Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận: Lý luận về Hình thái kinh tế xã hội của Triết học Mác Lênin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.76 KB, 28 trang )

Tiểu luận Môn Triết học

LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi con người xuất hiện, xã hội loài người đã và đang trải qua các
hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, lần lượt là: Hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản nguyên thuỷ, hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nơ lệ, hình thái kinh
tế - xã hội phong kiến, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, và đang trong
thời kỳ quá độ lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mỗi hình thái
kinh tế - xã hội được đặc trưng bởi một kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng được
xây dựng trên quan hệ sản xuất đó. Bên cạnh những mặt tích cực, trong lịng xã
hội tư bản chứa đựng những mâu thuẫn khơng thể điều hồ được; đó là mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã xã hội hoá cao với quan hệ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Như vậy, chủ nghĩa tư bản không thể thực
hiện được mục tiêu tạo ra ấm no, tự do, hạnh phúc,… cho tất cả mọi người. Do
đó, tất yếu phải có sự ra đời của phương thức sản xuất mới sau phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, Mác dự báo: phương thức sản xuất đó là phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, con đường đi lên chủ nghĩa đã được Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh lựa chọn từ rất sớm. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, hệ thống
các nước xây dựng chủ nghĩa bị ảnh hưởng rất lớn. Tuy nhiên, Đảng cộng sản
Việt Nam và nhân dân Việt Nam vẫn kiên định đi theo con đường đã chọn và
bảo vệ thành quả cách mạng. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng (01/2011) đã tổng kết như sau: Theo quy luật tiến hố của lịch sử, lồi
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát
vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Để góp phần hơn cơ sở lý luận và thực tiễn của con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, vì vậy tơi chọn đề tài: “Lý luận về Hình thái kinh tế xã hội của Triết học Mác - Lênin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam” làm tên cho bài tiểu luận của mình.
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH



Trang 1


Tiểu luận Môn Triết học

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG TRIẾT
HỌC MÁC - LÊNIN
1.1. Các yếu tơ cơ bản cấu thành một hình thái kinh tế - xã hội.
Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội, cho lên xuất phát từ con người hiện thực, trước hết phải
xuất pháttừ sản xuất để đi tới các mặt khác của xã hội, tìm ra các quy luật vận
động phát triển khach quan của xã hội. Mác đã phát hiện ra trong sản xuất có hai
mặt khơng thể tách rời nhau. Một mặt, là quan hệ giữa người với tự nhiên, mặt
khác là quan hệ giữa người với người.
Lực lượng sản xuất: biểu hiện quan hệ giữa người với tự nhiên. Trình độ
của lực lượng thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của loài người. Lực lượng
sản xuất bao gồm:
- Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động,
biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
- Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động. Tư liệu
sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối tượng lao động và tư
liệu lao động là những yếu tố vật chất của quá trình lao động sản xuất hợp thành
tư liệu sản xuất mới.
+ Đối tượng lao động bao gồm bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào
sản xuất. Thí dụ đất canh tác, nguồn nước... Con người khơng chỉ tìm trong giới
tự nhiên những đối tượng có sẵn, mà cịn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao
động. Sự phát triển của sản xuất có liên quan tới việc đưa những đối tượng ngày

càng mới hơn vào quá trình sản xuất. Điều đó hồn tồn có tính quy luật bởi
những vật liệu mới mở rộng khả năng sản xuất của con người.
+ Trong tư liệu lao động có cơng cụ lao động và những tư liệu lao động
khác cần thiết cho việc vận chuyển bảo quản sản phẩm... Tư liệu lao động là vật
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 2


Tiểu luận Môn Triết học

hay là phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với đối tượng lao động,
chúng dẫn chuyền tác động của con người với đối tượng lao động.
Trong tư liệu lao động công cụ lao động là hệ thống xương cốt, bắp thịt
của sản xuất và là tiên chí quan trọng nhất, trong quan hệ xã hội với giới tự
nhiên. Cùng với sự cải tiến và hồn thiện cơng cụ lao động thì kinh nghiệm sản
xuất của loài người cũng được phát triển và phong phú thêm, những nghành sản
xuất mới xuất hiện, sự phân cơng lao động phát triển. Trình độ phát triển tư liệu
sản xuất mà chủ yếu là công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự
nhiên của lồi người, là cơ sở xác định trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế theo Mác.
“Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất bằng cách
nào”. Đối với mỗi thế hệ, những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại, trở thành
điểm xuất phát của sự phát triển tương lai. Nhưng những tư liệu lao động chỉ trở
thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động khi chúng kết hợp với lao
động sống. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu, nhưng nếu tách khỏi
người lao động thì cũng khơng phát huy được tác dụng không thể trở thành lực
lựơng sản xuất của xã hội. Con người không chỉ đơn thuần chịu sự quy dịnh
khách quan của điều kiện lịch sử mà nó cịn là chủ thể tích cực tác dụng cải tạo
điêù kiện sống. Họ không chỉ sử dụng những công cụ lao động hiện đại có mà

cịn sáng chế ra những công cụ lao động mới.
Quan hệ sản xuất: biểu hiện mối quan hệ giữa người với người. Quan hệ
sản xuất là mối quan hệ cơ bản của một hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi kiểu quan
hệ sản xuất tiêu biểu cho sản xuất kinh tế xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau đây: Quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất, Quan hệ quản lý và phân công lao động, Quan hệ phân phối
sản xuất lao động.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau khơng tách rời nhau, trong
đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những
quan hệ khác. Bản chất của bát kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 3


Tiểu luận Môn Triết học

vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Mỗi quan hệ sản xuất có một chế độ quản lý sản xuất riêng. Chế độ sở hữu về tư
liệu sản xuất như thế nào thì chế độ quản lý sản xuất cũng như thế ấy. Trong chế
độ chiếm hữu tư nhân thì người chiếm hữu tư liệu sản xuất trở thành kẻ quản lý
sản xuất, con người lao động khơng có tư liệu sản xuất trở thành người bị quản
lý. Còn trong chế độ quản lý xã hội thì người lao động được đặt vào trong các
mối quan hệ sở hữu và quản lý một cách trực tiếp đồng thời có cơ chế bảo đảm
hiệu quả quyền lực của nhân dân.
Trên cơ sở nghiên cứu, hai mặt của quá trình sản xuất Mác - Ăngghen đưa
ra khái niệm mới là “Phương thức sản xuất”. Theo 2 ơng thì “một hình thức hoạt
động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của sự biểu hiện
đời sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định”.
C.Mác đã nêu phát hiện mới về mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản

xuất và sự phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã
hội lực lượng sản xuất quyết định “hình thức giao tiếp tới một giai đoạn nhất
định, trong sự phát triển của chúng, các lực lượng sản xuất giữa mâu thuẫn với
“hình thức giao tiếp” hiện tại. Mâu thuẫn này được giải quyết bằng một cuộc
cách mạng xã hội. Về sau “hình thức giao tiếp” mới đến lượt nó lại không phù
hợp với các lực lượng sản xuất đang phát triểt, lại biến thành sản xuất “xiềng
xích” trói buộc lượng sản xuất và bằng con đường cách mạng xã hội “hình thức
giao tiếp” đã lỗi thời, lạc hậu.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hợp thành những quan hệ vật chất
của xã hội. Ngoài những quan hệ vật chất trong đời sống xã hội con tồn tại các
quan hệ tinh thần, tư tưởng. Do vậy chúng ta cần phải nghiên cứu mối quan hệ
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng là toán bộ những quan hê sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể
đao gồm những quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tồn dư của xã hội
trước và quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau. Những đặc trưng do tính
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 4


Tiểu luận Môn Triết học

chất của cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản xuốt thống trị quy định. Trong xã hội có
giai cấp đối kháng, tính chất giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu quan hệ sản
xuất thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt
nguồn từ ngay trong cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng bao gồm: Những tư tưởng chính trị , pháp luật, triết
học , đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,… cùng những tổ chức và thiết chế khác (nhà
nước, chính đáng, giáo hội, các đoàn thể ...). Như vậy, kiến trúc thượng tầng là

toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội
tại của chúng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Các yếu tố kiến trúc thượng tầng tác động qua lại lẫn nhau và đều nảy sinh
trên cơ sở hạ tầng. Trong đó các tổ chức chính trị, pháp luật có liên hệ trực tiếp
với cơ sở hạ tầng, còn các yếu tố triết học, nghệ thuật, tơn giáo, chỉ có quan hệ
gián tiếp với nó.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, cơ sở hạ tầng tồn tại những quan hệ
đối kháng thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính chất đối kháng. Phản ánh
tính chất đối kháng của cơ sở hạ tầng biểu hiện ở sự sung đột và cuộc đấu tranh
tư tưởng của các giai cấp đối kháng.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng biểu
hiện: Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện
trước hết ở chỗ quan hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng
tương ứng; giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về tinh thần thì cũng chiếm địa vị
trong đời sống xã hội. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất
mâu thuẫn trong vấn đề tư tưởng. Cuộc sống đấu tranh trong lĩnh vực chính trị,
tư tưởng là biểu hiện của những mâu thuẫn đối kháng trong lĩnh vực kinh tế, và
khiến những biến đổi hạ tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong hình thái cũng như di
chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác. Trong
xã hội có đối kháng giai cấp sự biến đổi đó diễn ra theo cuộc đấu tranh giai cấp
gay go phức tạp giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị khi cách mạng xã hội bỏ
qua xoá bỏ cơ sở hạ tầng cũng thay thế băngf cơ sở hạ tầng mới thì thống trị giai
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 5


Tiểu luận Mơn Triết học

cấp thống trị xố bỏ và được thay thế bằng giai cấp thống trị mới, bộ máy nhà

nước được hình thành thay thế bộ máy nhà nước cũ đồng thời bộ máy nhà nước
mới được hình thành. Cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng của nó
với tính cách là một chỉnh thể thống trị cũng mất theo Song cũng có những nhân
tố riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng ấy còn tồn tại rất dai dẳng sau khi cơ sở
kinh tế sinh ra nó đã bị tiêu diệt. Cũng có yếu tố nào đó của kiến trúc thượng
tầng cũ được giai cấp cầm quyền mới duy trì lại xây dựng kiến trúc thượng tầng
mới. Như vậy, sự hình thành và phát triển của kiến trúc thượng tầng do cơ hạ
tầng quyết định, đồng thời nó cịn có quan hệ kế thừa đối với các yếu tố của kiến
trúc thượng tầng của xã hội cũ. Tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến
trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp trong quá trình chuyển từ một hình thái
kinh tế xã hội này sang một hình thái kinh tế xã hội khác.
Mặt khác, kiến trúc thượng tầng luôn là lực lượng tác động mạnh mẽ trên
toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, và tác động tích cực lại cơ sở hạ tầng sinh
ra nó. Điều đó thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ
và duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xố bỏ cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ. Kiến trúc thượng tầng có tác dụng to lớn
đối với cơ sở hạ tầng khi nó tác động cùng chiều với quy luật vận động của cơ
sở hạ tầng, trái lại khi nó tác động ngược lại với quy luật kinh tế khách quan nó
sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tàng. Những tác dụng kìm hãm sự phát triển
của kinh tế tiến bộ xã hội của nó chỉ tạm thời, sớm muộn sẽ bị cách mạng khuất
phục. Quá nhấn mạnh hoặc thổi phồng vai trò của kiến trúc thượng tầng hoặc
phủ nhận tất yếu của kinh tế xã hội, sẽ không tránh khỏi ra vào của chủ nghĩa
duy tâm khách quan, và không thể nhận thức đúng đắn sự phát triển của lịch sử.
Tóm lại, khi xem xét xã hội với tư cách là một chỉnh thể tồn vẹn có cấu
trúc phức tạp C.Mác & Ph.Ăngghen đề cập đến 3 yếu tố cơ bản nhất của nó là
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng mỗt mặt đó có vai
trị nhất định và tác động đến mặt khác tạo lên sự vận động của cơ thể xã hội.
Mối quan hệ giữa các nhân tố trên đây được phản ánh vào khái niệm học thuyết
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH


Trang 6


Tiểu luận Mơn Triết học

hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những quan
hệ sản xuất của nó thích ứng với lực lượng sản xuất ở trình độ nhất định và với
một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó .
Lý luận hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa duy vật, lịch sử chỉ rõ kết
cấu cơ bản và phổ biến của xã hội bao gồm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng, chỉ rõ cơ thể vận động xã hội chính là sự hoạt động
của quy luật về sự phù hợp của các quan hệ sản xuất với tính chất cịn trình độ
của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng,
và các quy luật khác. Chính do sự tác động của các quy luật khách quan đó mà
nguồn gốc sâu xa là sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho hình thái kinh
tế xã dược thay thế bằng hình thế kinh tế xã hội cao hơn. Sự thế nhận từ thấp
đến cao của hình thái kinhtế xã hội cao hơn diễn ra như một quá trình tự nhiên.
1.2. Sự phát triển của Hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
(hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã
hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một
kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó.
Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa
các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt của hình thái
kinh tế - xã hội tác động qua lại với nhau tạo nên các quy luật vận động, phát

triển khách quan của xã hội. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó
mà hình thái kinh tế xã hội tuy là phạm trù xã hội nhưng lại có khuynh hướng
phát triển như một quy luật tự nhiên, nó vận động phát triển từ thấp đến cao. Xã
hội lồi người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 7


Tiểu luận Môn Triết học

nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã
hội, C.Mác đã đi đến kết luận rằng: “Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh
tế-xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên bởi vì:
Con người tạo nên lịch sử của mình, nhưng khơng phải theo ý muốn chủ
quan mà theo quy luật khách quan. Đó là hoạt động của họ, tuy do ý thức chỉ
đạo, nhưng lại diễn ra trong một hoàn cảnh khách quan nhất định mà họ hải tích
ứng. Trong các quan hệ xã hội khách quan lại tạo nên hồn cảnh thì quan hệ
kinh tế xét đến cùng là quan hệ quyết định và quan hệ kinh tế đó lại dựa trên một
trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của hình thái kinh tế do
sự tác động của các quy luật phổ biến khách quan là quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật về mối quan hệ biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết
định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ
làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã
hội được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Qúa trình

đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Theo
quan niệm của Lênin: Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào quan hệ sản
xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản
xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển
của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển
chung của nhân loại. Song, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị
chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự
nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế,... Cho nên có
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 8


Tiểu luận Môn Triết học

những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao
nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội
nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự
nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên, muốn nhận thức đúng
đắn đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của
xã hội. Theo Lênin, xã hôig là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng,
một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách quan
những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải
nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó.
Như vậy, q trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những
diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong
những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Trước khi C.Mác đưa ra học thuyết về hình thái kinh tế xã hội thì về cơ
bản chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Thể hiện ở

chỗ có những quan điểm cho rằng lịch sử phát triển khơng có quy luật mà chỉ
theo chiều hướng ngẫu nhiên, khơng đốn định, hoặc lịch sử phát triển phụ
thuộc vào ý muốn, ý thích chủ quan của con người, con người muốn phát triển
như thế nào thì lịch sử sẽ phát triển như vậy, đặc biệt là ý chí của những lãnh tụ,
những bậc anh hùng, hoặc quan điểm cho rằng lịch sử là đời sống con người ở
một thời đại.
Lịch sử không chỉ là cuộc đời và những chuyến thám hiểm của các nhà
quý tộc, các vị vua, các vị linh mục,… mà nó cho thấy những giai đoạn nối tiếp
nhau của những phương thức sản xuất khác nhau, nhờ những phương thức sản
xuất đó con người đạt được sức mạnh để chiến thắng thiên nhiên.
Sau đó, sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại cho khoa
học xã hội một phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học. Học thuyết đó chỉ ra
rằng: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết
định các mặt của đời sống xã hội. Cho nên, không thể xuất phát từ ý thức, tư
tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 9


Tiểu luận Môn Triết học

sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất.
Kể từ khi học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội ra đời đến nay, lồi
người đã có những bước phát triển to lớn về mọi mặt, nhưng học thuyết đó vẫn
là phương pháp thực sự khoa học để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống
xã hội.
Tại Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: Con đường đi lên của
nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc

thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công
nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Đảng ta cho rằng, theo quy luật phát triển các hình thái kinh tế - xã hội ở
Việt Nam hiện nay là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, phải làm cho kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Xây dựng kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi
hoạt động cách mạng.
1.3. Quan điểm của C. Mác, Ăngghen và V.I. Lênin về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Quan điểm của C.Mác và Ăngghen về sự bỏ qua trong lời tựa viết cho
bản tuyên ngôn của đảng cộng sản C.Mác và Ăngghen nhấn mạnh
“Bây giờ thử hỏi công xã nơng thơn Nga, cái hình thức đã bị phân giải ấy
của chế độ công hữu xung đột nguyên thuỷ, có thể chuyển thẩng lên chức cao,
cộng sản chủ nghĩa về sở hữu ruộng đất hay không hay là trước hết .nó phải trải
qua q trình tan vỡ như no đã trải qua trong tiến trình phát triển lịch sử của
phương tây”.
Ngày nay, lời giải đáp duy nhất cho câu hỏi ấy là thế này; nếu cách mạng
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 10


Tiểu luận Môn Triết học

Nga báo hiệu cuộc cách mạng vô sản ở phương tây và nếu 2 cuộc cách mạng bổ
xung cho nhau thì thế khơng ruộng đất của Nga hiện nay nếu có thể là khởi điểm

của sự tiến truyển cộng sản chủ nghĩa
Trong tác phẩm “Bàn về vấn đề ở Nga” Ph.Ăngghen viết: Nhưng một
điều tất yếu để làm một điều đó nay vẫn cịn là tư bản Chủ nghĩa. Chỉ khi nào
nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa bị đánh bại ở quê hương của nó và ở các phát đạt,
chỉ khi nào nước lạc hậu qua tấm gương ấy mà biết được rằng việc được tiến
hành như thế nào những lực lượng sản xuất công nghiệp hiện đại với tư cách sở
hữu công cộng đã được sử dụng như thế nào để phục vụ toàn thể xã hội, thì
những nước lạc hậu ấy mới có thể bước vào con đường phát triển rút ngắn như
vậy. Như thế thắng lợi của các nước ấy sẽ được đảm bảo.
Như vậy theo Ph. Ăngghen những nước lạc hậu, tiến tư bản chủ nghĩa chứ
khơng riêng gì nước Nga, đều có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường
phát triển bỏ qua con đường tư bản chủ nghĩa phải có những điều kiện nhất định.
Trong đó có điều kiện đầu tiên là cách mạng vô sản đã thành công ở tây âu. Điều
kiện thứ 2: Các nước tiến tư bản như chủ nghĩa nhân dân lao động dưới sự lãnh
đạo cuả đảng cộng sản đã làm cách mạng dành được chính quyền từ giai cấp
thống trị. Điều kiện kiện thứ 3: Các nước đó phải được sự giúp đỡ của các nước
phương tây đã hoàn thành cách mạng vô sản.
Quan điểm của V.I.Lê nin về phát triển bỏ qua. Theo Lênin có 2 hình thức
q độ gián tiếp. Lênin cho rằng những những nước mới phát truyển thì có thể
đi lên chủ nghĩa xã hội bằng q độ trực tiếp. Ngược lại, những nước lạc hậu có
thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ gián tiếp.
Thực chất của hình thức quá độ gián tiếp là sự thay đổi quan điểm của
Lênin về cách đi lên của chủ nghĩa xã hội của những nước tiến tư bản chủ nghĩa.
Nếu ở giai đoạn đầu ông quan niệm bước chuyển lên chủ nghĩa xã hội là trực
tiếp, và tất nhiên là nhanh chóng, thì giờ đây ơng cho rằng việc chuyển như vậy
phải được thực hiện qua nhiều khâu trung gian, qua bước chuyển gián tiếp và
đương nhiên là rất phức tạp và lâu dài.
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 11



Tiểu luận Mơn Triết học

Ơng cũng nêu lên những điều kiện những nước lạc hậu về kinh tế còn tồn
tại các quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội:
- Phương thức sản xuất của xã hội để tỏ ra rõ thôi về mặt lịch sử.
- Đội tiền phong chính trị của giai cấp cơng nhân có đủ quyết tâm cùng
tồn dân giành chính quyền.
- Có sự giúp đỡ của giai cấp cơng nhân đã giành được chính quyền ở nước
tư bản phát triển hơn.

SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 12


Tiểu luận Mơn Triết học

CHƯƠNG II
VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀO CON
ĐƯỜNG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Sau khi thống nhất đất nước, cả nước đã quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta luôn vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin trong đó có lý luận
hình thái kinh tế - xã hội vào việc đề ra các chủ trương phát triển đất nước, tuy
nhiên do chủ quan duy ý trí cịn có quan niệm ấu trí về chủ nghĩa xã hội và lo
lắng có ngay chủ nghĩa xã hội lên chúng ta mắc phải một số quyết điểm nghiêm
trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Một là, từ chỗ khẳng định Việt Nam quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ

qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta đã có một nhận thức hết sai
làm là bỏ qua tất các những gì thuộc về chủ nghĩa tư bản, khơng tiếp thu những
yếu tố hợp lý, tích cực của nó vào sự phát triển, vơ hình chúng ta đã từ bỏ những
thành tựu của nhân loại đạt được làm cho chúng ta không tận dụng được các
khâu trung gian các bước quá độ cần thiết để vững chăc chế độ xã hội với trên
cơ sở tiếp thu kế thừa có chọn lọc những tinh hoa do nhân loại đã tạo ra.
Hai là, nhận thức nhân gian về chủ nghĩa xã hội trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, do chúng ta nhận thức chưa đầy đủ và hết sưc gian nan về chủ
nghĩa xã hội, và do tư tưởng nơn nóng muốn có ngay chủ nghĩa xã hội trong thời
gian gắn cho lên dẫn đến thưc hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội chẳng những
chúng ta khơng đạt được mục tiêu đề ra mà cịn phá hoại nghiêm trọng sản xuất
và làm nảy sinh nhiều tiêu cực về xã hội.
Ở nước ta, bệnh chủ quan duy ý trí đã từng thể hiện ở chỗ đánh giá tình
hình thiếu khách quan, say sưa với thắng lợi, khơng thấy hết khó khăn, phức tạp,
vạch ra các mục tiêu khá cao, coi thường việc khuyến khích lợi ích thực chất,
cường điệu động lực tinh thần, muốn bỏ qua giai đoan tất yếu để tiến nhanh,
không tôn trọng các quy luật khách quan.
Sự hình thành và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa cũng như chủ
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 13


Tiểu luận Môn Triết học

nghĩa xã hội, là một quá trình lịch sử tự nhiên, tuân theo các quy luột khách
quan. Vì vậy, lếu con người muốn thay đổi xã hội theo ý muốn chủ quan hay
muốn dùng mệnh lệnh để xoá bỏ các giai đoạn phát triển tự nhiên của nó thì
khơng tránh khỏi “sự trớ trêu”.
Đứng trước thực tế, khủng hoảng kinh tế xã hội nảy sinh và ngày trở nên

trầm trọng, Đảng cộng sản Việt Nam đề ra đổi mới đất nước đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI.
Để thực hiện thắng lợi công cuộc chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chúng ta
phải nỗ lực hơn nữa trong việc nhận thức và sử dụng quy luật khách quan của sự
phát triển xã hội, trong đó về hình thái xã hội
2.2. Tính tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta lựa chọn từ rất
sớm, ngay khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở
miền Bắc và từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước
thống nhất, cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân đã hồn tồn thắng lợi trên
phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta là một thời kỳ lịch sử mà: "nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây
dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa
xã hội, có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hố và khoa học tiên
tiến. Trong q trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh
tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu
dài". Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi
quốc gia xây dựng chủ nghĩa xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao
hay thấp.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã
hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 14


Tiểu luận Môn Triết học


Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Nhân dân ta đi theo Đảng tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
khơng chỉ nhằm thốt khỏi ách đô hộ của ngoại bang, cũng không chỉ nhằm
thốt khỏi gơng cùm của phong kiến mà khát vọng của nhân dân ta là muốn tiến
tới thoát khỏi mọi kiểu áp bức, bóc lột, mọi người đều được sống trong ấm no,
tự do, hạnh phúc. Chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được khát vọng
đó. Nếu đi theo con đường tư bản chủ nghĩa mà nhân dân ta đã từng chứng kiến
sự đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa tư bản Pháp, Mỹ thì khơng thể đáp ứng được
nguyện vọng của nhân dân. Chính vì vậy, đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng
của nhân dân ta. Đó là một sự thật lịch sử khơng ai có thể phủ nhận được.
Sinh ra và lớn lên ở đất nước bị đế quốc Pháp xâm chiếm, dân tộc bị chìm
đắm trong vịng nơ lệ. Cách mạng trong đêm tối khơng tìm thấy đường đi. Trong
bối cảnh ấy, Nguyễn Ái Quốc sau nhiều năm bôn ba khắp các châu lục tìm
đường cứu nước đã rút ra kết luận: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế
giới khỏi ách nô lệ” và “chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng
được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và của cách mạng thế giới”. Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được
thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng 3-2-1930 đã chỉ rõ: “Làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, tức là tiến
hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mở đường tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là chủ trương cách mạng triệt để,
là sự vận dụng sáng tạo học thuyết cách mạng không ngừng của chủ nghĩa MácLênin và quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh
Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến. Có thể nói, độc lập dân tộc gắn
với chủ nghĩa xã hội được đặt ra ngay từ đầu và nhanh chóng trở thành sợi chỉ
đỏ trong đường lối của Đảng ta, là quy luật của cách mạng Việt Nam. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã
khẳng định: “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội: Đó là bài
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH


Trang 15


Tiểu luận Mơn Triết học

học xun suốt q trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên
quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững
chắc độc lập dân tộc”.
Sự lựa chọn đó đã được thực tiễn kiểm nghiệm: Từ năm 1930 đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã
lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt
qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân,
phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào
kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược,
mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm
1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa
vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại
hố và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một
xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển
theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, có quan
hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế
giới.
Chính vì thế, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đi
lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của

Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát
triển của lịch sử”. Báo cáo chính trị tại Đại hội XI cũng chỉ rõ: “Thực tiễn phong
phú và những thành tựu đạt được qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chứng tỏ
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; đi lên chủ nghĩa xã hội là
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 16


Tiểu luận Môn Triết học

sự lựa chọn phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Chúng ta một lần nữa khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân
tộc ta có độc lập, tự do thực sự, đất nước phát triển phồn vinh, nhân dân có cuộc
sống ấm no, hạnh phúc”(5). Sự khẳng định đó là hồn tồn chính xác, khoa học
và cách mạng, hồn tồn khơng phải là xuất phát từ ý muốn, nguyện vọng chủ
quan.
Nói về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta xác định:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về
chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho
nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất q độ.
Đây là một q trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa
cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước
phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
2.3. Nội dung con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền

kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên thế giới.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được
về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về
chính trị, tư tưởng, văn hố phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã
hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 17


Tiểu luận Môn Triết học

Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu
xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Để thực hiện thành cơng các mục tiêu trên, tồn Đảng, tồn dân ta cần nêu
cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm
năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt
các phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng

con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Cương lĩnh của Đảng là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho
mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và nhân dân ta
trong những thập kỷ tới. Thực hiện thắng lợi Cương lĩnh này, nước nhà nhất
định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc.
Đảng kêu gọi tất cả đảng viên của Đảng, toàn thể đồng bào Việt Nam ở
trong nước và ở nước ngoài mang hết tinh thần và nghị lực phấn đấu thực hiện
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 18


Tiểu luận Môn Triết học

thắng lợi Cương lĩnh, vững bước đi tới tương lai.
2.4. Thành tựu của công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam (1986 - 2021)
Chủ trương đổi mới đã được Đảng ta đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của Đảng. Đến nay, sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được
những thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử, thay đổi đời sống mọi

mặt của người dân: kinh tế tăng trưởng ở mức tương đối cao, đời sống của nhân
dân không ngừng được cải thiện, tình hình chính trị và xã hội ổn định, quan hệ
đối ngoại được mở rộng và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên
trường quốc tế.
Một là, quy mô nền kinh tế tăng mạnh
Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn
tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) mức tăng trưởng GDP
bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân đã
tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá
cao; giai đoạn 2016-2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020 kinh tế
chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh COVID-19 nhưng tốc độ tăng GDP của
Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.
Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ
USD/năm, thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân
dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu
nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm, thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750
USD/năm. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ-tiêu dùng, tiết kiệm-đầu
tư, năng lượng, lương thực, lao động-việc làm… tiếp tục được bảo đảm, góp
phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô.
Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư
liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho
phát triển. Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo
giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 19


Tiểu luận Môn Triết học


(FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2020, trong
bối cảnh đại dịch COVID-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà
đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD.
Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm
động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh
tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình
thành các vùng chun mơn hố cây trồng, vật ni gắn với chế biến cơng
nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển
mạnh mẽ.
Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những
nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt
hàng nông sản, như: cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tơm, gỗ và sản phẩm từ gỗ...
ln duy trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn.
Đặc biệt, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 khiến hoạt
động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, các nước nhập khẩu ngày càng
siết chặt hàng rào phi thuế quan, bảo hộ trong nước gia tăng, thì tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng
5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp
xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt
Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và năng lực xuất khẩu, đứng thứ
26 về quy mô thương mại quốc tế. Đây chính là bước tạo đà, tạo lực bứt phá cho
hoạt động xuất nhập khẩu trong giai đoạn tới.
Hai là, gắn kết hài hịa với phát triển văn hóa-xã hội
Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản
gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với
bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ
Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng
tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH


Trang 20


Tiểu luận Môn Triết học

động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ khơng chấp nhận có sự phân hóa giàunghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đơi với tích cực
xóa đói giảm nghèo.
Đặc biệt, công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu
ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22%
năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020 (theo
chuẩn nghèo đa chiều).
Công tác giáo dục đạt được nhiều thành tựu. Quy mô giáo dục tiếp tục
được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp
ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về Giáo dục phổ thông của Việt
Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1
đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN, sau Singapore); Tỷ lệ học sinh đi
học và hoàn thành Chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu
của khối ASEAN. Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên
trong bảng xếp hạng châu Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên
thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo
dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới. Việt Nam đang
là điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế trong những năm gần
đây…
Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó,
người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật
chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu
khám, chữa bệnh của nhân dân… Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ
thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều
kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan, thận...; kiểm

sốt được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có COVID-19; chủ động sản
xuất được nhiều loại vaccine phòng bệnh, mới đây nhất là vaccine phịng
COVID-19...
Bên cạnh đó, cơng tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 21


Tiểu luận Môn Triết học

nước quan tâm thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội
ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần
của người dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Trong 25
năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã giải quyết cho hơn 112,5 triệu lượt người
hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Từ năm 2003-2018, ngành Bảo hiểm xã hội
phối hợp với ngành Y tế đã đảm bảo quyền lợi cho trên 1.748 triệu lượt người
tham gia khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, bình qn mỗi năm có trên 109 triệu
lượt người thanh tốn chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Ngoài ra, các phong trào “Tương thân tương ái”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống
nước nhớ nguồn” do các cấp và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh
nghiệp và toàn thể nhân dân thực hiện và hưởng ứng tham gia trong những năm
qua cũng đã phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp đáng kể vào
nâng cao sách an sinh xã hội cho nhân dân, nhất là người nghèo, vùng khó khăn.
Ba là, hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao
35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của
thị trường toàn cầu. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược
về kinh tế. Tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường
trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Đến nay đã có 71 quốc gia công

nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác
thương mại lớn của Việt Nam.
Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và
song phương và đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Các FTA mà Việt
Nam tham gia có độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế có
tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và
9/10 đối tác kinh tế-thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế
lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đơng Á. Do đó, việc tham gia và thực
thi các FTA sẽ mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới
phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 22


Tiểu luận Môn Triết học

phẩm...
Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao
trong các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương
(APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc... đóng góp tích cực và đang trở thành
nước có vị thế và vai trị ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế tơn
trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan
trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy
ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-2017, Hội đồng Kinh tế-Xã
hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018.
Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ
tịch AIPA, trong bối cảnh vơ cùng khó khăn của đại dịch COVID-19 và những

thiệt hại nặng nề do thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba
trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế
giới.
Tóm lại, thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được sau
35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng được thể hiện toàn diện trên các
lĩnh vực. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng và tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được đẩy mạnh. Từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất - kỹ thuật,
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay Việt Nam đã vươn
lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; văn hóa, xã hội tiếp
tục phát triển; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt;
khối đại đoàn kết tồn dân tộc khơng ngừng được củng cố, tăng cường; chính trị,
xã hội ổn định, quốc phịng, an ninh và độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế
và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Ngay trong
năm 2020, khi đại dịch Covid-19 bùng phát đã gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế
- xã hội nghiêm trọng nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai trở lại đây; nhiều
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 23


Tiểu luận Mơn Triết học

quốc gia đang phải căng mình tìm cách ngăn chặn nhưng rất khó khăn, nhân dân
rất hoang mang, lo sợ. Việt Nam là nước có nguy cơ lây nhiễm cao vì điều kiện
kinh tế, y tế, khoa học kỹ thuật còn hạn chế. Tuy vậy, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành của Đảng và Chính phủ, cả nước vào cuộc, hành động quyết liệt,
chúng ta đang khống chế, kiểm soát hiệu quả hiểm họa lớn này và đã thành công
quan trọng trên cả hai “mặt trận” - chống dịch và phát triển kinh tế. Bạn bè trên
thế giới khen ngợi, Việt Nam đã làm nên kỳ tích, là quốc gia hiếm hoi trên thế

giới duy trì được trạng thái “bình thường” trong bối cảnh cả thế giới đang phải
căng mình đối phó với dịch bệnh...
Một thành tựu rất đáng mừng, rất đáng trân trọng, là nguyên nhân cơ bản
của các thành tựu to lớn khác là cơng tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
có bước đột phá. Với lịng tin u vơ bờ bến đối với nhân dân, với trách nhiệm
chính trị cao cả trước Tổ quốc, nhân dân và dân tộc, Đảng ta đã dũng cảm nhìn
thẳng vào sự thật, nhận rõ hạn chế, khuyết điểm của mình và kiên quyết khắc
phục. Chính điều này càng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân gắn bó mật
thiết hơn với Đảng; tin tưởng vững chắc hơn vào sự lãnh đạo của Đảng.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới kể trên là kết quả của quá trình
phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều
nhiệm kỳ đại hội, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, có hiệu quả, kịp thời của
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng. Đây
chính là tiền đề quan trọng, tạo ra tiềm lực, sức mạnh, niềm tin vào sự phát triển
nhanh và bền vững của đất nước trong tương lai.

SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 24


Tiểu luận Mơn Triết học

KẾT LUẬN
Lý luận hình thành kinh tế - xã hội là một trong những thành tựu khoa học
mà C. Mác đã để lại cho nhân loại. Chính nhờ xuất phát từ con người hiện thực con người đang sống hiện thực của mình, C. Mác đã vạch ra sản xuất vật chất là
cơ sở đời sống xã hội. Xã hội là một hệ thống mà trong đó quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Sự vận động và
phát triển của Xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Các hình thành kinh tế xã
hội thay thế nhau từ thấp đến cao thông qua cách mạng xã hội. Sự vận động phát

triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Sự vận động phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội vừa bị chi phối bởi các quy luật chung, vừa bị tác động bởi các
điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia, từng dân tộc.
Mặc dù hiện nay, xã hội lồi người có những đặc điểm khác với C.Mác,
Lý luận hình thành kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị. Nó là phương pháp
luận thực sự khoa học để phân chia giai đoạn phát triển, xem xét mỗi quan hệ
lẫn nhau giưa các mặt trong đời sống xã hội như quy luật vận động, phát triển từ
hình thái kinh tế xã hội. Lý luận đó khơng tham vọng giải thích được tất cả các
mặt của đời sống xã hội là nó địi hỏi bằng các phương pháp tiếp cận khoa học
khác. Cùng với sự phát triển của thực tiễn xã hội và khoa học, loài người ngày
nay cũng tìm ra những phương pháp tiếp cận mới về xã hội, nhưng khơng phải
vì thế mà lý luận hình thành kinh tế - xã hội trở lên lỗi thời.
Cùng với việc khái quát lý luận hình thành kinh tế - xã hội, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra các quy luật phát sinh phát triển và
diệt vong của nó. Từ đó, các Ông đi đến dự đoán về sự ra đời của hình thành
kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội.
Lý luận đó cũng cung cấp cho chúng ta một phương pháp luận thực sự
khoa học để phân tích. Sự vận động phát triển đầy đủ mâu thuẫn hiện nay của
nhân loại. Nó cho thấy: Măc dù chủ nghĩa xã hội bị khủng hoảng dẫn đến sự sụp
đổ của Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục phát triển và đạt
được nhiều thành tựu, những tất yếu của chủ nghĩa tư bản sẽ được thay thế bằng
SVTH: Phan Thanh An - Lớp: K30-CTXH

Trang 25


×