đó, kỹ năng không thể
được hình thành một cách bền vững. Sinh viên sư phạm không dám làm, hoặc làm
được, nhưng không bảo vệ được công việc của mình trước phản ứng của đồng nghiệp là
vì thiếu cơ sở tri thức về kỹ năng, hay nói cách khác, thiếu cơ sở lý luận cần thiết của
hoạt động. Dạy cho sinh viên am hi
ểu về cơ sở của kỹ năng là trang bị cho họ những lý
luận cần thiết để thực hiện, bảo vệ và sáng tạo các hoạt động trong dạy học, giáo dục.
12
THÔNG BÁO KHOA HỌC SỐ 3(49)/2004

Phần đông các hoạt động NVSP mà sinh viên có được hiện nay chỉ được đánh giá qua ý
nghĩa của nó, chứ không được xem xét từ cơ sở lý luận, tức là từ "gốc rễ” của vấn đề.
Sinh viên cần phải hiểu được, trên cơ sở khoa học, tại sao phải xác định mục tiêu bài
dạy học? Tại sao phải chọn kiến thức cơ bản để khắc sâu cho học sinh? Tại sao sử
dụng
phương tiện dạy học phải đúng lúc, đúng chỗ, đủ cường độ?....Chỉ có trả lời các câu hỏi
đó bằng cơ sở lý luận thích hợp mới làm cho sinh viên vững tin vào những gì mình có
được, và trên cơ sở đó họ mới dám sáng tạo, dám tạo ra cái mới một cách tự tin, không
sợ phạm phải sai lầm.
Trong các hội thi NVSP, phần ứng xử sư phạm được xem là thu hút sự quan tâm
của nhiều sinh viên vì tính thực tế và gay cấn của vấn đề. Có nhiều phương án xử lý
trước một tình huống sư phạm. Phương án nào được xem là đúng nhất? Chỉ có một
phương án hợp lý nhất, nếu phương án đó được cắt nghĩa bằng cơ sở tâm lý học, giáo
dục học cần thiết. Cần phải vận dụng lý thuyết sư phạm vào để đối xử v
ới các tình
huống này. Chỉ có vậy mới làm cho phương án xử lý đủ độ tin cậy, và người ứng xử có
thể có nhiều cách ứng xử sáng tạo mà không sợ phạm sai lầm sư phạm.
Nếu như tất cả các kỹ năng sư phạm đều được lý giải trên cơ sở lý luận cần thiết

thì sinh viên mới được trang bị "vũ khí" để áp dụng cái mới một cách vững tin sáng tạ
o
trong các đợt TTSP, không chạy theo, nghe theo ý kiến một chiều của người khác.
Cần phải lưu ý rằng, nêu lợi ích, ý nghĩa của kỹ năng tuy là cần thiết, nhưng cái
quan trọng hơn rất nhiều là phải cung cấp lý luận về kỹ năng. Phải xem đó là cái gốc,
làm cơ sở hoàn thiện kỹ năng và phát triển kỹ năng sáng tạo.
III. GIÁO DỤC NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM PHẢI GẮ
N VỚI THỰC TIỄN
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
Giáo dục phổ thông hiện nay có nhiều biến động và đổi mới so với trước đây. Một
số quan niệm, cách làm trước đây được xem là phổ biến, thì nay không còn được nhiều
người chấp nhận nữa. Chẳng hạn, trước cho rằng, người dạy hay là dạy giỏi, nhưng nay
người dạy hay - đồng nghĩa với thuyết trình hấp dẫn, thu hút học sinh - không còn được
xem là dạy giỏi, thậm chí trong một số trường hợp còn bị đánh giá ngược lại, vì làm cho
học sinh thụ động trong học tập. Trong đổi mới PPDH hiện nay, việc tổ chức hoạt động
nhận thức của học sinh được xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của giáo viên, bên
cạnh nhiệm vụ cung cấp thông tin, tổng kết kiến thức. Giáo dục nghiệp vụ sư phạm

trường ĐHSP rõ ràng phải tính đến việc đổi mới đó, nếu như muốn chuẩn bị cho sinh viên
thật tốt khả năng hoà nhập với thực tế phổ thông khi thực tập sư phạm và cả khi ra trường.
Thực tiễn phổ thông phải được xem là đích hướng tới của NVSP, đồng thời là công
cụ, là môi trường của NVSP. Cần phải dành một số thời gian thích hợ
p để giáo viên phổ
KẾT HỢP LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC...
13


thông về báo cáo, làm mẫu một số kỹ năng cho sinh viên bắt chước ở ngay trong lớp học
đại học. Đồng thời, ngay từ những năm thứ hai nên cho sinh viên định kỳ tiếp xúc với
thực tế phổ thông, làm quen với phổ thông về công tác dạy học và chủ nhiệm. Cũng nên

có những băng hình về giờ dạy, giờ chủ nhiệm ở phổ thông (kể cả giờ thành công và giờ
chư
a thành công ) để tập cho SV phân tích, đánh giá ngay trong quá trình học tập. Trong
đánh giá khóa luận tốt nghiệp, hội nghị khoa học sinh viên, hội thi giảng của sinh viên,
cũng nên tham khảo ý kiến đánh giá của các giáo viên giỏi, cán bộ quản lí giáo dục ở các
trường phổ thông. Chính đó là việc xem xét nhu cầu thực tế về chất lượng đào tạo - một
việc đáng làm, mà lâu nay các trường sư phạm thường hay "quên".
Để tăng thêm năng lực n
ội sinh cho giảng viên sư phạm về rèn luyện NVSP, cần
tạo điều kiện và quy định cụ thể về việc tiếp cận thực tế phổ thông hàng năm, từng học
kỳ. Một giảng viên bộ môn PPDH lý tưởng là người vừa vững và sâu về lý luận và
phương pháp dạy học bộ môn, vừa là giảng viên đại học sư phạm giỏi, đồng thời vừa là
giáo viên dạ
y giỏi ở phổ thông (nếu được trực tiếp dạy học). Trong khi tiến tới mô hình
đó, cần rút ngắn khoảng cách sư phạm - phổ thông trong mỗi giảng viên PPDH bộ môn,
tiến tới có sự hoà nhập thực sự với môi trường phổ thông. Làm sao cho cả đại học lẫn
phổ thông hòa trộn với nhau nhuần nhuyễn ngay trong một giảng viên PPDH ở đại học
cụ thể. Các giảng viên dạy khoa học cơ
bản ở ĐHSP rõ ràng không thể đứng ngoài cuộc
vì sự theo sát mục tiêu đào tạo của trường sư phạm. Không thể chấp nhận những bài
giảng nhẹ về tính sư phạm, cả trong nội dung khoa học lẫn PPDH của giảng viên. Kiến
thức khoa học ở đại học, trước hết phải phục vụ cho việc dạy học của mỗi sinh viên sau
này ra trường. Trong quá trình dạy h
ọc, chương trình, nội dung khoa học cơ bản phải
nhằm tới mục tiêu đó. Thật tốt, nếu như giảng viên chỉ rõ cho sinh viên những kiến thức
nào của học phần đại học sẽ được dạy ở những bài cụ thể nào trong chương trình phổ
thông. Công tác đào tạo - cũng giống như bất kỳ hoạt động sản xuất nào của con người
đều phải tính
đến hai mặt: khả năng và nhu cầu. Một thời gian dài, cho đến cả hiện nay,
việc tính đến khả năng được coi trọng, còn nhu cầu ít được (hoặc không) quan tâm. Vì

vậy, hậu quả là ngoài việc thừa người, thừa ngành, thừa nghề, ở cấp độ vĩ mô, còn thừa
kiến thức ở chỗ này và thiếu kiến thức ở chỗ nọ; hoặc kiến thức đã học cũng ít có lợ
i ích
cho việc dạy học trong thực tế của bản thân. Trong khi chương trình phổ thông được gắn
với thực tiễn nhiều hơn, thì chương trình ĐHSP ở một số học phần còn thiếu gắn kết với
nội dung dạy học phổ thông. Để khắc phục điều này, cần phải có thời gian và sự tham gia
của của nhiều người. Trước hết, trong phạm vi giáo dụ
c NVSP, mỗi giảng viên đại học,
với chính học phần của mình đảm trách, có thể làm cho nội dung và PPDH xích lại gần
với, phục vụ cho, đáp ứng đủ nhu cầu của dạy học và nói rộng ra là giáo dục phổ thông.
14
THÔNG BÁO KHOA HỌC SỐ 3(49)/2004

IV. KẾT LUẬN
Giáo dục NVSP không phải là việc làm ăn theo, bổ sung hay góp phần hoàn thiện
nội dung các học phần PPDH bộ môn và các học phần Tâm lí, Giáo dục học ở trường
ĐHSP hiện nay. Giáo dục NVSP là một việc cực kỳ quan trọng nhằm bồi dưỡng, rèn
luyện cho sinh viên các kỹ năng cần thiết của việc dạy học và giáo dục nói chung. Các
kỹ năng này không phải là tập hợp các thủ thuật, biện pháp có tính kinh nghi
ệm của
giáo viên phổ thông, mà thực sự là hệ thống các hoạt động dựa trên cơ sở khoa học phù
hợp. Rèn luyện NVSP trước hết là nhiệm vụ của giảng viên Tâm lí, Giáo dục và PPDH
bộ môn. Nhưng giảng viên các khoa học cơ bản cũng phải tham gia tích cực vào vì mục
tiêu đào tạo của nhà trường sư phạm. Hợp lực các tác động đa chiều, nhiều phía, nhiều
người, nhiều bộ ph
ận trong các trường sư phạm mới tạo nên những kết quả như mong
muốn của công tác giáo dục NVSP.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
Nguyễn Đình Chỉnh, Thực tập sư phạm, NXB Giáo dục, 1991.

[2]
Trường ĐHSP Huế, Hướng dẫn thực hiện học phần thực tập sư phạm, 2002.

SUMMARY
THEORY OF PROFESSIONAL TEACHING SHOULD BE CLOSELY
CONNECTED WITH REALITY OF TEACHING
NGUYEN DUC VU
In order to train students the essential teaching skills, theory of professional skills
should be closely connected with the reality of teaching. This requires not only the efforts
of lecturers in teaching methodology, but also the harmonic co-ordination of university
lecturers and high school teachers.

×