Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên trường cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp việt nam hàn quốc, tỉnh nghệ an thông qua giảng dạy môn tư tưởng hồ chí minh luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.62 KB, 122 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học vinh
--------------

Lê thị thúy

nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên
trường cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp việt
nam hàn quốc, tỉnh nghệ an thông qua giảng dạy
môn tư tưởng hồ chí minh
Chuyên ngành:
Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Giáo dục Chính trị
MÃ số: 60.14.10

Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngun L­¬ng B»ng

NghƯ An, 2012


LỜI CẢM ƠN
Bằng tất cả tình cảm chân thành của mình, tơi xin được bày tỏ lịng biết
ơn đối với: Phòng Sau đại học trường Đại học Vinh, Khoa giáo dục chính trị;
các giảng viên đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tơi trong q trình học tập
cũng như hồn thành luận văn thạc sỹ. Đặc biệt, tơi xin được bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Lương Bằng, người đã hết sức quan tâm, tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi hồn thành đề tài luận văn.
Tôi cũng xin được chân thành cảm ơn các đồng chí trong BGH, các đồng
chí trong Hội đồng giáo dục Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam – Hàn
Quốc, đã giúp tôi thực hiện việc khảo sát và cung cấp số liệu để tôi thực hiện


luận văn.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp đã hết sức động viên,
khích lệ tơi trong suốt q trình học tập.
Trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn này, bản thân tôi đã
rất tâm huyết và cố gắng, song chắc chắn khơng thể tránh khỏi những thiếu
sót, khiếm khuyết. Tơi kính mong sẽ nhận được nhiều sự góp ý, chỉ dẫn từ các
thầy cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp để việc nghiên cứu đề tài được hoàn thiện
hơn.
Vinh, tháng 10 năm 2012
Tác giả

Lê Thị Thúy


MỤC LỤC

CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT


:

Cao đẳng

ĐH

:

Đại học

GV


:

Giáo viên

HS

:

Học sinh

KTCN

:

Kỹ thuật công nghiệp

PPDH

:

Phương pháp dạy học

SV

:

Sinh viên



4

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xa xưa, ông cha ta đã đúc kết một cách sâu sắc kinh nghiệm về giáo
dục “Tiên học lễ, hậu học văn”. “Lễ” ở đây chính là nền tảng của sự lĩnh hội và
phát triển tốt các tri thức và kĩ năng. Hiện nay, công tác Giáo dục - đào tạo cùng
với việc dạy chữ thì việc dạy người, rèn luyện đạo đức cho thanh niên trở thành
vấn đề đặc biệt quan trọng. Đảng ta đã chủ trương “Tăng cường giáo dục cơng
dân, giáo dục tư tưởng, đạo đức, lịng u nước, yêu chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa
việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù hợp với lứa tuổi và bậc
học”. Bởi vậy, tu dưỡng và rèn luyện đạo đức bản thân để trở thành người vừa
có đức, vừa có tài hết sức quan trọng đối với mọi người, là nhiệm vụ hàng đầu
của học sinh, sinh viên, những chủ nhân tương lai của đất nước.
Trong những năm gần đây, khi xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế
diễn ra mạnh mẽ đã tạo ra cơ hội mới cho Việt Nam. Nền kinh tế thị trường
mang lại cho Việt Nam nhiều bước phát triển vượt bậc, đời sống nhân dân
được nâng lên. Tuy nhiên, nó cũng nảy sinh lối sống thực dụng, những tệ nạn
xã hội, thói hư tật xấu đang từng ngày, từng giờ làm băng hoại những giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc. Có thể nói rằng, sinh viên là lớp người chịu
nhiều ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực của đời sống xã hội, của cơ chế
thị trường và xu thế tồn cầu hóa, quốc tế hóa. Điều đó đặt ra vấn đề là làm
thế nào để những người chủ tương lai của đất nước định hướng đúng đắn
những giá trị đạo đức, để bản thân mỗi sinh viên hồn thành nhiệm vụ vủa
mình trong sự nghiệp đổi mới đất nước.


5
Trước những thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội, thang giá trị đạo
đức của con người cũng có nhiều biến đổi theo cả hai hướng tích cực và tiêu

cực. Bên cạnh việc đổi mới nội dung, phương pháp, chương trình một số mơn
học, hình thức dạy và học đang từng bước được cải tiến, thì giáo dục đạo đức
cho sinh viên ở các trường Cao đẳng, Đại học cịn nhiều bất cập, đó là: Tình
trạng suy thối xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội trong
lớp trẻ, một số sinh viên lười tu dưỡng đạo đức và học tập, phai nhạt niềm tin,
lý tưởng...Các hiện tượng này do nhiều nguyên nhân khác nhau, cơng tác giáo
dục chính trị, đạo đức, lối sống cho sinh viên chưa được quan tâm đúng mức.
Tất cả những thực trạng đó đặt ra yêu cầu bức thiết phải nhận thức đúng đắn
vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh
Nghệ An có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, giáo
dục của tỉnh Nghệ An. Mục tiêu của trường là đào tạo đội ngũ công nhân kỹ
thuật, tức là những người có tay nghề và phẩm chất, đạo đức tốt. Do đó, việc
giáo dục đạo đức cho sinh viên thông qua giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một vấn đề cấp thiết, vấn đề được nhà trường quan tâm và chú trọng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là mơn học rất cần thiết đối với sinh viên cả nước nói
chung và sinh viên Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh
Nghệ An nói riêng. Bởi trong đó là hình ảnh của một người cộng sản mẫu
mực, có tư tưởng sáng suốt, tâm hồn cao thượng, ý chí kiên cường bất khuất,
tình cảm sâu đậm với con người, tác phong khiêm tốn, cuộc sống giản dị, mà
bất kì một người Việt Nam nào cũng có thể tìm thấy hình ảnh của mình trong
Hồ Chí Minh để soi vào đó mà học tập, làm theo.
Nghiên cứu, học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh trong Trường Cao
đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc hiện nay là nội dung quan trọng giúp
chúng ta nhận thức một cách sâu sắc hệ thống quan điểm, tư tưởng của Người


6
nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách
mạng, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Điều này địi hỏi chúng ta khơng chỉ thấy

được thực trạng dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh mà cịn thấy được những
tồn tại về phẩm chất, đạo đức lối sống của sinh viên để từ đó xác định được
giải pháp dạy học hiệu quả hơn trong thời gian tới cho sinh viên Trường Cao
đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc.
Xuất phát từ những vấn đề trên tác giả đã chọn: “Nâng cao hiệu quả
giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp
Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An thông qua giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Khi nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức đã có nhiều tác giả với
nhiều bài viết, nhiều cơng trình đề cập đến trên những phương diện khác nhau,
nhưng có thể chia thành một số nhóm vấn đề sau đây:
- Nhóm thứ nhất, Nhóm vấn đề chung về đạo đức luận giải về nguồn
gốc, nội dung của đạo đức, những luận điểm cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh, những nội dung trên được đăng tải ở các giáo trình, tạp chí chun
ngành như: tạp chí Cộng sản, tạp chí Nghiên cứu lý luận, tạp chí Triết học:
Giáo trình Đạo đức học (2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Giáo
trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2009. Tạp chí
Cộng sản, số 776, tháng 6 năm 2007. Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1/ 2007. Tạp
chí Triết học, số 1(164), tháng 1 năm 2005. C.Mác và Ph.Ănghhen, tồn tập,
tập 13 (2004), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Những kết quả nghiên cứu đã
góp phần xây dựng những luận cứ khoa học trong nhiều Chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng và Nhà nước.
- Nhóm thứ hai, gồm các cơng trình có hệ thống, tìm hiểu, nghiên cứu
quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng vào thực tế


7
như: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho
sinh viên ở trường Đại học Vinh hiện nay” (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp

Bộ của Ths.Thái Bình Dương, năm 2008). PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng
“Truyền thống đạo đức trọng nhân nghĩa và ảnh hưởng của nó đối với sinh viên
hiện nay”, Tạp chí Giáo dục, Số 4 (2006). “Sinh viên với việc học tập đạo đức
Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị và
truyền thơng, Học viện Chính trị – hành chính quốc gia Hồ Chí Minh – Học viện
báo chí và tuyên truyền, Số 5 (2009). “Giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Số 12 (2008). “Một số biện pháp nâng
cao chất lượng giảng dạy mơn chính trị trong các trường cao đẳng nghề”. Tạp
chí Giáo dục, 231, 2010.
Đảng cợng sản Việt Nam rất quan tâm đến việc giáo dục đạo đức Hồ
Chí Minh cho thanh niên, đặc biệt là học sinh - sinh viên. Đảng ta đã đưa ra
nhiều Nghị quyết, Chỉ thị như:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành Trung ương khóa IX
“Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”; Chỉ
thị số 06-CT/TW của Bộ Chính trị “Về tổ chức cuộc vận động học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Chỉ thị số 23- CT/TW của Ban bí thư
“Về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong
giai đoạn mới”. Những văn kiện đó đã đề cập đến nội dung, phương pháp, biện
pháp nhằm tuyên truyền, giáo dục tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh trong các
tầng lớp xã hợi.
Ngồi ra, Ban Tun giáo Trung Ương đã phát động phong trào học tập
tấm gương tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ban hành nhiều tài liệu, văn bản
Học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh như:


8
Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương với tác phẩm: “Đẩy mạnh học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội 2007. Ban Tuyên giáo Trung ương “Tài liệu học tập chuyên đề tư

tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm chống tham ơ,
lãng phí, quan liêu”, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội-2008. Trên một
số bài báo cũng có những bài viết đề cập đến các vấn đề này như: Bùi Huy
Giáp: “Bác Hồ với sự nghiệp giáo dục thanh thiếu niên”, báo Hà Nội mới số
27/10/1995. Lê Văn Tích và Nguyễn Minh Đức: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục thanh niên”, báo Hà Nội mới số 27/10/1995. Tất cả đều có mục tiêu
giáo dục tư tưởng đạo đức, giáo dục tình cảm thiêng liêng của Hồ Chí Minh
cho thế hệ sinh viên Việt Nam.
Như vậy, tính đến nay đã có rất nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về
giáo dục đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh ở các khía cạnh khác nhau nhưng
chưa có cơng trình nào trực tiếp nghiên cứu về nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh
Nghệ An thông qua giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, tác giả
chọn vấn đề này làm công trình nghiên cứu của mình, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học môn Tư tưởng Hờ Chí Minh nói chung và giáo dục đạo đức cho
sinh viên nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao
đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An thông qua giảng dạy
mơn Tư Tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài nhằm làm rõ vấn đề lý luận về sự
cần thiết phải nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường cao


9
đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An thơng qua giảng dạy
mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của công tác giáo dục đạo đức cho sinh

viên Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An
thông qua giảng dạy mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đề x́t phương hướng và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn
Quốc, tỉnh Nghệ An thông qua giảng dạy mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là sinh viên Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt
Nam - Hàn Quốc, Tỉnh Nghệ An.
Nghiên cứu ý thức, thái độ, hành vi đạo đức của sinh viên Trường Cao
đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc thông qua giảng dạy mơn Tư tưởng
Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát thực trạng đạo đức của sinh viên Trường Cao đẳng nghề
KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An.
Nghiên cứu những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
cho sinh viên Trường cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ
An thông qua giảng dạy mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu những nợi dung cơ bản yêu cầu đạo đức của sinh viên
Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học Tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, đề tài nắm vững quan điểm giáo


10
dục của Đảng về phương hướng nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh hiện nay.
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học như:

Phương pháp lịch sử.
Phương pháp phân tích tổng hợp.
Phương pháp quan sát, thu thập thông tin.
Phương pháp thực nghiệm khoa học.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu đề ra được các giải pháp khoa học có tính khả thi thì sẽ góp phần
nâng cao được hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề
Kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An thông qua giảng
dạy mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Đóng góp của đề tài
+ Góp phần làm sáng tỏ thực trạng đạo đức và công tác giáo dục đạo đức
cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ
An thông qua giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo và
vận dụng vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục và tài liệu tham khảo, đề tài gồm
có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An thông qua giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chương 2: Thực nghiệm sư phạm dạy học mơn Tư tuởng Hồ Chí Minh
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng
nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An


11
Chương 3: Quy trình và giải pháp dạy học mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng
nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An


B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM - HÀN QUỐC, TỈNH NGHỆ AN
THÔNG QUA GIẢNG DẠY MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1.1.

Cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho

sinh viên Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ
An thông qua giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Lý luận chung về đạo đức
1.1.1.1. Khái niệm về đạo đức
Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy
tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với
nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội.
Những giá trị đạo đức phản ánh tính nhân văn cao cả, thể hiện truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, được hình thành và phát triển cùng với tiến
trình của lịch sử. Đến nay nó là chuẩn mực của con người Việt Nam như: Sống
nhân nghĩa, khoan dung, độ lượng, vị tha, trung thực, tự trọng…


12
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo
đức xuất hiện cách đây hơn 20 thế kỷ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy
Lạp cổ đại.

Danh từ “Đạo đức” bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos (moris) - Lề thói,
(moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Cịn “ln lí” thường
được xem như đồng nghĩa với “đạo đức” thì gốc chữ Hy Lạp là ethicos nghĩa
là lề thói, tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng khi ta nói đến đạo đức tức
là`nói đến những lề thói, tập tục và biểu hiện của mối quan hệ nhất định giữa
người với người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại xuất hiện sớm, được biểu hiện trong quan niệm về “đạo” và “đức” của họ.
“Đạo” hiểu theo nghĩa đen là chỉ con đường đi, chỉ về hướng nhất định,
hay chỉ quy luật biến hóa của tự nhiên, theo nghĩa bóng là hướng dẫn hành vi
con người phải noi theo như: “đạo làm người”. “Đạo” về sau chỉ cái lý phải
theo như “đạo lí”.
“Đức” là một khái niệm trong triết học cổ Trung Quốc. Theo nghĩa thông
thường, “đức” chỉ tính hạnh tốt đẹp của con người, phần thẳng thắn của con
người.
Đạo đức xã hội bao gồm ý thức đạo đức, hành vi, đạo đức và quan hệ đạo
đức. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về tính thiện, ác, tốt, xấu, lương
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc…và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi,
ứng xử của cá nhân đối với xã hội, giữa cá nhân với cá nhận. Hành vi đạo đức là
sự biểu hiện ứng xử mà con người nhận thức và lựa chọn. Quan hệ đạo đức là hệ
thống những mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, xét về mặt đạo đức.
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử, kết quả của quá trình phát triển của xã
hội loài người. Đạo đức thuộc kiến trúc thượng tầng, chịu sự quy định của cơ sở


13
hạ tầng, có đạo đức xã hội nguyên thủy, đạo đức của chế độ chủ nô, đạo đức
phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản.
Ngày nay đạo đức có thể hiểu một cách khái quát là: Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống những quan điểm, quan niệm,

nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá, hành
vi ứng xử của con người trong các mối quan hệ xã hội, phù hợp với lợi ích
của con người và xã hội; chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức
mạnh của truyền thống, của dư luận xã hội nhằm hướng con người đến chân,
thiện, mỹ...
1.1.1.2. Nguồn gốc của đạo đức
Đạo đức ra đời cùng với sự xuất hiện của con người và xã hội lồi
người, vì đó là một phạm trù thuộc hình thái ý thức xã hội. Trước C. Mác và
Ph.Ăngghen, các nhà Triết học đều rơi vào quan niệm duy tâm khi xem xét
vấn đề xã hội và đạo đức, tiêu biểu là một số quan điểm cơ bản sau đây:
* Quan điểm của tôn giáo:
Một số quan điểm của các tôn giáo như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi
giáo cho rằng đạo đức có nguồn gốc từ tôn giáo và mang bản chất tôn giáo.
Những tôn giáo này cho rằng, mọi điều tốt đẹp đều là do trời, chúa, thần thánh
đem đến cho loài người. Thiên chúa giáo cho rằng, Thượng đế là đấng tối cao
ban phát phước lành và cứu rỗi cho loài người, và loài người phải thực hiện
những điều răn của chúa và giáo hội. Phật giáo lại cho rằng cuộc đời con
người là bể khổ, “Sinh, lão, bệnh, tử” đều gây ra nỗi khổ ở đời nên cần phải tu
dưỡng tâm tính để lên cõi “niết bàn”. Các quan điểm tôn giáo đã đồng nhất đạo
đức với tôn giáo. Mỗi quan niệm đạo đức đều xuất phát từ đời sống hiện thực
hàng ngày và do con người đúc rút lại, cịn tơn giáo là thế giới niềm tin do con
người tưởng tượng ra.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin


14
Với việc phát hiện chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác không chỉ tạo ra
bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về sự phát triển xã hội nói chung mà
cịn đặt cơ sở khoa học cho tất cả các lĩnh vực khoa học xã hội, trong đó có
đạo đức học.

Trong Lời tựa viết cho Góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị,
C.Mác đã viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình
sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Khơng phải ý thức của con
người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, sự tồn tại xã hội của họ quyết định
ý thức của họ” [6-15]. Đạo đức chính là một hình thái ý thức xã hội, nó phản
ánh và bị quy định bởi tồn tại xã hội. Điều đó có nghĩa là, các quan niệm,
quan điểm, các nguyên tắc, các chuẩn mực, các lý tưởng, niềm tin và tình cảm
đạo đức,… tức toàn bộ ý thức đạo đức, xét đến cùng, đều là biểu hiện của một
trạng thái, một trình độ phát triển nhất định những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội. Như vậy, đạo đức có bản chất xã hội.
Tiếp tục kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác về tính quy định của
tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội nói chung và đạo đức nói riêng,
Ph.Ăngghen đã luận chứng cho bản chất xã hội của đạo đức bằng việc chỉ ra
tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp của đạo đức.
Trong Chống Đuyrinh, cùng với việc phê phán quan niệm của Ơ.Đuyrinh
về những chân lý đạo đức vĩnh cửu, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, về thực
chất và xét đến cùng, các nguyên tắc, các chuẩn mực, các quan niệm đạo đức
chẳng qua chỉ là sản phẩm của các chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế. Đồng
thời, ông cũng cho thấy, cùng với tính quy định của yếu tố thời đại.
Như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã quan niệm đạo đức nảy sinh do nhu
cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển của lịch sử. Bằng hoạt
động thực tiễn của mình, mà trước hết là hoạt động sản xuất, trao đổi thông tin


15
hàng ngày mà con người đã dần dần hình thành nên những quy tắc xử sự khác
nhau để đảm bảo lợi ích của nhau, để tạo ra mơi trường sống tốt đẹp.
Nguồn gốc để hình thành và phát triển các giá trị đạo đức xã hội chính
là nền kinh tế của xã hội đó. Mỗi một hình thái ý thức xã hội đều có một hình
thái đạo đức tương ứng. Quá trình phát triển đạo đức là quá trình phủ định biện

chứng, đấu tranh giữa các mặt đối lập trên cơ sở kế thừa cái cũ để xây dựng
nền đạo đức mới tốt đẹp và hồn thiện hơn. Vì vậy bản thân mỗi người phải ý
thức được việc làm của mình trong mối quan hệ giữa người với người, cá nhân
với xã hội để phát huy hiệu quả những giá trị đạo đức.
1.1.1.3. Chức năng của đạo đức
* Chức năng giáo dục
Chức năng giáo dục là nhằm hình thành những quan điểm cơ bản nhất,
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cho con người, soi vào đó con
người sẽ làm những việc thiện, tránh điều ác, lựa chọn, đánh giá các hiện
tượng xã hội, tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với với lợi ích
chung và lợi ích riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Nhờ có chức
năng giáo dục sẽ hình thành cho con người những phẩm chất tốt đẹp như:
lương tâm, nghĩa vụ, danh dự, nhân phẩm, nhân nghĩa… Vì vậy chức năng
giáo dục đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người.
* Chức năng điều chỉnh hành vi
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức sẽ giúp con người định
hướng các hoạt động của mình. Nếu như pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ
xã hội bằng các quy phạm pháp luật, các đạo luật bằng biện pháp cưỡng chế
thì đạo đức điều chỉnh hành vi con người bằng phong tục, tập quán, bằng dư
luận xã hội, truyền thống và bản thân lương tâm của mỗi người.
Trong cuộc sống luôn nảy sinh nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ phức
tạp, đa dạng đòi hỏi bản thân mỗi người phải có cách giải quyết cho phù hợp.


16
Đó là q trình đấu tranh để có cách giải quyết cho hợp tình, hợp lý. Thơng
thường, những mối quan hệ trong xã hội thường nằm ngoài phạm vi điều chỉnh
của pháp luật, vì vậy mỗi con người phải dựa vào những quy tắc, chuẩn mực
đạo đức để điều chỉnh hành vi của mình.
Đối với bản thân mỗi người, phải luôn luôn tự nguyện, tự giác điều

chỉnh hành vi của mình. Đó là q trình đấu tranh hướng tới những giá trị tốt
đẹp trong cuộc sống.
* Chức năng nhận thức
Các chuẩn mực đạo đức là những tiêu chuẩn giá trị đạo đức phù hợp với
yêu cầu phát triển của xã hội, tạo nên tính cách tốt đẹp của mỗi con người. Nó
được con người đánh giá, lựa chọn, thừa nhận, khái quát những khuôn mẫu về
mặt đạo đức để con người căn cứ vào đó xem xét, điều chỉnh bản thân mình.
Đạo đức có chức năng nhận thức qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Để thực hiện
chức năng này mỗi người cần phải rèn luyện mình trong đời sống để nhận biết
những giá trị của đạo đức. Đồng thời xã hội cũng cần có những biện pháp
tuyên truyền, giáo dục cho mọi người có tri thức về đạo đức, hiểu biết những
chuẩn mực đạo đức trong cuộc sống.
1.1.1.4. Vai trò của đạo đức
Đạo đức là thước đo giá trị con người trong mọi thời đại. Những giá trị
đạo đức khơng bao giờ thay đổi, có chăng là chỉ thay đổi cách nhìn về giá trị
ấy. Điều này chúng ta sẽ thấy rõ nơi cuộc sống hiện đại. Cuộc sống hiện đại đã
làm cho con người có những cách nhìn mới về giá trị đạo đức. Tuy nhiên, cùng
với thời gian, những giá trị đạo đức là động lực đối với sự phát triển của lồi
người. Vai trị của đạo đức được xem xét trên các vấn đề sau:
* Đạo đức với sự phát triển của xã hội
Với tư cách một hình thái ý thức xã hội, đạo đức chịu sự tác động và
ảnh hưởng quyết định của kinh tế. Cơ chế thị trường với tác động của những


17
quy luật kinh tế khách quan, đặc biệt là những quy luật cạnh tranh, quy luật giá
trị đã tạo ra những hiệu ứng nhất định về xã hội - đạo đức. Do tính khốc liệt
của nó, kinh tế thị trường vừa là nguyên nhân, vừa là điều kiện dẫn tới sự phân
hóa giàu nghèo. Đồng thời những bất cơng, bất bình đẳng xã hội có điều kiện
sinh sơi, nảy nở.

Đạo đức với bản chất khoa học, cách mạng thực sự là liều thuốc vơ cùng
quan trọng có thể ngăn chặn những những căn bệnh của kinh tế thị trường.
Cùng với việc hoàn thiện nền kinh tế thị trường, xây dựng đạo đức mới trở
thành một giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững, từng bước
khắc phục những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đối với đạo đức
xã hội.
Đạo đức góp phần thực hiện hóa mục tiêu chính trị của Đảng ta, góp
phần cũng cố, ổn định chế độ chính trị.
Trong mối quan hệ giữa chính trị với đạo đức, có thể thấy rõ, đường lối
chính trị và quan niệm đạo đức cách mạng khơng có nhiều sự khác biệt. Mục
đích của giai cấp công nhân Việt Nam và đạo đức cách mạng là xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong xã hội hiện nay chúng ta cần xây dựng được những con người mới với
tư tưởng, đạo đức, tác phong xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy vai trị đặc
biệt quan trọng của đạo đức trong việc cũng cố, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam.
Đạo đức có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn, phát huy giá trị truyền
thống, bản sắc văn hóa dân tộc.
Ngày nay, khi xã hội hiện đại đang hàm chứa nguy cơ xa rời với những
giá trị truyền thống thì vấn đề phát huy, bảo tồn các giá trị truyền thống được
đặt ra như một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hơn bao giờ hết. Không chỉ
riêng Việt Nam mà các quốc gia khác trong khu vực đang nỗ lực hết mình để


18
tìm cách giải quyết. Để xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải
có những con người xã hội chủ nghĩa với phẩm chất đạo đức cách mạng. Đạo
đức mà chúng ta xây dựng trong giai đoạn hiện nay là nền đạo đức mới. Ở nền
đạo đức này nó nâng lên các giá trị đạo đức truyền thống và tiếp thu chọn lọc
những giá trị đạo đức tốt đẹp của nhân loại.


* Đạo đức với sự phát triển nhân cách
Đạo đức có tác dụng cảm hóa con người, giúp con người nhận thức và
hành động theo lẽ phải, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Đạo
đức giúp con người vươn tới những giá trị tốt đẹp: Chân, thiện, mỹ. Đồng thời
đạo đức như một động lực thôi thúc con người đấu tranh chống lại cái ác, cái
xấu, phát huy cái tốt, cái thiện.
Hiện nay hành vi của con người vốn bị chi phối của cơ chế lợi ích, khiến
con người có xu hướng vun vén vì lợi ích riêng của bản thân mình. Song trong
rất nhiều trường hợp lợi ích của cá nhân lại mâu thuẫn với lợi ích của tập thể,
lợi ích xã hội. Đạo đức và các chuẩn mực của nó khơng hề phủ nhận lợi ích cá
nhân, ln thừa nhận và khuyến khích cá nhân phấn đấu vì quyền lợi chính
đáng của mình, mặt khác cũng hướng cho con người giải quyết mối quan hệ
hài hịa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng.
Chúng ta đang ở trong một giai đoạn cách mạng đầy khó khăn và thử
thách, hơn lúc nào hết, đạo đức càng có vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ
quan trọng của chúng ta hiện nay là tạo điều kiện cho đạo đức mới khẳng định
địa vị thống trị của mình trong đời sống đạo đức xã hội, trở thành vũ khí tinh
thần của nhân dân lao động trong quá trình xây dựng và đấu tranh bảo vệ Tổ
quốc.


19
1.1.2. Nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh
1.1.2.1. Đạo đức là gốc của người cách mạng
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, lãnh tụ cách mạng của
thế giới đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh do đó rất sâu sắc, phong phú cả về lý luận và thực tiễn đã trở
thành một bộ phận vơ giá của văn hóa dân tộc và nhân loại, một sức mạnh tinh

thần to lớn làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống, Hồ Chí Minh đã khẳng
định đạo đức là nguồn ni dưỡng và phát triển con người như gốc của cây,
ngọn nguồn của sơng suối. Người nói: “cũng như sơng thì có nguồn mới có
nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng khơng lãnh đạo được nhân dân” [23; 35 - 36]. Đạo đức cách mạng mà Hồ
Chí Minh nói tới ở đây là đạo đức mới, nó khác với đạo đức cũ xưa nay.
Người viết: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời.
Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất ngửng đầu lên
trời” [23; 41].
1.1.2.2. Phẩm chất trung với nước, hiếu với dân
“Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền của quốc gia dân tộc. Nội dung chủ yếu
của “Trung với nước”:
- Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải đặt lợi
ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.
- Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng.
- Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
“Hiếu với dân” nghĩa là phải yêu dân và quan trọng là phải lấy dân làm
gốc. Chữ “hiếu” của người cách mạng rất rộng, khơng đặt mình ở vị trí cao


20
hơn dân, ở ngồi dân, khơng chỉ xem dân là gốc, là sức mạnh mà Người ln
đặt mình ở mình trong dân, đầy tớ của dân, coi dân là tất cả sự nghiệp của
mình, là đối tượng của cách mạng.
“Hiếu với dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh cịn thể hiện ở chỗ quan
tâm tới quyền làm chủ của nhân dân, người làm cách mạng là đầy tớ của nhân dân.
Nội dung chủ yếu của “Hiếu với dân”:

- Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
- Tin dân, học dân, lắng nghe ý kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân,
tổ chức vận động nhân dân.
- Thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
“Trung với nước, hiếu với dân” suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Đó vừa là lời kêu gọi, vừa là nghĩa vụ và
trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam.
1.1.2.3. Giáo dục tình yêu thương con người
Trên cơ sở kế thừa truyền thống nhân nghĩa tốt đẹp của dân tộc, kết hợp
với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại Hồ
Chí Minh đã khẳng định tình thương yêu con người là một trong những phẩm
chất đạo đức cao đẹp nhất.
Trong suốt cuộc đời làm cách mạng, Hồ Chí Minh đã thể hiện lịng u
thương đồng loại sâu sắc đặc biệt tình yêu lớn nhất Người dành cho đồng bào
mình, những người dân mất nước. Tình yêu thương con người của Hồ Chí
Minh thể hiện là một tình cảm rất gần gũi thân thương đối với từng số phận
con người, trong mối quan hệ với bạn bè đồng chí, với những con người rất
đỗi bình thường mà Người gặp trong cuộc sống hằng ngày: từ việc ăn, việc ở,
việc mặc, việc học hành, giải trí,… phải có thái độ tôn trọng, biết nâng cao
nhân cách chứ không vùi dập con người.


21
Thương yêu con người thể hiện ở lòng vị tha, nhân ái đối với những
người gặp sai lầm để họ nhận rõ và sửa chữa, kể cả kẻ thù của mình một khi đã
chịu quy hàng. Đó là tinh thần mà Hồ Chí Minh kế thừa từ truyền thống nhân
nghĩa của dân tộc Việt Nam, nghiêm khắc đối với mình, đối với người.
1.1.2.4. Giáo dục những phẩm chất: Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là một biểu hiện sinh động của

phẩm chất “Trung với nước, hiếu với dân”. Đó là những phẩm chất nền tảng
của đạo đức cách mạng mà mỗi người phải quán triệt.
“Cần” là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai, lao động có kế
hoạch, sáng tạo, năng suất với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng,
không ỷ lại, coi lao động là hạnh phúc, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi cá
nhân.
“Kiệm” là tiết kiệm, khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi.
“Kiệm” khơng phải là bủn xỉn, việc đáng làm vì lợi ích của đồng bào, Tổ quốc
thì tốn bao nhiêu cơng, bao nhiêu của cũng vui lòng. Để thực hiện “Kiệm”
phải kiên quyết “chống xa xỉ”, bởi xa xỉ là có tội với Tổ quốc, với đồng bào
mình.
“Liêm” là trong sạch, khơng tham lam tiền của, địa vị, danh tiếng, không
tự tâng bốc mình,… chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm và ham tiến bộ.
Hành vi trái với chữ “liêm” đó là cậy quyền thế mà đục khoét của dân, trộm của
dân.
“Chính” nghĩa là khơng “tà” phải thắng thắn, đứng đắn đối với mình,
đối với người và đối với việc.
“Cần, kiệm, liêm, chính” là bốn đức quan trọng đối với tất cả mọi người:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đơng.
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.


22
Thiếu một mùa thì khơng thành trời.
Thiếu một phương thì khơng thành đất.
Thiếu một đức thì khơng thành người.” [27; 631]
“Cần, kiệm, liêm, chính”cịn là thước đo sự giàu có về mặt vật chất,
vững mạnh về tinh thần, sự văn minh tiến bộ của một dân tộc. Đó cũng là nền
tảng của đời sống mới, của thi đua yêu nước. Người coi “Cần, kiệm, liêm,

chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua ái quốc” [27; 631].
Tất cả những lời dạy của Hồ Chí Minh và tấm gương sống của Người là
điều mà mọi thế hệ hôm nay và mai sau cần học hỏi. Bồi dưỡng các phẩm chất
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” sẽ làm cho con người vững vàng trước
mọi thử thách, giàu sang khơng thể quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay,
uy vũ không thể khuất phục.
1.1.2.5. Tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của
đạo đức cộng sản, được bắt nguồn từ bản chất quốc tế trong sáng của giai cấp
công nhân và của chủ nghĩa xã hội. Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần ấy
được thể hiện ở sự thương yêu, đùm bọc, tương trợ, giúp đỡ và tôn trọng lẫn
nhau giữa các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Đối lập với nó là chủ nghĩa vị
kỷ dân tộc, chủ nghĩa Sơ vanh hẹp hịi. Khơng có sự bất bình đẳng, hằn thù
hay phân biệt chủng tộc giữa các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Kế thừa và phát triển khẩu hiệu của C. Mác: “Vơ sản tất cả các nước đồn
kết lại”. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức
trên thế giới phải kề vai chung sức để chống lại kẻ thù chung - chủ nghĩa đế
quốc.
Tinh thần quốc tế trong sáng thủy chung hướng vào mục tiêu hịa bình,
hữu nghị, dân chủ và tiến bộ xã hội làm cho con người sống cao thượng và đẹp
đẽ hơn. Để chứng minh cho lý tưởng của mình, Hồ Chí Minh chính là người có


23
đóng góp to lớn, hiệu quả trong việc xây đắp tình đồn kết quốc tế, đối thoại thay
cho đối đầu vì một tình hữu ái vơ sản, vì một nền hịa bình thế giới.
1.2.2.6. Quan điểm về những ngun tắc xây dựng đạo đức mới
Để xây dựng nền đạo đức mới cần phải có những nguyên tắc cơ bản định
hướng cho sự lãnh đạo của Đảng cũng như sự rèn luyện của mỗi cá nhân. Qua
nghiên cứu đặc điểm và quy luật hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

cho thấy Người đã đề ra một số nguyên tắc cơ bản trong xây dựng đạo đức
mới sau đây:
* Phải tu dưỡng, rèn luyện suốt đời
Bàn về “đạo đức cách mạng” trong bài viết tháng 12 năm 1958, Hồ Chí
Minh khẳng định: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do
đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có gì sung sướng vẻ
vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
xây dựng Chủ nghĩa xã hội và giải phóng lồi người !” [23; 91]. Muốn có
được một nhân cách hồn chỉnh khơng phải là chuyện đơn giản một sớm một
chiều, đó là một quá trình tiến hành liên tục, lâu dài và thường xuyên cũng như
việc xây dựng một nền đạo đức mới trong xã hội vậy.
Muốn có được những phẩm chất đạo đức cách mạng trên, việc tu dưỡng
phải gắn liền với yếu tố kiên trì, chịu khó, chịu khổ. Những cái xấu, cái ác cần
được loại bỏ, đè bẹp còn cái tốt, cái thiện thì duy trì, ni dưỡng. Ý thức được
điều này cũng là một niềm hạnh phúc, sung sướng của mỗi người.
Người ví von so sánh rằng:
“Gạo đem vào dã bao đau đớn,
Gạo dã xong rồi, trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy,
Gian nan rèn luyện mới thành công.” [25; 350].


24
Thực hiện nguyên tắc “Phải tu dưỡng, rèn luyện suốt đời” cần dựa trên
tinh thần tự giác, tự nguyện, đặc biệt là thơng qua hoạt động tự phê bình và
phê bình của mỗi cá nhân và giữa các cá nhân trong tập thể.

* Nói đi đơi với làm, phải nêu gương đạo đức
Hồ Chí Minh đã quán triệt nguyên tắc này và làm gương cho mọi người

cùng thực hiện, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên. Với tầm quan trọng của
đạo đức, Hồ Chí Minh đã dành hơn 600 bài nói và bài viết của mình về đề tài
này trong suốt cả cuộc đời hoạt động của mình. Khơng chỉ là tấm gương sáng
về ngun tắc “Nói đi đơi với làm” mà chúng ta cịn thấy Người nói ít nhưng
làm nhiều, có những việc Người làm mà khơng nói. Và trong mỗi việc làm,
hành vi của Người ln ẩn chứa những tư tưởng lớn, sâu sắc và tấm lòng nhân
ái bao la.
Trong lĩnh vực đạo đức và giáo dục đạo đức, “đạo làm gương” giữ một
vị trí đặc biệt quan trọng hơn trong bất cứ lĩnh vực nào. Làm gương có thể ở
nhiều mức độ, phạm vi khác nhau. Có những tấm gương chung và riêng, lớn
và nhỏ, xa và gần. Người tốt việc tốt ở giai đoạn nào cũng có nhưng quan
trọng là phải nêu ra và nâng tầm để mọi người học hỏi. Tùy theo hoàn cảnh cụ
thể mà vận dụng các tấm gương ấy cho phù hợp. Nêu gương về đạo đức phải
được coi là một việc làm quan trọng và không được xem thường.
* Xây đi đơi với chống
Trong cuộc sống hằng ngày, vì những lí do khác nhau mà những hiện
tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái có đạo đức - cái phi đạo đức vẫn thường đan
xen đối chọi nhau thông qua hành vi của những con người khác nhau và ngay
cả trong bản thân của mỗi con người. Xã hội chúng ta đang sống không phải
“người người đều tốt, việc việc đều hay” mà “mỗi con người đều có cái thiện


25
và cái ác ở trong lòng” cốt yếu là làm sao cho phần tốt nhân lên và phần xấu bị
mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Hồ Chí Minh đã chia kẻ thù
của cách mạng thành ba loại: “Chủ nghĩa tư bản và đế quốc thực dân” là kẻ thù
nguy hiểm nhất, thâm độc nhất, “thói quen và truyền thống lạc hậu” cũng là
một kẻ địch to, đang ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta khơng
thể trấn áp nó mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu
dài; “Chủ nghĩa cá nhân” là loại địch thứ ba, với tư tưởng tiểu tư sản, nó đang

ẩn nấp trong mỗi con người chỉ chờ thời cơ trỗi dậy, vì vậy, “Thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội, không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ
nghĩa cá nhân” [31-291].
Để giáo dục đạo đức được hiệu quả, Người yêu cầu mọi cá nhân, mọi tổ
chức phải có tính tự giác cao. Bản thân tính tự giác cũng là một phẩm chất đạo
đức cách mạng quý báu cần rèn luyện và giữ gìn. Người nói rằng: việc cảm
nhận sâu sắc sự trau dồi đạo đức cách mạng là việc làm sung sướng, vẻ vang
nhất trên đời này.
Tóm lại, nghiên cứu tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh về các
chuẩn mực và những nguyên tắc cơ bản, định hướng để xây dựng nền đạo đức
mới là cơ sở lý luận để Đảng và Nhà nước ta cùng toàn thể nhân dân phấn đấu
thực hiện trong giai đoạn mới, đặc biệt trong giáo dục đạo đức cách mạng cho
thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước, niềm hy vọng của dân tộc.
1.1.3. Tính tất yếu của việc nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho
sinh viên
Giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng là phương thức chuyển
văn hóa đạo đức của xã hội thành văn hóa đạo đức của cá nhân. Để phát huy
vai trị của tuổi trẻ thì phải tiến hành giáo dục sinh viên một cách toàn diện và
chu đáo. Giáo dục đạo đức là nhằm hướng tới mục đích đào tạo những con
người khơng chỉ có đức mà cịn có tài, để mỗi sinh viên khi trưởng thành có


×