Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ trong luật tục Mnông (Nghiên cứu trường hợp: Chương IV - về phong tục tập quán)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 9 trang )

VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN

LANGUAGE CHARACTERISTICS IN MNONG CUSTOMARY LAW
(CASE STUDY: CHAPTER IV - ABOUT CUSTOMS)
Ta Quang Tung
Vietnam Institute of Linguistics
Email:
Received:
28/4/2021
Reviewed:30/5/2021
Revised:
04/6/2021
Accepted:11/6/2021
Released:
30/6/2021
DOI: />
C

ustomary laws are rules and codes of conduct that have long been established, forcing people to
follow them in a narrow community (usually a village or commune). The article analyzes and
points out the linguistic features of the Mnong customary law, through a case study: Chapter IV - On
customs. Thereby contributing to the systematic study of customary law of ethnic minorities in Vietnam,
aiming to preserve and promote the positive values in the community's traditional customary law.
The language in the Mnong customary law is very close to the language of poetry (which is "rhyming
speech"). Regarding the form of customary law, there are many sentences (lines) linked together in rhyme
and rhythm. The number of words of the poems in the Mnong customary law is very diverse, the rhyme
is very variable, half free and half legal. In terms of semantics, Mnong customary law includes chapters
and lots of articles: lexical-semantic fields: animals, objects, space, plants, spirituality, beliefs, natural
phenomena.
Keywords: Mnong ethnic group; Customary law; Central Highlands; Mnong language; Folk art.


104

JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH


VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
1. Đặt vấn đề
Luật tục là những quy định, phép tắc ứng xử
có từ lâu đã trở thành nền nếp trong quan hệ xã
hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày, buộc
mọi người phải tuân theo ở phạm vi cộng đồng hẹp
(thường là làng xã). Đây là một loại văn nghệ dân
gian có nội dung luật tục, được sử dụng theo hình
thức diễn xướng khi xét xử các vụ việc xảy ra trong
cộng đồng và khi nhắc nhở các thành viên trong
cộng đồng tuân theo những nền nếp của cộng đồng.
Nghiên cứu luật tục của người Mnơng có thể góp
phần nghiên cứu có hệ thống về luật tục và hướng
tới bảo tồn, phát huy những giá trị tích cực trong
luật tục cổ truyền của cộng đồng này.
Bài viết nhằm chỉ ra một số đặc điểm nổi bật về
ngôn ngữ của luật tục Mnông, qua một nghiên cứu
trường hợp: Chương IV – Về phong tục tập quán
trong Luật tục M’nông (Tập quán pháp) (Thịnh,
Vinh & Kâu, 1998)
Cơng trình Luật tục M’nơng (Tập qn pháp)
của các soạn giả: Ngô Đức Thịnh, Trần Tấn Vinh,
Điểu Kâu (1998) được sưu tầm ở tỉnh Đắc Nông.
Gồm 3 phần: Phần 1 (77 trang) – Luật tục trong xã
hội M’nông; Phần 2 – Văn bản luật tục (bằng tiếng

Việt và tiếng M’nông); Phần 3 (60 trang) – Phụ lục.
Phần 2 (541 trang) có 8 chương (gồm 215 điều):
Chương I – Về các tội và việc xét xử; Chương III –
Về quan hệ cộng đồng; Chương II – Về quan hệ đối
với thủ lĩnh; Chương IV – Về phong tục tập quán;
Chương V – Hôn nhân và quan hệ nam nữ; Chương
VI – Về quan hệ gia đình; Chương VII – Về quan hệ
sở hữu; Chương VIII – Về việc xâm phạm thân thể
người khác.
Chương IV – Về phong tục tập quán được chọn
như một nghiên cứu trường hợp, do dự đốn về chủ
đề của nó: “phong tục tập qn” là một trong những
thành tố quan trọng nhất trong văn hóa truyền thống
của một dân tộc.
2. Tổng quan nghiên cứu
Luật tục (customary law), còn được gọi là luật
dân gian (folk law), luật bản địa (indigenous law),
luật bộ lạc (tribal law), luật nguyên thủy (primitive
law)...
Ở châu Âu và một số nước châu Phi, nhiều bộ
mơn, chun ngành khác nhau có đề cập đến luật
tục như: Luật học, lịch sử, xã hội học, nhân học…
Đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học tiếp tục nghiên
cứu luật tục từ góc độ nhân học và bắt đầu văn bản
hóa luật tục, mở rộng phạm vi nghiên cứu luật tục
trên nhiều phương diện khác nhau, chẳng hạn như
vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu luật tục.
Ở châu Á, phải kể đến cơng trình “Asian indigenous
law in Interaction with Received law” (Luật bản địa
châu Á trong mối quan hệ tương hỗ với luật thành

văn) (1986) của Masaji Chaba. Cơng trình này

Volume 10, Issue 2

gồm nhiều chương viết về luật tục của nhiều dân
tộc và quốc gia khác nhau như ở người Ai Cập Hồi
giáo, Iran Hồi giáo, Ấn Độ, Thái Lan, Nhật Bản…
(Thịnh, 2003).
Từ góc độ nhân học luật pháp, các nhà nhân
học, dân tộc học, folklore học đã đề cập đến các
vấn đề lý thuyết, phương pháp sưu tầm và nghiên
cứu luật tục các dân tộc. Có thể kể ra ở đây như vấn
đề văn bản hóa luật tục (T.O.Elias, 1994), sưu tầm
luật tục (Simon Roberts, 1994),… Những vấn đề
ứng dụng luật tục trong xã hội cũng được quan tâm,
nhất là vấn đề luật tục và bảo vệ, khai thác hợp lý
các nguồn tài nguyên thiên nhiên (S.Wiber, 1996)
(Thịnh, 2003, tr.10).
Ở Việt Nam, hương ước và luật tục được quan
tâm vào khoảng từ đầu thế kỷ XX. Ngày 30/7/1923,
Tồn quyền Pháp ở Đơng Dương Pierre Pasquier
đã ra thông tri yêu cầu thu thập và ghi chép luật tục
nhằm khai thác và vận dụng những quy tắc quản lý
xã hội thuyền thống vào việc cai trị. Thơng qua q
trình triển khai Thơng tri này, nhiều tác giả người
Pháp đã cho ra đời những nghiên cứu về luật tục
của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Từ năm
1927, L.Sabatier đã cho công bố bộ luật tục Êđê
Klei duê bhiăn kđi (Tập quán pháp). Đến năm 1940,
D.Antomarchi đã dịch sang tiếng Pháp và cơng bố

cơng trình này trên tạp chí Trường Viễn Đơng Bác
cổ (BEFEO). Năm 2019, có luận án tiến sĩ của Trần
Thị Thắm: “Lập luận trong luật tục Ê-đê”...
Việc sưu tầm luật tục của các dân tộc thiểu số
ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX đã đạt được những
thành tựu nhất định. Có thể kể đến những cơng
trình đã được cơng bố như: “Luật tục Ê-đê” (1926),
“Luật tục Xtiêng” (1951), “Luật tục Srê” (1951),
“Luật tục Ba na, Xơ đăng” (1952), “Luật tục Mạ”
(1957)… (Thịnh, 2003).
Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi và ở Việt
Nam cho thấy luật tục được quan tâm từ rất sớm
và đã đạt được những thành tựu nhất định ở việc
sưu tầm và nghiên cứu từ nhiều góc nhìn: dân tộc
học, luật học, xã hội học, văn hóa dân gian… Tuy
nhiên, các cơng trình nghiên cứu vẫn có hạn chế,
việc nghiên cứu cịn dừng lại ở mức nhìn nhận một
cách chung và tổng thể… Cịn q ít cơng trình đi
sâu nghiên cứu về từng lĩnh vực và từng mặt, như
ngôn ngữ học.
Hiện nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu đặc
điểm ngôn ngữ luật tục Mnông. Luật tục Mnông
hiện mới chỉ được giới thiệu một cách sơ lược và
tóm tắt trong các cơng trình nghiên cứu như: “Tìm
hiểu luật tục các tộc người ở Việt Nam” (Thịnh,
2003) trong “Chương 4 – Luật tục Mnơng” từ góc
nhìn văn hóa học; “Vận dụng luật tục Mnơng vào
việc xây dựng gia đình, bn, thơn văn hóa” (Bi,
Kâu, Tuấn, & Vũ, 2007) nhìn từ phương diện luật
học; Cơng trình sưu tầm “Luật tục M’nơng (Tập


105


VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
quán pháp)” (Thịnh, Vinh & Kâu, 1998)...
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp miêu tả dùng để
chỉ ra các đặc điểm các đơn vị trong văn bản và tổng
hợp ra các quy tắc ngôn ngữ trong lời luật tục. Thủ
pháp thống kê - phân loại được sử dụng, nhằm chỉ
ra quy luật xuất hiện những đơn vị từ vựng trong
các loại khác nhau.
Do tác phẩm Luật tục M’nông (Tập quán pháp)
quá đồ sộ, bài viết chọn một trường hợp nghiên cứu
Chương IV (60 trang) – Về phong tục tập quán.
Chương này tạm coi là đại diện cho luật tục Mnông,
trước hết về mặt văn bản, dưới góc nhìn ngơn ngữ
học. Xem xét về các lớp từ ngữ theo các trường từ
vựng – ngữ nghĩa, bài viết chỉ tìm hiểu về lớp có số
lượng lớn nhất: Các từ ngữ chỉ sự vật.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Đặc điểm hình thức ngơn ngữ trong luật
tục Mnông
4.1.1. Đặc điểm về thể
Ngôn ngữ trong luật tục có vần điệu (là “lời nói
có vần”), rất gần với ngơn ngữ thơ. Trong lời luật
tục có nhiều điều khoản và rất nhiều câu (dòng).
Trong Chương IV (60 trang) – Về phong tục tập
quán, có 30 điều khoản và số câu (dòng) là 655.

Luật tục được diễn xướng theo nhiều thể khác
nhau. Độ dài ngắn của những câu trong luật tục
khác nhau chủ yếu bằng thể 7 từ (từ âm vị học –
phonological word), thể 5 từ kết hợp với 7 từ, và sự
linh hoạt được thể hiện trong thể hỗn hợp (2, 3, 4,
5, 6, 7, 8, 9 từ).
Trong 30 điều khoản về phong tục tập quán, số
lượng từ liên quan đến các câu như sau:
Thể

Số lượng câu

Tỉ lệ %

6 từ

278

42,4

5 từ

127

19,4

4 từ

127


19,4

7 từ

103

15,7

8 từ

11

1,7

3 từ

9

1,4

Tổng

655

100%

Nhận xét:
a) Không có điều khoản nào trong Chương IV
chỉ thuần túy một thể đơn nhất, hầu hết đều có sự
kết hợp đan xen.

b) Những trường hợp kết hợp chủ yếu bao gồm:
Thể 4 từ kết hợp với thể 5 từ và ngược lại. Ví
dụ (số thứ tự là của nguyên bản, thể hiện sự kế cận
của các câu):
1. Tih soh moh sot 2. Meh mir kǐr kăng 3. Tih
rmot nau yăng 4. Bư brah, lah yăng 5. Năng rpu,

106

năng ba 6. R’mot brah, r’mot krǒng 7. Bri ngă,
krong huêng 8. Sreh si, huai rse 9. R’mot kuăt,
r’mot ng’lar 10. R’mot lǔ ăk jrô jay 11. R’mot njuh
ba l’ha r’sôi 12. R’mot n’gâng blang, kang r’pu 13.
R’mot bôk kik, bôk be [Điều 1: Dôih r’mot nau vay Tội vi phạm tập quán]. (Dịch: 1. Nói chuyện bậy bạ
2. Gặp điều khơng hay 3. Khinh bỉ tập quán 4. Cúng
thần cúng thánh 5. Cúng trâu cúng lúa 6. Khinh thần
khinh thánh 7. Khinh rừng có thần 8. Chặt cây bứt
mây 9. Khinh kuăt đá thần 10. Khinh thần bếp thần
bồ 11. Khinh cây nêu cúng lúa 12. Khinh cây cọc
cột đâm trâu 13. Khinh nơi thờ đầu vịt đầu dê)
Thể 6 từ kết hợp với thể 7 từ và ngược lại. Ví
dụ :
18. Nkơi sit he nuih tăch nhâm 19. Pănh prok
bu boi ng’rêng 20. Pănh nraih bu boi ng’rêng 21.
Pănh dôk lũt boi rêng chông si 22. Bah tă ndă ndă,
ndă ndo 23. Băh tă dǐng kho ang ban 24. Tih nau ver
an păng rdâk 25. Kỗ dĩng djăr păng r’dâk ma djar
26. Kỗ dĩng sũr păng r’dâk ma sũr 27. Khĩt bu nuih
păng r’dâk ma sũr 28. Sat mir sat ba păng tâm bah
kơi [Điều 2: Làng họ kiêng cữ ta cứ vào]. (Dịch: 18.

Khi mình về người đau tắt thở 19. Bắn con sóc họ
sẽ tìm ná 20. Bắn con sóc họ phải tìm 21. Bắn con
khỉ tìm từ trên cây 22. Xem thử từ đâu mà có 23. Vì
sao trăng sáng ban ngày 24. Sai kiêng cữ bắt phải
làm lại 25. Việc bằng gà mình phải đền gà 26. Việc
bằng lợn mình phải đền lợn 27. Việc chết người sẽ
bắt đền sau 28. Rẫy thú vào sẽ bắt đền sau).
Thể 6 từ kết hợp với thể 5 từ và ngược lại. Ví
dụ :
13. Năch drơn tih bâr klâr ngơi 14. Lơi vet lơi
põ, lơi buăt 15. Srang oh nâu he agơn 16. Srang
bap kon he ayơn 17. Srang ndul deh he a yơm [Điều
4: Tiếp khách nuôi khách]. (Dịch: 13. Khách lỡ lời,
sai miệng 14. Khơng nghe, khơng chấp 15. Làm
mất lịng anh em 16. Làm mất lòng bà con 17. Làm
mất lòng dòng họ).
Thể 4 từ kết hợp với thể 6 từ và ngược lại. Ví dụ:
8. Ba joi, koi tũn 9. Gũn tar, mlar huêng 10. Lơh
nâm pâm nơm 11. Geh khǐt geh ji 12. Klah kâr tuih
bun bôk ntũl 13. Klah kâr sung bun jâng ntul 14.
Khĩt krũp bun nting 15. Khĩt kring bun mbõng [Điều
8: Đẻ con trong nhà người khác]. (Dịch: 8. Các thần
hoa, các thần kê 9. Các thần ngải, các thần đá 10.
Nó sẽ hành người trong nhà 11. Gây ra ốm đau 12.
Cán dao gãy chất lên gò mối 13. Cán rùi gẫy chất
chân gò mối 14. Bò rừng chết chất đống xương 15.
Phượng hoàng chết chất đống mỡ).
4.1.2. Đặc điểm về vần
Số từ của các câu thơ trong luật tục Mnông rất
đa dạng, do đó cách gieo vần và cách hợp vần cũng

rất biến ảo, như một số trường hợp sau:
a) Từ cuối câu trước vần với từ cuối câu sau.
Ví dụ:

JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH


VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
15. Srang oh nâu he agơn 16. Srang bap kon he
ayơn. (Dịch: 15. Làm mất lòng anh em 16. Làm mất
lòng bà con) [Điều 4: Tiếp khách nuôi khách].
26. N’tung yăng môch, yăng ndah 27. Srok sray
lay lâm 28. Sa ntũng ndơ bư brah [Điều 1: Tội vi
phạm tập quán]. (Dịch: 26. Lấy ché mồ mả 27. Hồn
ma phẫn hờn 28. Ăn trộm vặt dâng cúng lễ).
b) Từ cuối câu trước vần với vần lưng câu sau.
Ví dụ:
22. Bah tă ndă, ndă ndo 23. Băh tă dǐng kho ang
ban [Điều 2: Làng họ cữ ta cứ vào]. (Dịch: 22. Xem
thử từ đâu mà có 23. Vì sao trăng sáng ba ngày).
16. Rũng tiăng brak nduih ma păng 17. Mâu
lăng ũm mâu kloh mbach 18. Mâu lăng kuach mau
kloh rmau 19. Mâu lăng dau mâu tăch nkuăng
[Điều 13: Chết chôn bon khác]. (Dịch: 16. Đuôi cây
rơi phải đổ thừa 17. Tắm không kỹ chưa hết ngứa
18. Kỳ không kĩ không hết ghét 19. Dọn không kĩ
không hết gốc cây).
c) Từ cuối câu trước vần với từ đầu câu sau.
Ví dụ:
1. Rlong trong rlong dih 2. Mih chăng măng

krung [Điều 4: Tiếp khách nuôi khách]. (Dịch: 1.
Khách đi đường qua lại 2. Gặp mưa, gặp tối).
11. Tinh krau bôk lũ 12. Pũ krau bôk dak [Điều
20: Tục lệ bắt cá]. (Dịch: 11. Đập thuốc trên đá 12.
Thả thuốc đầu suối).
Tính lặp lại là một phương tiện liên kết văn bản.
Gồm: lặp từ, lặp ngữ và lặp cấu trúc. Ví dụ:
9. R’mot kuăt, rmot ng’lar 10. R’mot lũ ăk jrô
jay 11. R’mot njuh ba l’ha r’sôi 12. R’mot n’gâng
blang, kang r’pu 13. R’mot bôk kik, bôk be [Điều 1:
Tội vi phạm tập quán]. (Dịch: 9. Khinh kuăt đá thần
10. Khinh thần bếp thần bồ 11. Khinh cây nêu cúng
lúa 12. Khinh cây cọc cột đâm trâu 13. Khinh nơi
thờ đầu vịt đầu dê).
9. Tâm rkeh ma ũng mbăch mbônh 10. Tâm rkeh
ma dak mbăch mbônh 11. Tâm reh ma dôih mbăch
mbônh 12. Tâm lah dĩk ndrăng he mabanh mbônh
13. Tâm lah chiak ndăng he mbănh mbôn [Điều 4:
Tiếp khách nuôi khách]. (Dịch: 9. Ta với họ chưa
dọa nhau 10. Ta chưa làm nước trôi với nhau 11. Ta
chưa có việc gì thù nhau 12. Ta chưa làm nơ lệ của
nhau 13. Ta chưa ốn ma lai lẫn nhau).
Đáng chú ý, cách gieo vần trong luật tục Mnông
được kết hợp với việc lặp lại. Tính lặp tạo thành
sự liên kết văn bản, mang lại tính bền vững, tạo ra
những yếu tố cố định (“khuôn”) trong luật tục. Yếu
tố cố định đồng thời giúp mau thuộc và dễ kể theo
lối ngâm nga, được hình thành do các văn bản luật
tục được truyền truyền miệng, phải nhớ nhập tâm.
Ví dụ:

8. Bon bu ver he lăp achê 9. Lan bu ver he lăp
achê 10. Tât geh duh, tât geh ji 11. Tât geh khǐt,

Volume 10, Issue 2

tât geh kĩr 12. Bu nduih ma he, bu nte ma bân 13.
Ver i jêt bu kek bu lô 14. Ver i jrô bu kuh bu ber
15. Ver i khlay khĩt nuih mlâm 16. Ach he lăp bon
bu dĩng ji 17. Ach he lăp bon bu dĩng ji [Điều 2:
Làng họ cữ ta cứ vào]. (Dịch: 8. Bon họ cữ nếu ta
cứ vào 9. Làng họ cữ nếu ta cứ vào 10. Khi nào có
đau có bệnh 11. Khi nào có sự chết chóc 12. Họ sẽ
đổ thừa cho mình 13. Cữ nho nhỏ họ sẽ nói xấu 14.
Cữ lớn họ bắt phạt mình 15. Cữ quan trọng gây ra
chết người 16. Vì mình vào bon họ mới đau 17. Vì
mình vào bon họ mới chết).
4.1.3. Đặc điểm về nhịp
Cùng với vần, nhịp điệu (còn gọi là nhịp) cũng là
yếu tố góp phần làm nên tính nhạc điệu của lời nói
vần trong luật tục Mnơng. Nhịp của luật tục Mnông
rất phong phú với những chỗ ngắt giọng đặc trưng.
Sự ngắt nhịp trong luật tục vừa có căn cứ ngữ nghĩa
vừa ngữ âm, có cả nhịp chẵn, nhịp lẻ. Ví dụ (dấu “/”
chỉ những chỗ ngắt giọng - nhịp):
8. Bon bu ver/ he lăp achê 9. Lan bu ver/ he lăp
achê 10. Tât geh duh/, tât geh ji 11. Tât geh khǐt/,
tât geh kĩr 12. Bu nduih ma he/, bu nte ma bân 13.
Ver i jêt/ bu kek/ bu lô 14. Ver i jrô/ bu kuh/ bu ber
15. Ver i khlay/ khĩt nuih mlâm 16. Ach he lăp/ bon
bu dĩng ji 17. Ach he lăp/ bon bu dĩng ji [Điều 2:

Làng họ cữ ta cứ vào]. (Dịch: 8. Buôn họ cữ nếu ta
cứ vào 9. Làng họ cữ nếu ta cứ vào 10. Khi nào có
đau có bệnh 11. Khi nào có sự chết chóc 12. Họ sẽ
đổ thừa cho mình 13. Cữ nho nhỏ họ sẽ nói xấu 14.
Cữ lớn họ bắt phạt mình 15. Cữ quan trọng gây ra
chết người 16. Vì mình vào bon họ mới đau 17. Vì
mình vào bon họ mới chết)
Có thể thấy cách ngắt nhịp của các câu thơ trong
luật tục Mnông chịu sự chi phối của cách gieo vần,
hoặc phép lặp. Vị trí trước, sau và chính giữa của
phần gieo vần hoặc phần xuất hiện phép lặp thường
là ranh giới hai vế của nhịp. Ví dụ:
8. Bon bu ver/ he lăp achê 9. Lan bu ver/ he lăp
achê 10. Tât geh duh/, tât geh ji 11. Tât geh khǐt/,
tât geh kĩr 12. Bu nduih ma he/, bu nte ma bân 13.
Ver i jêt/ bu kek/ bu lô 14. Ver i jrô/ bu kuh/ bu ber
15. Ver i khlay/ khĩt nuih mlâm 16. Ach he lăp/ bon
bu dĩng ji 17. Ach he lăp/ bon bu dĩng ji
Một điểm nữa dễ nhận thấy: Người Mnơng ưa
thích sự hài hịa, nhịp nhàng khi nói năng, vì vậy
hay dùng cách ngắt nhịp sóng đơi: dịng thơ đứng
sau lặp lại nhịp đã có ở dòng trước, trước và sau
nhịp là các cụm từ có số lượng tiếng tương đẳng
theo cặp. Đây là cơ sở để ngắt nhịp cho lời nói vần
của người Mnơng. Ví dụ:
8. Bon bu ver/ he lăp achê

3/3
9. Lan bu ver/ he lăp achê
3/3

10. Tât geh duh/, tât geh ji
3/3
11. Tât geh khǐt/, tât geh kĩr
3/3

107


VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
13. Ver i jêt/ bu kek/ bu lô
3/2/2
14. Ver i jrô/ bu kuh/ bu ber
3/2/2
15. Ver i khlay/ khĩt nuih mlâm
3/3
16. Ach he lăp/ bon bu dĩng ji
3/4
17. Ach he lăp/ bon bu dĩng ji
3/4
Sự ngắt nhịp trong lời nói vần của luật tục
Mnơng phần nhiều đem lại kết quả là sự chia tách
của những cụm từ, những chỗ lặp lại và ngắt giọng
với số tiếng trước và sau nó như nhau tạo nên một
nhịp điệu đặc biệt của luật tục Mnông, lúc dàn trải,
khoan thai, lúc dồn dập vội vã lại có tính hài hòa
làm cho câu thơ trở nên sinh động, dễ nghe và dễ
nhớ.
4.2. Đặc điểm ngữ nghĩa luật tục Mnông
4.2.1. Điều khoản – sự tập hợp theo phạm trù
ngữ nghĩa

Toàn bộ Chương IV (60 trang) được đặt tên (theo
người sưu tầm), là “Về phong tục tập quán”, cũng
có nghĩa là cả chương này thuộc một phạm trù khái
quát (chủ đề) là “phong tục” và “tập quán”.
Trong Chương IV– Về phong tục tập quán, có 30
điều khoản. Mỗi điều khoản như vậy gồm các câu
tập hợp lại theo các tiểu chủ đề cụ thể, tức là theo
các phạm trù nghĩa khác nhau.
Đó là: Tội vi phạm tập qn – Dơih r’mot nau
vay; Làng họ kiêng cữ ta cứ vào – Bon bu ver lăp
rđai; Nhà họ kiêng cữ mình cứ vào – Jay bu ver bân
lăp r’gal; Tiếp khách nuôi khách – Măt răm siăm
năch; Tách nhà, tách bon, phải lễ từ giã – Mprơih
jay, mprơih bon, tâm ntinh; Hạt lúa bị rơi vào lửa,
vào suối – Tup ba tâm dak tâm uch; Sảy thai ngoài
rừng, ngoài đường – Riêh kon tâm bri tâm trong;
Đẻ con trong nhà người khác – Deh kon tâm jay
bu êng; Đẻ con ngoài rừng, ngoài đường - Deh kon
tâm bri tâm trong; Mang rủi ro cho bon khác – Dôih
duai nreng bon êng; Đem máng chì đến bon khác –
Rđu bong nrak tât bon êng; Khách chết trong nhà
– Năch khit tâm jay; Chết chôn bon khác – Khit tâp
bon êng; Chôn người chết trong rẫy người khác –
Tâp khit nuih tâm mir bu êng; Voi nhà bị chết – Khit
rveh bon; Tục lệ trồng trỉa – Nau vay tăm tuch; Tục
làm rẫy – Nau vay ê mir; Tục lệ chăn nuôi - Nau
vaymăt rong; Tục lệ chia thịt - Nau vay pă puăch;
Tục lệ bắt cá - Nau vay gir sach; Tục lệ đi săn bắt Nau vay ntrooih mplăm; Bắn voi rừng – Pănh rveh
bri; Tục lệ ăn uống - Nau vay ngêt sông; Tục lệ
trang phục (nam) - Nau vay chrô (blu klô); Tục lệ

trang phục (nữ) - Nau vay jik nchrơ (bu ur); Con
lợn, con chó, con trâu, con gà đẻ - Deh sur, rpu, so
djăr; Nhờ người khác chăn trâu – Đă tiăp rpu; Nhờ
phục vụ lễ đâm trâu – Manh rho ngêt; Trả công chủ
lễ cưới – Nkhôm ndăp ur sai; Cho người ta uống
rượu say – An bu nuih ngêt nrănh nhul.
4.2.2. Các lớp từ ngữ chỉ sự vật

108

4.2.2.1. Khái quát chung
Trong Chương IV có nhiều từ ngữ thuộc hệ
sinh thái tự nhiên (động vật, thực vật, đất đai...).
Từ chỉ động vật (173 từ, chiếm 28.31%); từ chỉ đồ
vật (154 từ, chiếm 25.20%); từ chỉ không gian (118
từ, chiếm 19.31%); từ chỉ thực vật (107 từ, chiếm
17.51%); từ chỉ tâm linh, văn hóa tín ngưỡng (46
từ, chiếm 7.53%); từ chỉ hiện tượng tự nhiên (13 từ,
chiếm 2.13%). Tổng số: 611 từ.
Nhận xét:
Trong Chương IV, các từ ngữ chỉ động vật nhiều
nhất với 172 lần xuất hiện, tỉ lệ 28,34 %. Tiếp đến là
các từ chỉ đồ vật, chỉ không gian, thực vật, tâm linh
và hiện tượng tự nhiên.
Sau đây xin chỉ ra đặc điểm ngữ nghĩa một số
lớp từ.
4.2.2.2. Từ ngữ chỉ động vật
Ví dụ:
rpu: trâu (28; 16.18); sũr: lợn (23; 13.29 %);
rveh: voi (19; 10.98 %); djar: gà (18; 10.40 %);

nrơk: bị (15; 8.67 %); ka: cá (9; 5.20 %); sâu: chó
(9; 5.20 %); sim: chim (8; 4.62 %); kik: vịt (8; 4.62
%); be: dê (5; 2.89 %); meh: tê giác (4; 2.31 %); jưl:
thú (4; 2.31 %); tla: cọp (3; 1.73 %); pik: chồn (2;
1.16 %); nay: chuột (2; 1.16 %); dôk: khỉ (2; 1.16
%); sưm yang: phượng hồng (2; 1.16 %); prok: sóc
(2; 1.16 %); ya: cá sấu (1; 0.58 %); brak: công (1;
0.58 %); kưt: ếch (1; 0.58 %); sam: kiến (1; 0.58
%); bih: rắn (1; 0.58 %); tlăn: trăn (1; 0.58 %); vay:
ong (1; 0.58 %). Tổng số: 173 từ.
Nhận xét:
- Các từ ngữ chỉ động vật trong luật tục Mnông
xuất hiện đa dạng với số lượng lớn (25 loài với 173
lần). Động vật có đủ loại, từ vật nhỏ bé trong tự
nhiên: vay (ong), sam (kiến)…, đến những vật nuôi
quen thuộc với đời sống hằng ngày như: rpu (trâu),
sũr (lợn), djar (gà)… đến rveh (voi), meh (tê giác),
tla (cọp)... Rpu (trâu) là loài được nhắc đến nhiều
lần (với 28 lần, chiếm 16.14 %). Trong Chương IV,
có tới hai điều khoản liên quan đến “trâu”: Điều 27:
Nhờ người khác chăn trâu; Điều 28: Nhờ phục vụ
lễ đâm trâu.
- Khi được đưa vào luật tục, hình ảnh lồi vật
thường dùng làm chi tiết hóa các nội dung trong
điều khoản. Ví dụ ở điều 15: Voi nhà bị chết:
1.Khít nrơk rpu bon ueh 2.Khít rveh bon sray
3.Sreh l’ha si njâm 4.Sreh dâm ê ndrung 5.Jan dăk,
jan bri, jan bon [Điều 15: Voi nhà bị chết]. (Dịch: 1.
Con trâu, con bị bị chết khơng sao 2. Con voi nhà
bị chết là xui 3. Phải chặt lá cây che phủ kín 4. Phải

chặt cây rào kín 5. Phải cúng đủ lễ cho bon)
- Những loài được nhắc đến thường là những
con vật được đền bù cho người bị hại hoặc những
con vật dùng để tế thần (thường là trâu, bò, lợn, gà,

JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH


VĂN HĨA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
vịt, voi, chó, dê). Ví dụ:
29. Mưch brah r’mot krõng 30. Tih jêt djăr
l’răng păng jan 31. Tih du mơ sũr l’răng păng glah
32. Tih kuăng rpuh sreh rveh tễ...[Điều 1: Phong tục
tập quán]. (Dịch: 29. Khinh bỉ thần thánh 30. Phạm
vi nhỏ cúng gà, cúng ché 31. Phạm vi vừa cúng lợn,
ché to 32. Phạm vi to trâu chém, voi đền).
4.2.2.3. Từ ngữ chỉ khơng gian
Ví dụ:
bon: bn, làng (42; 35.59 %); mir/ kâr: rẫy (17;
14.41 %); dak phôk/ dak uai: suối (13; 11.02 %);
bri: rừng (11; 9.32 %); hang dak uai: bờ suối (8;
6.78 %); jih: nhà (8; 6.78 %); truk: trời (4; 3.39 %);
var/ tưm: chuồng (3; 2.54 %); ndrênh: bãi cỏ (2;
1.69 %); mâu: đá (2; 1.69 %); bơng: dịng thác (2;
1.69 %); hih tơ tiar : lò rèn (2; 1.69 %); tưm: chòi
(1; 0.85 %); teh: đất (1; 0.85 %); ưnh: lửa (1; 0.85
%); nông lac̆: sân nhà (1; 0.85 %). Tổng số: 118 từ.
Nhận xét: Từ ngữ xuất hiện nhiều nhất là bon,
làng (bon) với tổng số 42 lần, chiếm 35.59 %.
Luật tục Mnông gắn với một cơ cấu xã hội, nơi

nó nảy sinh, tồn tại và biến đổi. Cơ cấu xã hội đó
chính là nhà - bn (bon, làng) – nước.
Qua soi chiếu từ luật tục, với người Mnông,
trước nhất, buôn là điểm cộng cư, các gia đình cùng
dựng nhà ở cạnh nhau, nương tựa và đùm bọc lẫn
nhau. Ví dụ:
1.Mir du blon, bon du châm 2.Nrâm dak nsum
du tu 3.Jik tam reh, peh tâm râp 4.Ji sât boh tâm nta
5.Ji ngot ba tâm ngrêh 6.Say sim jêt nay tân siăm
7.Sa rũch jêt nay tân siăm 8.Geh jun bri, rke bri
vay mpăm bon [Điều 19: Tục lệ chia thịt]. (Dịch: 1.
Rẫy một vạt, bon một chỗ 2. Suối nước chung một
nguồn 3. Làm cỏ giúp nhau giã lúa giúp nhau 4. Lạt
muối giúp nhau 5. Thiếu lúa giúp nhau 6. Có chim
nhỏ cùng ăn 7. Có chim răch chia nhau 8. Có thịt
nai, lợn rừng chia làng)
- Từ ngữ chỉ buôn là chỉ một không gian sinh
tồn nhất định, thuộc quyền sở hữu công cộng của
cộng đồng. Khơng gian này được quy định chặt chẽ,
người ngồi khơng thể tùy tiện xâm phạm. Trong
phần phong tục tập quán, luật tục Mnơng có những
điều khoản quy định chi tiết về những vấn đề như:
Hình thức xử phạt với khi bon, làng, nhà có kiêng cữ
mà người cứ đi vào làng; sảy thai ngoài rừng, ngoài
đường; đẻ con trong nhà người khác; đẻ con ngoài
rừng; ngoài đường; khách chết trong nhà; chết chôn
bon khác; chôn người chết trong rẫy người khác;
đem máng chì đến bon khác. Mọi sự vi phạm đều sẽ
bị xử phạt nặng, phải cúng vịt, chó, lợn, bị, voi để
xóa tội. Ví dụ:

10.He lăp bon bu mâu lah du gũ bon bu 11. He
lăp bon bu, sông bĩch jay bu 12. Bu lah he ntuh
bong nrak an bu 13. Ar bong lũ bong nrak he 14.
Geh khĩt geh ji bon bu jay bu 15. Bu kuh: kik so sũr

Volume 10, Issue 2

broih 16. Nrook chook kuaih bon lan bu 17. Rveh
du book jan bon bu [Điều 1: Đem máng chì đến bon
khác]. (Dịch: 10.Đi vào bon khác hoặc đến ở bon
khác 11. Hoặc là vào bon khác, ăn cơm ngủ nhờ
12. Người ta nói mình đổ nước chì vào bon họ 13.
Nước chì làm cho bon họ xui xẻo 14. Gây ra đau ốm
chết người 15. Người ta phạt: cúng xóa vịt, chó, lợn
16. Giết con bị cúng cho bon làng 17. Đền cho bon
làng một con voi)
Là đơn vị cộng đồng cơ bản nhất của người
Mnông, bon, bn đồng thời là nơi thể hiện sự chan
hịa tình cảm và gắn kết nhau trong những phong
tục và nghi lễ, trong vui chơi và hưởng thụ các sinh
hoạt văn hóa. Đọc luật tục Mnơng phần phong tục
tập qn, ta bắt gặp những điều luật nói về kinh
nghiệm sản xuất như: tục lệ trồng trỉa, tục lệ chăn
nuôi, tục lệ đi săn bắt, tục làm rẫy. Các từ ngữ chỉ
bon làng thường gặp. Ví dụ:
20. Gũ rnglăp ma bon 21. Kon rnglăp ma bap
22. Săk mâu lap đă bon de yỗ [Điều 19: Tục lệ chia
thịt]. (Dịch: 20. Sống phải đoàn kết với bon 21. Con
phải đoàn kết với cha 22. Người yếu sức phải nhờ
bon làng)...

4.2.2.4. Từ ngữ chỉ thực vật.
Ví dụ:
ba: lúa (37; 34.579 %); krong/ tam: cỏ (12;
11.215 %); si: cây (7; 6.5421 %); prit: chuối (4;
3.7383 %); bum: củ (3; 2.8037 %); ha: lá (3; 2.8037
%); la: tre (3; 2.8037 %); tao: mía (3; 2.8037 %);
blê: kê (3; 2.8037 %); tơm bum: cây khoai mài (2;
1.8692 %); tơm rle: cây rle (2; 1.8692 %); târ: bắp
(2; 1.8692 %); n’hung: bầu (1; 0.9346 %); plui: bí
(1; 0.9346 %); bô kêt: bồ kết (1; 0.9346 %); blân: cà
(1; 0.9346 %)... Tổng: 107 từ.
Nhận xét:
- Trong số những từ ngữ chỉ thực vật phổ biến
nhất, có: ba (lúa), krong/ tam (cỏ), si (cây), prit
(chuối)...
- Trong luật tục Mnông hình ảnh cây lúa (ba)
thường được sử dụng để chi tiết hóa, giải thích cụ
thể hơn các điều khoản hoặc minh họa cho sự thiệt
hại hoặc lợi ích về tài sản vì một lí do nào đó. Ví dụ:
1.Tih soh moh sot 2.Meh mir kĩr kăng 3.Tih rmot
nau vay 4.Bư brah, lah yăng 5.Năng rpu, năng
ba [Điều 1: Tội vi phạm tập quán]. (Dịch: 1. Nói
chuyện bậy bạ 2. Gặp điều không hay 3. Khinh bỉ
tập quán 4. Cúng thần cúng thánh 5. Cúng trâu cúng
lúa).
Người Mnông quý trọng lúa, thậm chí coi “lúa”
là vật linh thiêng có hồn. Luật tục Mnơng có những
quy định nghiêm ngặt đối với những hành vi để hạt
lúa bị rơi vào lửa, vào suối. Ví dụ:
13. Đũp du rmlay tâm dak donh 14. Ngonh rdu

rmlay pơih 15. Đơih du rdjỗ tâm neh tuai 16. Ũnh

109


VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
sa ba duh rop kop ti ji siăk 17. Dak bũk ba kop ti ji
săk. (Dịch: 13. Hạt lúa rơi dưới suối phải lượm 14.
Con kiến gặm một hột phải lượm 15. Rơi một cọng
chín đốt phải lượm 16. Lúa bị cháy người ốm bị đau
17. Rơi dưới suối người ốm bị đau)
4. Ũnh sa lêk, dak bũk roh 5. Roh huêng ba joi
6. Roh huêng koi tũng 7. Tuai ma kik, ma so, ma sũk
[Điều 6: Hạt lúa bị rơi vào lửa, vào suối]. (Dịch: 4. Bị
lửa thiêu, bị nước trôi 5. Hồn lúa bị mất phải tìm 6.
Hồn kê bị mất phải tìm 7. Chuộc bằng vịt, chó, lợn).
4.2.2.5. Từ ngữ chỉ tâm linh, tín ngưỡng.
Ví dụ:
yang: thần, thánh (13; 28.26 %); ngăt: hồn ma
(5; 10.87 %); c̆ak: ma lai (4; 8.70 %); yang ba: thần
lúa (3; 6.52 %); ngăt [lê: hồn kê (2; 4.35 %); ngăt
ba: hồn lúa (2; 4.35 %); yang khưt um: thần chết
(2; 4.35 %); yang N’gual: thần N’gual (2; 4.35 %);
[ưn: lễ (1; 2.17 %); c̆ak: ma (1; 2.17 %); yang târ:
thần bắp (1; 2.17 %); yang n’hak: thần bếp (1; 2.17
%); yang kreh: thần bồ (1; 2.17 %); yang kao: thần
hoa (1; 2.17 %); yang [lê: thần kê (1; 2.17 %); yang
rông: thần nuôi (1; 2.17 %); yang mir: thần rẫy (1;
2.17 %). Tổng: 46 từ.
Nhận xét:

- Từ ngữ được sử dụng nhiều nhất là chỉ các
đấng siêu nhiên là yang (thần), có 13 lần xuất hiện
(chiếm 28.26 %), tiếp đến là ngăt (hồn ma), sau đó
là những siêu nhiên như: ma lai, thần lúa, thần kê,
hồn lúa, hồn kê … Hệ thống lực lượng siêu nhiên
được đề cập đến trong luật tục Mnông chia làm hai
loại, loại thần thiện (thần lúa, thần hoa, thần nuôi,
thần kê, thần N’gual…) và thần ác (ma, quỷ, thần
chết... ).
Luật tục Mnông quy định tất cả mọi hành vi
trong cuộc sống đều liên quan đến thần linh, nếu vi
phạm luật tục, người vi phạm sẽ bị thần linh trừng
phạt và bị làng xử phạt. Ví dụ ở điều 9: Đẻ con
ngồi rừng, ngồi đường. Ví dụ:
12. Păng krau bri nyă, krõng huêng 13. Brah
pâm, nâm gõ 14. Khĩt rũ bi play rpung 15. Khĩt rũng
bi play rpuăl 16. Khĩt duăl bôk bi leeng nro 17. Đă
păng kuaih dak raih [Điều 9: Đẻ con ngồi rừng,
ngồi đường]. (Dịch: 12. Nó làm ô uế rừng thiêng
13. Thần sẽ trả thù cho bon làng 14. Bon làng sẽ có
dịch bệnh 15. Bon làng sẽ chết hàng loạt 16. Sẽ chết
như quả bầu khô 17. Phải bắt cúng xóa)
Theo nội dung trong luật tục Mnơng, kẻ nào nói
chuyện bậy bạ thì thần linh sẽ bắt phải gặp điều
không hay. Ai dám coi thường tập quán, phải cúng
tạ lỗi thần linh, đem những thứ quý giá nhất tạ lỗi
gồm trâu, lúa.
5. Thảo luận
5.1. “Luật tục” Mnơng là gì, xét về bản chất
xã hội?


110

Cho đến nay, để chỉ cùng một đối tượng chúng ta
đang xét, có rất nhiều thuật ngữ khác nhau: luật tục
(customary law), luật dân gian (folk law), luật bản
địa (indigenous law), luật địa phương (local law),
luật hiện tồn (living law), luật bộ lạc (tribal law),
luật nguyên thủy (primitive law), luật không thành
văn (unwritten law), luật truyền thống (traditional
law)... Mỗi thuật ngữ đều nhằm nhấn mạnh đến một
đặc điểm của “luật tục”.
Tuy có nhiều cách gọi khác nhau, nhưng hai
thuật ngữ luật tục (customary law), luật dân gian
(folk law) được sử dụng phổ biến hơn cả. Câu hỏi
được đặt ra là nên chọn thuật ngữ nào?
Tác giả Alan Dundes trong cơng trình what is
folk law đã sử dụng và lý giải cho cách sử dụng
thuật ngữ “folk law” của mình. Theo ơng, từ folk
bắt đầu xuất hiện ở châu Âu từ thế kỷ XIX để chỉ
những người không biết đọc, biết viết đối lập với
tầng lớp có chữ viết, là cư dân đơ thị. Sang thế kỷ=
XX, quan niệm về folk có sự thay đổi để chỉ bất
kể nhóm người nào có chung mối liên hệ dân tộc,
tôn giáo, tộc người, nghề nghiệp, địa phương, gia
đình. Mỗi nhóm như vậy có thể có một luật. Luật
dân gian (folk law) được hiểu là bộ luật của một
nhóm người có chung mối liên hệ dân tộc, tơn giáo,
tộc người, nghề nghiệp, địa phương, hoặc gia đình
(Thịnh, 2003).

Ở Việt Nam, trong cơng trình Tìm hiểu luật tục
các tộc người ở Việt Nam, tác giả Ngô Đức Thịnh
viết: “Do vậy, chấp nhận thuật ngữ “luật dân gian”
(folk law), chúng tơi tránh sự lầm lẫn khơng tránh
khỏi của tính từ tục lệ - customary với thể loại tục
lệ. Tất cả luật dân gian là tục lệ với nghĩa nó mang
tính truyền thống, nhưng khơng phải tất cả tục lệ
là luật” (Thịnh, 2003, tr.39). Có thể chia sẻ quan
niệm này.
Tuy vậy, luật dân gian có thể bị hiểu lầm với
thuật ngữ văn hóa dân gian (folklore). Luật dân gian
là văn hóa dân gian nhưng khơng có nghĩa tất cả
văn hóa dân gian sẽ đều là luật. Thứ hai, dùng khái
niệm luật tục, cũng nghĩa là phân định giữa luật tục
với phong tục và tục lệ. Cả phong tục, tục lệ và luật
tục đều có sự thỏa thuận ngầm hay đồng thuận trong
cộng đồng. Nhưng ta nên coi luật tục là hình thức
phát triển cao hơn của phong tục, tục lệ.
Trong luật tục Mnơng vừa có những đặc trưng
của phong tục, tục lệ vừa có những yếu tố xử phạt,
chế định. Nó là sản phẩm của vốn tri thức dân gian
Mnơng, dùng để duy trì nếp sống của cộng đồng,
theo quan niệm trong văn hóa cổ truyền. Nó được
thể hiện bằng tiếng Mnơng – một thành tố trong vốn
văn hóa cổ truyền dân tộc này.
5.2. Tìm hiểu luật tục Mnơng để làm gì? Tìm
hiểu về mặt ngơn ngữ học để làm gì?
Luật tục Mnơng là một dạng quy phạm xã hội,

JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH



VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
hướng đến việc điều chỉnh và duy trì các mối quan
hệ xã hội. Nó được xem là tri thức bản địa, chứa
đựng nhiều giá trị văn hóa của tộc người Mnơng.
Luật tục Mnơng là một “di sản văn hóa tộc người”,
văn hóa sản xuất, văn hóa sinh hoạt hay những quan
niệm tín ngưỡng, quy tắc ứng xử trong cộng đồng…
đều được thể hiện rõ trong bộ luật tục này. Qua luật
tục, có thể thấy rõ những nét văn hóa Mnơng. Nó
cho thấy cơ cấu xã hội cổ truyền Mnông là môi
trường sinh thành, tồn tại và biến đổi của luật tục,
với những đặc trưng: nhà – làng – nước và tính cộng
đồng trong làng bn, sự hài hịa với điều kiện tự
nhiên.
Có thể thấy rằng, trong một xã hội chưa hình
thành giai cấp, tín ngưỡng dân gian cịn thơ sơ, tư
duy mang nặng tính cụ thể, trực quan, kinh nghiệm,
luật tục Mnông đã bao hàm và thay thế gần như
mọi lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, pháp quyền; phản
ánh rõ nét đặc trưng văn hóa cổ truyền độc đáo của
người Mnơng. Cũng như luật tục của nhiều dân tộc
khác, luật tục Mnơng có những điều khoản phù hợp
với pháp luật hiện nay ở Việt Nam, cần được nghiên
cứu để phục vụ việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Luật tục Mnông là tài liệu quý để nghiên cứu
nhiều mặt. Đây là một hình thức văn hóa của luật
pháp, là tấm gương phản chiếu thực xã hội và là di
sản văn hóa cổ truyền, là kho tàng tri thức dân gian

Mnông, đồng thời cũng là kho lưu trữ từ vựng, các
quy tắc ngữ pháp và lối kiến tạo văn bản nghệ thuật.
Ngôn ngữ trong luật tục là thứ ngôn ngữ dân gian

nghệ thuật, vần vè, thích hợp để dễ nhớ dễ thuộc và
hấp dẫn khi diễn xướng. Những sự vật hiện tượng
được nhắc đến trong ngôn ngữ luật tục rất gần gũi
với đời sống lao động sản xuất và các quan hệ xã
hội Mnơng. Đó cũng là đặc trưng cần chú ý về mặt
ngôn ngữ học, khi đưa luật pháp của Nhà nước
vào đời sống Mnông, cũng như các dân tộc khác ở
Tây Nguyên, theo tinh thần kết hợp sự hiện đại với
những giá trị truyền thống.
6. Kết luận
Ngôn ngữ trong luật tục dân tộc Mnông rất gần
với ngôn ngữ thơ. Trong lời luật tục có nhiều điều
khoản và rất nhiều câu (dịng). Số từ của các câu thơ
trong luật tục Mnông rất đa dạng, do đó cách hiệp
vần biến ảo, nửa tự do nửa cách luật (là “lời nói
có vần”). Trong luật tục có nhiều chương và điều
khoản, các câu tập hợp lại theo các chủ đề, tức là
theo các phạm trù ngữ nghĩa khác nhau. Các trường
từ vựng – ngữ nghĩa thường gặp: động vật; đồ vật;
khơng gian; thực vật; tâm linh, tín ngưỡng; hiện
tượng tự nhiên...
Việc tìm hiểu đặc điểm ngơn ngữ trong luật
tục Mnơng góp phần tìm hiểu kĩ hơn những giá trị
của luật tục - một vốn tài sản văn hóa q báu của
dân tộc Mnơng, khuyến khích tiếp cận liên ngành
nghiên cứu luật tục Mnơng. Mặt khác, có thể vận

dụng những điều luật và cách thức thể hiện bằng
ngôn ngữ dân gian trong luật tục vào việc quản lí xã
hội ở vùng Mnông, theo hướng kết hợp giữa truyền
thống và hiện đại.

Tai lieu tham khao
Bi, T., Kau, D., Tuan, T. D., & Vu, B. M. (2007).
Van dung luat tuc Mnong vao viec xay dung
gia dinh, buon thon van hoa. Ha Noi: Nxb.
Van hoa Dan toc.
Blood, H. F., & Blood, E. (1969). The origin of
Dak Nue-A Mnong Rơlơm legend obtained
from Muom Nơm. MKS Journal, 3, 61–75.
Dournes, J. (2006). Rung, dan ba, dien loan
(Nguyen Ngoc, dich). Ha Noi: Nxb. Hoi
Nha van.
Dang, B. V, Son, C. T., Hong, V. T., & Loi, V.
D. (1982). Dai cuong ve cac dan toc E-de,
Mnong o Dak Lak. Ha Noi: Nxb. Khoa hoc
Xa hoi.
Hung, L. (1994). Buon lang co truyen xu
Thuong. Ha Noi: Nxb. Van hoa Dan toc.
Phillips, R. L. (1973). A Mnong pedagogical
grammar: the verb phrase and constructions
with two or more verbs. MKS Journal, 4,
129–138.

Tham, T. T. (2019). Lap luan trong luat tuc
E-de. Luan an tien sy Ngon ngu hoc, Dai hoc
Su pham Ha Noi.

The, B. K. (1995). Tieng Mnong - ngu phap ung
dung (Chu bien). So Giao duc va Dao tao
tinh Dak Lak
Thinh, N. D. (2003). Tim hieu luat tuc cac toc
nguoi o Viet Nam. Ha Noi: Nxb. Khoa hoc
Xa hoi.
Thinh, N. D., Vinh, T. T., & Kau, D. (1998).
Luat tuc Mnong (Tap quan phap). Ha Noi:
Nxb. Khoa hoc Xa hoi.
Thong, T. V., & Tung, T. Q. (2017). Ngon ngu cac
dan toc o Viet Nam. Nxb. Dai hoc Thai Nguyen.
Trung tam Khoa học Xa hoi & Nhan van Quoc
gia. (2000). Luat tuc va phat trien nong thon
hien nay o Viet Nam. Ha Noi: Nxb. Chinh tri
quoc gia.
Truong, N. K. (2009). Tu dien Viet - Mnong. Ha
Noi: Nxb. Tu dien Bach khoa.

Volume 10, Issue 2

111


VĂN HĨA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN

ĐẶC ĐIỂM NGƠN NGỮ TRONG LUẬT TỤC MNÔNG
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP:
CHƯƠNG IV - VỀ PHONG TỤC TẬP QUÁN)

Tạ Quang Tùng

Viện Ngôn ngữ học Việt Nam
Email:
Ngày nhận bài:
Ngày phản biện:
Ngày tác giả sửa:
Ngày duyệt đăng:
Ngày phát hành:

28/4/2021
30/5/2021
04/6/2021
11/6/2021
30/6/2021

DOI: />
L

uật tục là những quy định, phép tắc ứng xử có từ lâu đã trở thành nền nếp, buộc mọi người phải
tuân theo ở phạm vi cộng đồng hẹp (thường là làng xã). Bài viết phân tích và chỉ ra những đặc điểm
ngôn ngữ của luật tục Mnông, qua một nghiên cứu trường hợp: Chương IV – Về phong tục tập quán. Từ
đó, góp phần nghiên cứu có hệ thống về luật tục các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, hướng tới bảo tồn và phát
huy những giá trị tích cực trong luật tục cổ truyền của cộng đồng.
Ngôn ngữ trong luật tục Mnông rất gần với ngơn ngữ thơ (là “lời nói có vần”). Về hình thức, luật tục có
rất nhiều câu (dịng) liên kết với nhau theo thể, vần và nhịp. Số từ của các câu thơ trong luật tục Mnông rất
đa dạng, cách gieo vần rất biến ảo, nửa tự do nửa cách luật. Về ngữ nghĩa, luật tục Mnông gồm các chương
và rất nhiều điều khoản; các trường từ vựng – ngữ nghĩa: động vật; đồ vật; không gian; thực vật; tâm linh,
tín ngưỡng; hiện tượng tự nhiên...
Từ khóa: Dân tộc Mnơng; Luật tục; Tây Nguyên; Tiếng Mnông; Văn nghệ dân gian.

112


JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH



×