Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Các biện pháp phi thuế quan và lộ trình cắt giảm của Việt Nam trong quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tới năm 2010” pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (856.07 KB, 93 trang )




---XW---
















Các biện pháp phi thuế quan và lộ trình cắt
giảm của Việt Nam trong quá trình gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tới năm
2010




















1

LỜI NÓI ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài:

Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã và đang
tham gia ngày càng sâu và rộng hơn vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tháng 7-
1995, Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN và nhanh chóng tham gia Khu vực
Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA). Tháng 11-1998, Việt Nam trở thành thành viên của
Diễn đàn Hợp tác Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Ngày 13-7-2000, Việt Nam đã ký
Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ. và hiện nay đang tích cực chuẩn bị đàm
phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Mặc dù quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại mang lại nhiều
cơ hội và lợi ích rõ rệt nhưng bên cạnh đó cũng có không ít những thách thức đối với mỗi
quốc gia. Các nước khi tham gia vào quá trình này đều cam kết thực hiện tự do hóa

thương mại nhưng trên thực tế không một nước nào, dù là nước có nền kinh tế mạnh, lại
không có nhu cầu bảo hộ sản xuất trong nước. Và một trong những công cụ bảo hộ hữu
hiệu nhất đó là sử dụng các biện pháp phi thuế quan.

Việc xây dựng chiến lược về các biện pháp phi thuế quan đóng một vai trò rất
quan trọng đối với Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Với trình độ phát
triển kinh tế còn thấp, thực lực còn rất yếu, chúng ta cần phải đưa ra những biện pháp phi
thuế quan cần thiết để bảo hộ một số ngành sản suất non yếu trong nước, đồng thời những
biện pháp đó lại phải phù hợp với các quy định của WTO. Bên cạnh đó chúng ta cũng cần
phải cắt giảm một số hàng rào phi thuế trái với quy định c
ủa WTO để đẩy nhanh quá
trình gia nhập WTO của Việt Nam. Vậy, vấn đề này sẽ được giải quyết như thế nào? Lộ
trình cắt giảm và cắt giảm những biện pháp cụ thể nào để vừa đáp ứng yêu cầu của WTO,
vừa bảo vệ quyền lời của Việt Nam với ý nghĩa là một nước đang phát triển, đang trong
quá trình chuyển đổi? Điều này đòi hỏi phải có sự phân tích cụ thể.


2
Đó là lý do em chọn vấn đề “Các biện pháp phi thuế quan và lộ trình cắt giảm
của Việt Nam trong quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) tới năm 2010” làm đề bài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu những biện pháp phi thuế quan của WTO và phân tích những tác động của
chúng đối với Thương mại quốc tế nói chung và các nước đang phát triển nói riêng, trong
đó có Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp phi thuế quan ở Việt Nam trong thời gian
qua và đưa ra dự kiến lộ trình cắt giảm một số hàng rào phi thuế quan đồng thời định
hướng các biện pháp phi thuế quan sẽ sử dụng ở Việt Nam đến năm 2010.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của WTO và của Việt Nam về các

biện pháp phi thuế quan.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Số lượng các biện pháp phi thuế quan rất đa dạng và
đôi khi còn chưa được định hình một cách rõ ràng vì vậy đề tài không có điều kiện
nghiên cứu tất cả. Khóa luận giới hạn phạm vi nghiên cứu ở việc chỉ tập trung vào một số
nhóm biện pháp phi thuế cơ bản của WTO và của Việt Nam. Khóa luận cũng không phân
tích các biện pháp phi thuế đối với các lĩnh vực thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ
v.v... chỉ phân tích thương mại hàng hóa hữu hình.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu sử dụng cho đề tài này là nghiên cứu và phân tích theo
tài liệu, sách, báo và kế thừa các nghiên cứu khoa học khác có liên quan đến đối tượng
nghiên cứu của đề tài, trên cơ sở đó để phân tích, so sánh và tổng hợp lại.
5. Bố cục của khóa luận:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận bao gồm ba chương:
Chương I: Các biện pháp phi thuế quan chủ yếu của WTO và ảnh hưởng của nó đối
với Việt Nam.
Chương II: Thực trạng áp dụng các biện pháp phi thuế quan ở Việt Nam
giai đoạn 1996-2000.
Chương III: Dự kiến lộ trình cắt giảm các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam nhằm
đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO giai đoạn từ 2001-2005 và

3
đến 2010.
Em xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới PGS.TS Nguyễn Thị Mơ, người đã hướng
dẫn em thực hiện khóa luận này, và tới tất cả các thầy cô giáo đã dạy em tại trường Đại
học Ngoại thương trong thời gian qua. Mặc dù với sự cố gắng của bản thân, nhưng do
kiến thức còn hạn chế và do tính phức tạp của đề tài nên khóa luận của em không tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô để khóa
luận của em được hoàn thiện hơn.



Hà nội, ngày 10 - 5 - 2003.
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Hằng Phương





























4





CHƯƠNG I
CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN CHỦ YẾU CỦA WTO VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆT NAM
i. WTO VÀ CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN:

1. Vài nét về WTO:

1.1: Sự thành lập:
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập trên cơ sở kế
thừa và phát triển Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch (GATT),
chính thức bắt đầu hoạt động từ 1-1-1995. Sự ra đời của WTO nhằm tạo
điều kiện hơn nữa cho sự phát triển của hệ thống thương mại đa biên đảm
bảo s
ự cạnh tranh công bằng, lành mạnh, xóa bỏ dần các rào cản trong
thương mại quốc tế, thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại trên phạm vi
toàn cầu.
Trong số hàng chục tổ chức kinh tế quốc tế hiện nay, WTO là tổ chức
thương mại toàn cầu lớn nhất và quan trọng nhất, thu hút tới 145 nước (trong
số khoảng 200 nước là thành viên Liên Hợp Quốc) và chi phối tới 95% tổng
kim ngạch thương mại toàn Thế
giới.
(nguồn: Tạp chí Kinh tế 2002-2003 Việt Nam và
Thế giới, số ra tháng 3/2003 - Thời báo Kinh tế Việt Nam)

.

Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là cơ quan quốc tế duy nhất giải
quyết các qui định về thương mại giữa các quốc gia với nhau. Nội dung
chính của WTO là các hiệp định được hầu hết các nước có nền thương mại
cùng nhau tham gia đàm phán và ký kết. Các văn bản này qui định các cơ sở
pháp lý làm nền tảng cho thương mại quốc tế. Các tài liệu đó về cơ bản

5
mang tính ràng buộc các chính phủ phải duy trì một chế độ thương mại
trong một khuôn khổ đã được các bên thống nhất. Mặc dù các thoả thuận đạt
được là do các chính phủ đàm phán và ký kết nhưng mục đích lại nhằm giúp
các nhà sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ trong nước; các nhà hoạt
động xuất nhập khẩu có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh dễ dàng
hơn.
1.2 Mục tiêu của WTO:
Mục tiêu chính của hệ
thống thương mại thế giới là nhằm giúp thương
mại được lưu chuyển tự do ở mức tối đa, chừng nào nó còn nằm trong giới
hạn không gây ra các ảnh hưởng xấu không muốn có.
Ngoài ra, WTO còn có những mục tiêu sau:
 Nâng cao mức sống của con người.
 Bảo đảm tạo đầy đủ công ăn việc làm, tăng trưởng vững chắc thu nhập
và nhu cầu thực tế c
ủa người lao động.
 Sử dụng hợp lý các nguồn lực của thế giới, đặc biệt là nguồn nhân lực.
 Mở rộng việc sản xuất và trao đổi hàng hóa dịch vụ trên phạm vi toàn thế
giới.
1.3 Chức năng của WTO:
WTO có những chức năng sau đây:

Chức năng thứ nhất của WTO: Tổ chức các cuộc đàm phán mậu dịch
đa biên mà n
ội dung của nó rất đa dạng đề cập lớn tới nhiều lĩnh vực khác
nhau. Thông qua các cuộc đàm phán như vậy, việc tự do hoá mậu dịch của
các nước trên thế giới được phát triển, đồng thời những qui tắc quốc tế mới
cũng được xây dựng và sửa đổi theo yêu cầu của thời đại.

6
Chức năng thứ hai của WTO: WTO đề ra những qui tắc quốc tế về
thương mại và đảm bảo các nước thành viên của WTO phải thực hiện các
nguyên tắc đó. Đặc trưng của các quyết định và qui tắc của WTO là nó có
hiệu lực bắt buộc tất cả các thành viên và có khả năng làm cho mọi thành
viên có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện. Bất cứ một nướ
c thành viên nào
một khi đã thừa nhận "hiệp định WTO" và những hiệp định phụ khác của
WTO thì nước đó cần phải điều chỉnh hay chuyển các quy định pháp luật và
các thủ tục hành chính của mình theo các quy định của WTO.
Chức năng thứ ba của WTO: Giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp
mậu dịch quốc tế. WTO có chức năng như là một toà án giải quyết các tranh
chấp nảy sinh giữ
a các thành viên trong các lĩnh vực liên quan. Bất cứ một
thành viên nào của WTO khi thấy lợi ích của nước mình đang bị xâm hại
trong hoạt động kinh tế ở một thị trường nào đó vì có thành viên khác đang
thực hiện chính sách trái với các qui tắc của WTO thì có quyền khởi tố lên
cơ quan giải quyết mâu thuẫn mậu dịch của WTO và yêu cầu nước đó ngừng
các hoạt động kinh tế xâm hại đến lợi ích củ
a mình. Bất cứ thành viên nào
cũng phải chấp nhận khi bị các thành viên khác khởi tố lên WTO vì đây là
một trong những nghĩa vụ của mọi thành viên, không nước nào có thể tránh
khỏi.

Chức năng thứ tư của WTO: Phát triển nền kinh tế thị trường. Để nền
kinh tế thị trường hoạt động và nâng cao được hiệu quả, WTO xúc tiến việc
giảm nhẹ quy chế. Phần lớn các nướ
c trước kia theo cơ chế quản lý kinh tế
kế hoạch hoá tập trung hiện nay đều đang chuyển sang nền kinh tế thị
trường đã và đang làm thủ tục để xin gia nhập WTO. Qua các cuộc đàm
phán cần thiết để gia nhập WTO, các nước này có thể tìm hiểu được về hệ

7
thống kinh tế thị trường và đồng thời xắp xếp lại những chế độ và qui tắc để
có thể quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường.
1.4 Các nguyên tắc của WTO:
Các hiệp định của WTO là những văn bản pháp lý bao trùm nhiều lĩnh
vực hoạt động rộng lớn như nông nghiệp, hàng dệt may, mua sắm chính
phủ, các quy định về vệ sinh dịch tễ
, sở hữu trí tuệ v.v... Tuy nhiên có một
số các nguyên tắc hết sức cơ bản xuyên suốt tất cả các hiệp định, các nguyên
tắc đó chính là nền tảng của hệ thống thương mại đa biên. Bao gồm những
nguyên tắc sau:
Nguyên tắc thứ nhất: Thương mại không phân biệt đối xử. Nguyên tắc này
được áp dụng bằng hai loại đãi ngộ song song, đó là đãi ngộ tối huệ
quốc và
đối xử quốc gia.
- Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): Đối xử mọi người bình đẳng
như nhau. Mỗi thành viên đối xử với mọi thành viên khác bình đẳng với
nhau như các bạn hàng được ưu đãi nhất. Nếu như một nước cho một
nước khác được hưởng lợi nhiều hơn thì đối xử tốt nhất đó phải được
giành cho tất cả các nước thành viên WTO khác. Nguyên tắc MFN đảm
bảo rằng mỗi thành viên WTO đối xử với tất cả các thành viên khác
tương tự nhau.

- Đối xử quốc gia (NT): Đối xử với người nước ngoài và người trong nước
tương tự nhau. Hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước phải được
đối xử như nhau, ít nhất là sau khi hàng hóa nhập khẩu đã đi vào đến thị
trường nội địa. Theo nguyên t
ắc này, khi áp dụng những qui chế trong
nước và thuế nội địa đối với hàng nhập khẩu thì phải cung cấp các điều
kiện tương tự như đối với sản phẩm trong nước. Vì thế các thành viên
của WTO không được áp dụng thuế nội địa để bảo vệ sản xuất trong

8
nước và không được phân biệt đối xử với hàng nhập khẩu từ các nước
thành viên WTO khác.
Nguyên tắc thứ hai: Tự do thương mại hơn thông qua đàm phán. WTO đảm
bảo thương mại giữa các nước ngày càng tự do hơn thông qua quá trình đàm
phán hạ thấp hàng rào thuế quan để thúc đẩy buôn bán. Hàng rào thương
mại bao gồm thuế quan, và các biện pháp phi thuế khác như cấm nhập khẩu,
quota có tác dụng hạn chế nhập khẩu có chọ
n lọc, chính sách ngoại hối...
cũng được đưa ra đàm phán.
Nguyên tắc thứ ba: WTO tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng.
WTO là một hệ thống các nguyên tắc nhằm thúc đẩy cạnh tranh tự do, công
bằng và không bị bóp méo. Các quy định về phân biệt đối xử được xây dựng
nhằm đảm bảo các điều kiện công bằng trong thương mại. Các điều khoản
về chống phá giá, trợ cấp cũ
ng nhằm mục đích tương tự. Tất cả các hiệp
định của WTO đều nhằm mục đích tạo ra được một môi trường cạnh tranh
ngày càng bình đẳng hơn giữa các nước.
Nguyên tắc thứ tư: Tính tiên liệu được thông qua ràng buộc thuế. Các cam
kết không tăng thuế cũng quan trọng như việc cắt giảm thuế vì cam kết như
vậy tạo điều kiện cho các doanh nghiệ

p có thể dự đoán tốt hơn các cơ hội
trong tương lai.
Nguyên tắc thứ năm: Các thỏa thuận thương mại khu vực. WTO thừa nhận
các thỏa thuận thương mại khu vực nhằm mục tiêu đẩy mạnh tự do hóa
thương mại. Các liên kết như vậy là một ngoại lệ của nguyên tắc đãi ngộ tối
huệ quốc theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, nhằm b
ảo đảm các thoả thuận
này tạo thuận lợi cho thương mại các nước liên quan, song không làm tăng
hàng rào cản trở thương mại với các nước ngoài liên kết.

9
Nguyên tắc thứ sáu: Các điều kiện đặc biệt dành cho các nước đàng phát
triển. WTO là một tổ chức quốc tế với hơn 2/3 tổng số nước thành viên là
các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi, vì thế một
trong những nguyên tắc cơ bản của WTO là khuyến khích phát triển, dành
những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước này, vớ
i mục tiêu
đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của họ vào hệ thống thương mại đa biên.
Để thực hiện được nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển
và các nền kinh tế đàng chuyển đổi những linh hoạt và các ưu đãi nhất định
trong việc thực thi các hiệp định, đồng thời chú ý đến việc trợ giúp kỹ thuật
cho các nước này.
WTO là tổ chức kinh tế thương m
ại đưa ra các yêu cầu rất cao về minh
bạch hóa các quy định thương mại, về cắt giảm thuế quan nhập khẩu, tiến
tới xóa bỏ thuế quan, tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở
hữu trí tuệ, về thực hiện quy chế tối huệ quốc-hay thương mại bình thường,
về xóa bỏ biện pháp phi thuế quan như hạn chế định lượng, giấ
y phép xuất-
nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu; về thực hiện các biện pháp đầu tư liên quan

đến thương mại nhưng không vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia nhằm
thu hút đầu tư nước ngoài, tăng cường xuất khẩu hàng hóa và nâng cao khả
năng phát triển kinh tế.
Tóm lại, khi hội nhập WTO các thành viên phải tuân thủ một hệ thống
các luật lệ, quy tắc nhằm điề
u chỉnh hầu hết các lĩnh vực thương mại quốc tế
với tổng cộng khoảng 60 hiệp định, phụ lục và các văn bản giải thích. Tham
gia vào WTO là đích hội tụ và mẫu số chung của các nước trong xu hướng
mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Chứng nhận thành viên WTO cũng là
chứng chỉ quốc tế đầy uy tín cho “đẳng cấp” về sự phát triển và hoàn thi
ện
cơ chế kinh tế thị trường mở cửa của các nước hiện nay; đồng thời đặt quốc

10
gia thành viên trước nhiều cơ hội lớn và cả những thách thức mới trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của mình.
2. Các biện pháp phi thuế quan trong WTO:

2.1. Khái niệm và đặc điểm của các biện pháp phi thuế quan:
 Khái niệm: Ngoài thuế quan ra, tất cả các biện pháp khác, dù là theo quy
định pháp lý hay tồn tại trên thực tế, ảnh hưởng đến mức độ và phương
hướng nhập khẩu được gọi là các biện pháp phi thuế quan (
Tiếng Anh:

Non Tariff Measures - NTM).
Các biện pháp này được biểu hiện dưới hình thức như trợ cấp, giấy phép
xuất nhập khẩu, hàng rào kỹ thuật v.v...
Mỗi biện pháp phi thuế quan có thể có một hoặc nhiều thuộc tính như áp
dụng tại biên giới hay nội địa, được duy trì một cách chủ động hay bị động,
phù hợp hoặc không phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm bảo hộ sản xu

ất
hay không có mục đích bảo hộ...
Sau 7 vòng đàm phán thương mại nhiều bên trước vòng đàm phán
Tokyo của GATT, từ vòng thứ nhất đến vòng thứ bảy, mức thuế bình quân
của 9 sản phẩm công nghiệp chủ yếu trên thế giới giảm từ 40% còn 4,7%.
Hàng rào thuế quan giảm đi thì hàng rào phi thuế quan tăng lên. Hơn nữa vì
bản thân các biện pháp phi thuế quan có tính chất kín đáo và không rõ ràng,
nên so với hàng rào thuế quan, các biện pháp phi thuế quan có tác dụng h
ạn
chế nhập khẩu nhiều hơn. Có thể nói, các biện pháp phi thuế quan đã dần
dần thay thế hàng rào thuế quan, trở thành biện pháp chủ yếu được các nước
dùng để hạn chế nhập khẩu. Về các biện pháp thuế quan, người ta chuyển từ
chỗ chú trọng thuế suất cao tới chỗ chú trọng điều chỉnh kết cấu thuế. Vì
vậy, ở vòng đàm phán Tokyo của GATT các n
ước thành viên quyết định đặt
các biện pháp phi thuế quan dưới sự ràng buộc của các quy tắc của tổ chức

11
này nhằm mục đích giảm bớt và tiến tới loại bỏ hoàn toàn các biện pháp phi
thuế quan. Tháng 4-1979, GATT đã đạt được 5 thoả thuận về trợ cấp, thuế,
hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, trị giá tính thuế hải quan, mua sắm
chính phủ và thủ tục cấp phép nhập khẩu, hơn nữa còn lập ra một hội đồng
giám sát và đôn đốc việc thực hiện các thoả thu
ận trên. Để chuẩn mực hóa
hành vi hành chính của các nước thành viên, Ban thư ký GATT đã liệt kê
danh sách các biện pháp phi thuế quan có ảnh hưởng tới sản xuất các sản
phẩm công nghiệp, đồng thời quy định sẽ bổ sung và sửa đổi theo định kỳ
tuỳ theo tình hình thay đổi. Danh sách này bao gồm hàng trăm biện pháp phi
thuế quan, nhưng có thể chia thành 5 nhóm:
- Những việc chính phủ thường tham gia để hạn chế thương mại.

- Các bi
ện pháp hạn chế nhập khẩu có tính chất hành chính và do hải
quan thực hiện
- Hàng rào có tính chất kỹ thuật đối với thương mại
- Hạn chế đặc thù, như hạn chế cấp phép nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu,
quy chế về giá trong nước
- Lệ phí thuế nhập khẩu, như tiền ký quỹ, thuế điều tiết nhậ
p khẩu, hạn
chế cho vay có tính chất phân biệt đối xử.
Để quản lý, giám sát việc “tuân thủ quy tắc về trợ cấp và về thuế”,
hàng năm GATT công bố báo cáo thường niên, trong đó có danh sách các
biện pháp phi thuế quan. Song, thoả thuận về các biện pháp phi thuế quan
nói trên đạt được tại vòng đàm phán Tokyo của GATT không được các nước
ký kết thoả thuận tuân thủ, vì thỏa thuận này vốn được tuyên bố là các bên
ký kết có thể thự
c hiện trên cơ sở lựa chọn. Do vậy, vòng đàm phán
Urugoay của GATT lại một lần nữa đàm phán về hàng rào phi thuế quan,
các quy định về điều này đều có ghi tỷ mỷ trong văn kiện cuối cùng của
vòng đàm phán này. Hiện nay WTO đang bắt tay xử lý các biện pháp phi
thuế quan có ảnh hưởng tới sản xuất nông phẩm, bằng cách chủ yếu thông

12
qua phương thức thu thuế đối với hàng nhập khẩu để tác động vào giá thị
trường của những hàng hóa ấy, rồi từ đó thông qua quan hệ cung cầu đối với
hàng hóa ấy để tác động vào số lượng nhập khẩu hàng hóa này.
 Đặc điểm:
- Đặc điểm về vai trò của chúng đối với các nước:
Biện pháp phi thuế quan giữ vai trò ngày càng quan trọng trong chính
sách bảo hộ thương m
ại, ngày càng có nhiều nước sử dụng, hình thức và loại

hình cũng tăng lên không ngừng. Với sự phong phú về hình thức nên việc
kết hợp nhiều NTM khác nhau có thể đáp ứng cùng một mục tiêu, áp dụng
cho cùng một mặt hàng mà không bị gò bó chật hẹp trong khuôn khổ một
công cụ duy nhất như thuế quan.
- Đặc điểm về mục tiêu của các NTM mà các nước đang hướng tới:
Một NTM có thể đồ
ng thời đáp ứng nhiều mục tiêu với hiệu quả cao.
Mỗi quốc gia thường theo đuổi nhiều mục tiêu trong chính sách kinh tế,
thương mại của mình. Các mục tiêu đó có thể là: (i) bảo hộ sản xuất trong
nước, khuyến khích phát triển một số ngành nghề; (ii) bảo vệ an toàn sức
khỏe con người, động thực vật, môi trường; (iii) hạn chế tiêu dùng; (iv) đảm
bảo cân bằng cán cân thanh toán; (v) bảo đả
m an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, v.v... Các NTM có thể đồng thời phục vụ hiệu quả nhiều mục
tiêu khác nhau mà khi sử dụng công cụ thuế quan không khả thi hoặc không
hữu hiệu bằng.
Ví dụ: quy định về vệ sinh kiểm dịch đối với nông sản nhập khẩu vừa đảm
bảo an toàn sức khỏe con người, động thực vật lại vừa gián tiếp bảo hộ sả
n
xuất nông nghiệp trong nước một cách hợp pháp.
- Đặc điểm về những tác động ngầm do các NTM gây ra:
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đó, các NTM cũng có không ít
nhược điểm. Nếu như thuế quan là biện pháp kinh tế, có đặc điểm là tính

13
chuẩn mực cao, độ trong sáng lớn, dễ định lượng, được WTO thừa nhận là
biện pháp bảo vệ hợp pháp duy nhất. Thì biện pháp thuế quan là những biện
pháp hành chính pháp lý, có đặc điểm hay thay đổi, độ kín đáo và mơ hồ đều
lớn. Do thường mang tính mập mờ, mức độ ảnh hưởng không rõ ràng như
những thay đổi định lượng của thuế quan, nên tác động của chúng có thể lớn

như
ng lại là tác động ngầm, có thể che đậy hoặc biện hộ bằng cách này hay
cách khác. Hiện nay các hiệp định của WTO chỉ mới điều chỉnh sử dụng
một số NTM nhất định. Trong đó, tất cả các NTM hạn chế định lượng
1
đều
không được phép áp dụng, trừ trường hợp ngoại lệ.
Biện pháp thuế quan chỉ làm thay đổi cơ chế thị trường còn biện pháp
phi thuế quan hoàn toàn thay thế cơ chế thị trường. Ví dụ trong trường hợp
sử dụng biện pháp hạn ngạch nhập khẩu, khi hạn ngạch nhập khẩu đã xác
định nếu nhu cầu nhập khẩu tăng thì lượng hàng nhập khẩu theo hạn ng
ạch
không thể thỏa mãn được nhu cầu, từ đó giá cả thị trường trong nước của
hàng hóa ấy sẽ tăng. Vì vậy, có thể nói rằng trong trường hợp là biện pháp
thuế quan thì điều xảy ra là điều chỉnh số lượng nhập khẩu, còn trường hợp
phi thuế quan thì điều xảy ra là điều chỉnh giá, cơ chế thị trường hoàn toàn
mất tác dụng.
- Đặ
c điểm về tính hạn chế gián tiếp của các NTM:
Tính chất kín đáo của hàng rào này ngày càng biểu hiện nhiều ở sự
hạn chế gián tiếp. Trước đây, phần nhiều là các biện pháp hạn chế số lượng
có tính chất hành chính trực tiếp (như chế độ hạn ngạch nhập khẩu, cấp phép
nhập khẩu, tự nguyện hạn chế xuất khẩu), hiện nay phầ
n nhiều là hạn chế
gián tiếp như hàng rào kỹ thuật, biện pháp bảo hộ màu xanh, quyền sở hữu

1
Các NTMs hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu không tự động v.v...
gây cản trở, bóp méo thương mại và thường bị coi là hàng rào phi thuế quan (NTBs).


14
trí tuệ, tiêu chuẩn lao động v.v.., được quy định cụ thể trong các hiệp định
chi tiết của WTO.
2.2. Các biện pháp phi thuế quan chủ yếu của WTO:
2.2.1: Các biện pháp hạn chế định lượng:
Ngoài thuế quan, thuế nội địa và các loại phí khác, các thành viên
không được tạo ra hay duy trì những biện pháp như hạn ngạch, giấy phép
hay các biện pháp khác nhằm hạn chế số lượng nhập khẩu từ các thành viên
khác, hay hạn chế số
lượng xuất khẩu hoặc bán để xuất khẩu tới các thành
viên khác.
2.2.1.1 Cấm xuất khẩu, nhập khẩu (Prohibitions):
Cấm xuất khẩu, nhập khẩu là biện pháp bảo hộ cao nhất, gây ra hạn
chế lớn nhất đối với thương mại quốc tế và nói chung không được phép sử
dụng trong WTO.
Tuy nhiên, các thành viên có thể thi hành các biện pháp cấm xuất khẩu,
nhập khẩu trên cơ sở không phân biệt đối xử
trong một số trường hợp sau:
 Cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia (GATT 1994, điều XXI)
 Cần thiết để bảo vệ đạo đức xã hội
 Cần thiết để bảo vệ con người, động vật và thực vật
 Liên quan tới nhập khẩu hay xuất khẩu vàng và bạc
 Cần thiết để bảo vệ các tài sản qu
ốc gia về nghệ thuật, lịch sử hay khảo
cổ
 Cần thiết để bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, với điều kiện
là các biện pháp này cần phải thực hiện kèm theo việc hạn chế sản xuất
hay tiêu dùng nội địa liên quan tới chúng. (GATT 1994, điều XX)
 Được áp dụng một cách tạm thời để ngăn cản hay giảm bớt sự khan hiếm
l

ương thực, thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác
 Cần thiết để áp dụng các tiêu chuẩn hay quy định để phân loại, xếp hạng
hay tiếp thị các sản phẩm trong thương mại quốc tế (GATT 1994,điều XI)

15
2.2.1.2 Hạn ngạch (quotas):
WTO không cho phép các thành viên áp dụng biện pháp hạn ngạch.
Trong một số trường hợp đặc biệt, biện pháp hạn ngạch có thể được sử dụng
trên cơ sở không phân biệt đối xử:
 Được áp dụng một cách tạm thời để ngăn cản hay giảm bớt sự khan hiếm
lương thực, thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác
 Cần thiế
t để áp dụng các tiểu chuẩn hay quy định để phân loại, xếp hạng
hay tiếp thị các sản phẩm trong thương mại quốc tế
 Các nông sản và thủy sản (GATT 1994, Điều XI, 2(c))
Có thể hạn chế số lượng hay giá trị hàng nhập khẩu để bảo vệ sự cân bằng
cán cân thanh toán. Việc tạo ra, duy trì hay mở rộng hạn chế số lượng vì
mục đích này không đượ
c vượt quá mức cần thiết:
 Để ngăn ngừa sự đe doạ sắp xảy ra hay để ngăn chặn lại sự thiếu hụt
nghiêm trọng dự trữ tiền tệ, hay
 Trong trường hợp một thành viên có dự trữ tiền tệ rất thấp, để đạt được
một mức tăng hợp lý dự trữ tiền tệ (GATT 1994, điều XII)

2.2.1.3 Hạn ngạch thuế quan (Tariff Rate Quota):
Đối với các sản phẩm nông nghiệp (quy định tại Phụ lục I, Hiệp định
Nông Nghiệp) có thể áp dụng một hình thức hạn ngạch đặc biệt gọi là hạn
ngạch thuế quan.
Theo Hiệp định Nông nghiệp, các thành viên không được áp dụngcác
biện pháp phi thuế quan đối với nông sản. Tất cả các biện pháp phi thuế

quan cần phải được thuế hóa (Phụ lục V, Hi
ệp định Nông Nghiệp). Thông
thường với mức thuế hóa tại vòng Urugoay thì mức nhập khẩu nông sản
hầu như không đáng kể.
Để đảm bảo một mức độ mở cửa thị trường nhất định, WTO cho phép
áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan. Hạn ngạch thuế quan cho phép sử

16
dụng hai mức thuế suất, một mức thấp cho khối lượng trong hạn ngạch, mức
thứ hai có thể cao hơn cho nhập khẩu ngoài hạn ngạch. Hạn ngạch có thể
được tính bằng mức chênh lệch giữa tiêu dùng và sản xuất trong nước. Việc
quản lý hạn ngạch thuế quan tuy khó khăn nhưng sẽ đáp ứng được người
tiêu dùng muốn sử dụng hàng nhập khẩu giá rẻ, đồ
ng thời bảo vệ được
người sản xuất trong nước. Tại vòng Urugoay, biện pháp hạn ngạch thuế
quan được thông qua để đảm bảo tiếp cận thị trường hiện tại (hay tối thiểu)
khi các biện pháp phi thuế quan đã được thuế hóa (điều IV, Hiệp định Nông
nghiệp). Cũng tại vòng này, hạn ngạch được tính để đảm bảo các yêu cầu về
tiếp cận thị
trường hiện tại và tối thiểu.

2.2.1.4 Giấy phép nhập khẩu (import licences):
Định nghĩa: Cấp phép nhập khẩu được xác định như là các thủ tục
hành chính được sử dụng để thực hiện chế độ cấp phép nhập khẩu, đòi hỏi
đệ trình đơn hay các tài liệu khác (không liên quan tới mục đích hải quan)
tới các cơ quan hành chính thích hợp là điều kiện tiên quyết để được phép
nh
ập khẩu.
Yêu cầu chung: thủ tục hành chính để thực hiện chế độ cấp phép
không được bóp méo thương mại do sử dụng không thích hợp các thủ tục

đó. Các quy tắc đối với thủ tục cấp phép nhập khẩu phải được áp dụng trung
lập và được quản lý theo một cách thức công bằng và hợp lý.

Cần phải công khai các thông tin liên quan tới thủ tục nộp đơn, tiêu
chuẩn của nhà nh
ập khẩu, cơ quan tiếp nhận, danh sách các sản phẩm đòi
hỏi giấy phép trong thời hạn 21 ngày trước khi chúng có hiệu lực. Người
nộp đơn chỉ cần tiếp cận tới một cơ quan hành chính. Trường hợp đặc biệt
không được quá ba cơ quan. Nhà nhập khẩu hàng cần giấy phép có thể tiếp

17
cận ngoại tệ cần thiết trên cùng một cơ sở với hàng nhập khẩu không cần
giấy phép. (điều 1, Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu)
Cấp phép nhập khẩu tự động
: khi tất cả đơn đều được chấp thuận,
không hạn chế khối lượng nhập khẩu trong phạm vi điều chỉnh, không đặt ra
hạn chế với nhà nhập khẩu, được chấp thuận trong vòng 10 ngày.
(điều 2, Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu)
Cấp phép nhập khẩu không tự động
: Là thủ tục cấp phép không phải
là cấp phép tự động. Cấp phép không tự động không được gây ra hạn chế
hay bóp méo thương mại hơn mức các điều kiện do yêu cầu cấp phép đặt ra.
Các thủ tục cấp phép không tự động cần phải tương ứng về phạm vi và thời
hạn với biện pháp mà chúng được sử dụng để thực hiện, và sẽ không đặt ra
những gánh nặ
ng hành chính hơn mức cần thiết để quản lý biện pháp đó.
Trong trường hợp đòi hỏi cấp phép không vì mục đích quản lý số lượng, các
thành viên phải công bố đầy đủ thông tin về cơ sở để cấp phép.
(Điều 3, Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu)


2.2.1.5 Các biện pháp khác:
- Hạn chế xuất khẩu tự nguyện và thoả thuận v
ề thị trường:
Trước 1995 do GATT cấm sử dụng hạn ngạch nhập khẩu, nên một số
nước đã sử dụng biện pháp hạn chế xuất khẩu “tình nguyện”. Hạn chế xuất
khẩu tình nguyện là một thỏa thuận song phương giữa hai chính phủ. Nước
xuất khẩu giới hạn xuất khẩu một số sản phẩm nhất định tới nướ
c nhập khẩu.
Nói chung, ngành công nghiệp đang phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập
khẩu tương tự gây áp lực với chính phủ đàm phán về hạn chế xuất khẩu với
nước xuất khẩu để giảm bớt áp lực canh trạnh. Các nhà xuất khẩu bị “bắt
buộc” chấp nhận số lượng đó và bị đe doạ nhận được các hành động khắc
nghiệ
t hơn nếu không chấp nhận thỏa thuận tự nguyện hạn chế số lượng xuất

18
khẩu. Chính phủ xuất khẩu hoặc chính các nhà sản xuất quản lý thỏa thuận
này. Hạn chế xuất khẩu tình nguyện từng là một công cụ quan trọng hạn chế
thương mại và đã được sử dụng khá rộng rãi.

Trong khi hạn ngạch được áp dụng chung thì hạn chế xuất khẩu tình
nguyện chỉ áp dụng với một số nước xuất khẩu chủ yếu, so đ
ó tạo ra sự phân
biệt đối xử giữa các thành viên và rõ ràng vi phạm nguyên tắc tối huệ quốc
(MFN).
Mỗi thành viên không được tìm kiếm, thực hiện hay duy trì bất cứ
thỏa thuận hạn chế xuất khẩu, thỏa thuận về thị trường nào hay bất cứ biện
pháp tương tự khác lên phía xuất khẩu hay nhập khẩu. Điều này bao gồm
các hành động do một thành viên thực hiện riêng rẽ cũng nh
ư các hành động

do hai thành viên trở lên thực hiện. Nói chung các thành viên phải loại bỏ
các biện pháp hạn chế xuất khẩu tình nguyện và các biện pháp tương tự
trước năm 2000. (Điều 11, Hiệp định tự vệ)

2.2.2. Các biện pháp quản lý giá:
Các biện pháp quản lý giá nhập khẩu hay giá bán trong nước có thể có
tác động trực tiếp hay gián tiếp tới xuất khẩu hàng hóa.

2.2.2.1 Trị giá hải quan:
Việc định giá tính thuế
hải quan tuỳ tiện có thể bóp méo kinh doanh
xuất nhập khẩu hàng hóa.
WTO quy định giá tính thuế hàng nhập khẩu là giá giao dịch, tức là giá đã
trả hay phải trả cho hàng hóa khi được bán để xuất khẩu đến nước nhập khẩu
có tính đến những điều chỉnh nhất định như phí hoa hồng, môi giới, đóng
gói. (Điều 1- 6 và Điều 8, Hiệp định xác định trị giá tính thuế hải quan)

19
WTO không cho phép xác định giá tính thuế quan theo các cách sau:
- giá nhập khẩu tối thiểu
- giá bán trong nước của hàng hóa tương tự được sản xuất tại nước mà
hàng hóa cần xác định trị giá hải quan được nhập khẩu
- một hệ thống cho phép chấp nhận giá cao hơn trong hai loại giá sử
dụng để xác định trị giá tính thuế quan của hàng hóa
- giá bán của hàng hóa tại thị trường nước xuất khẩu
- định giá trên cơ sở giả định hay tuỳ tiện
(Điều 7, Hiệp định xác định trị giá tính thuế hải quan)
2.2.2.2 Giá bán tối đa:
Giá bán tối đa trong nước đối với một hàng hóa nào đó có thể hạn chế
nhập khẩu, đặc biệt là đối với những nhà xuất khẩu không có khả năng cạnh

tranh cao.
Các thành viên thừa nhận là các biện pháp quản lý giá tối đa dù cho
có phù hợp v
ới nguyên tắc không phân biệt đối xử quốc gia (NT) cũng có
thể có tác động xấu tới lợi ích của các thành viên đang cung cấp hàng nhập
khẩu. Do đó các thành viên đang áp dụng các biện pháp quản lý giá tối đa
cần phải tính đến lợi ích của các thành viên xuất khẩu nhằm tránh mở rộng
các tác động xấu đó. (GATT 1994, Điều 3)
Mặc dù các quy định về giá bán tối đa trong nước này thiếu tính ràng buộc
nhưng vấn đề này thường được các thành viên đặt ra với các nước đang gia
nhập.
2.2.2.3 Phí thay đổi:
Những loại phí thay đổi cản trở đáng kể thương mại do tính không
minh bạch của chúng. Hiệp định Nông nghiệp quy định phải thuế hóa cac
loại phí thay đổi (Điều 4, Hiệp định Nông nghiệp).
2.2.2.4 Phụ thu:
Tất cả các loại phí và phụ thu (không phải là thuế xuất nhập khẩu và
các lo
ại thuế nội địa khác) đánh vào hàng xuất nhập khẩu chỉ được giới hạn
ở mức tương ứng chi phí dịch vụ thực sự bỏ ra và không được sử dụng như

20
sự bảo hộ gián tiếp các sản phẩm trong nước, hay như thuế xuất nhập khẩu,
hay cho mục đích thu ngân sách. (GATT 1994, Điều VIII)

2.2.3. Các biện pháp liên quan tới doanh nghiệp:
2.2.3.1 Doanh nghiệp thương mại nhà nước (DNTMNN):
Các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu được nhà nước
ban cho những đặc quyền nhất định có thể gây ra những trở ngại lớn tới
thương mại quốc tế. Các thành viên phả

i cam kết các hoạt động xuất nhập
khẩu của các DNTMNN phù hợp với các nguyên tác chung về đối xử không
phân biệt với các doanh nghiệp tư nhân và phải tiến hành các hoạt động mua
bán hàng hóa chỉ dựa trên tiêu chí thương mại, chẳng hạn như giá cả, chất
lượng, tiếp thị, vận tải. Đồng thời phải dành cho các doanh nghiệp của cá
thành viên khác những cơ hội thích hợp tham gia cạnh tranh trong việc mua
bán hàng hóa phù hợp với thông l
ệ kinh doanh chung. Các thành viên có
nghĩa vụ thông báo cho WTO về các DNTMNN của họ. (GATT 1994, Điều
XVII)
 Định nghĩa triển khai:
Trên thực tế định nghĩa về DNTMNN tại điều XVII GATT 1994 rất mơ hồ
gây khó khăn trong việc thực hiện. Vòng Urugoay đã đưa ra “định nghĩa
triển khai” của DNTMNN tại Bản giải nghĩa Điều XVII GATT 1994 như
sau:
“Các doanh nghiệp chính phủ hoặc phi chính phủ, kể cả các ban quả
n
lý thị trường (marketing board), được ban đặc quyền dù cho theo pháp luật
hay trên thực tế, khi thực hiện các đặc quyền đó có tác động tới mức độ hay
phương hướng xuất nhập khẩu thông qua việc mua bán của mình”.
Như vậy đó là những doanh nghiệp thương mại Nhà nước có mối
quan hệ với Chính phủ thông qua việc ban quyền hay đặc ân của Chính phủ

21
và tiến hành một hoạt động ảnh hưởng đến mức độ hay phương hướng xuất
nhập khẩu. Có một điều cần lưu ý ở đây là các hoạt động của một doanh
nghiệp thương mại nhà nước có thể không chỉ giới hạn ở các hoạt động phát
sinh từ các đặc quyền được ban mà có thể bao gồm cả những hoạt động khác
nữa.
Mộ

t DNTMNN có thể tham gia một hay nhiều các hoạt động sau. Các
hoạt động này có thể liên quan trực tiếp tới xuất nhập khẩu hay chế độ
thương mại, chúng cũng có thể liên quan tới sản xuất trong nước hay thương
mạI theo một cách thức có trợ cấp:
- Kiểm soát hay tiến hành xuất nhập khẩu
- Quản lý các hạn ngạch đa biên hoặc song biên, hạn ngạch thuế quan
hay các thảo luận h
ạn chế khác, hoạch là các quy định về xuất nhập
khẩu
- Cấp giấy phép xuất nhập khẩu
- Xác định giá bán nội địa đối với hàng nhập khẩu
- Thực thi các yêu cầu được giao trong một chương trình tiếp thị hàng
nông nghiệp và/hoặc các chương trình bình ổn
Ngoài ra có thể kể đến các hoạt động sau:
- quản lý sản xuất trong nước
- quản lý việ
c phân phối trong nước của sản phẩm nội địa hay nhập khẩu
- thực hiện việc mua/bán sản phẩm nội địa dựa trên giá trần hoặc giá sàn
đã được xác định trước (can thiệp đến mua/bán)
- cấp bảo lãnh tín dụng cho các nhà sản xuất, chế biến, xuất khẩu và nhập
khẩu
- kiểm soát hoặc tiến hành tiếp thị hay phân phối các sản phẩm đã ch
ế biến
qua các chi nhánh hay liên doanh tại các thị trường nhập khẩu

22
- đàm phán hoặc quản lý các hợp đồng xuất nhập khẩu song phương dài
hạn (kể cả hợp đồng giữa các chính phủ), v.v...

2.2.3.2 Quyền kinh doanh:

WTO không có định nghĩa cụ thể về quyền kinh doanh.
Quyền kinh doanh hay còn gọi là quyền thương mại trong lĩnh vực
hàng hóa là quyền dành cho một số công ty nhất định được tiến hành hoạt
động xuất nhập khẩu. Những nước có nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung
hoặc những nước đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thường sử
dụng quyền kinh doanh như một công cụ thương mại để hạn chế xuất, nhập
khẩu. Quyền kinh doanh có thể chỉ giới hạn ở việc xuất khẩu một mặt hàng
nhất định hoặc kinh doanh một loại mặt hàng nào đó. Các công ty không
nhất thiết phả
i là công ty nhà nước mới được hưởng quyền kinh doanh.

2.2.4. Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại:
2.2.4.1 Các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn và thủ tục xác định sự phù
hợp:
- Quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn:
Tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật đều đặt ra các yêu cầu cụ thể về
physical đối với sản phẩm. Theo phụ lục 1 của Hiệp định về các hàng rào kỹ

thuật đối với thương mại, các yêu cầu này có thể liên quan tới kích thước,
hình dáng, thiết kế, độ dài và các chức năng của sản phẩm. Các yêu cầu này
cũng có thể quy định về nhãn mác, đóng gói, ký hiệu sản phẩm và mở rộng
tới các quy trình và phương pháp sản xuất liên quan tới sản phẩm.
Tuy nhiên, đIểm khác biệt cơ bản giữa tiêu chuẩn và quy định kỹ
thuật là ở chỗ s
ự tuân thủ các tiêu chuẩn là mang tính tự nguyện trong khi sự
tuân thủ với các quy định kỹ thuật là bắt buộc. Trên thực tế, nếu một sản

23
phẩm nhập khẩu không đáp ứng các yêu cầu của quy định kỹ thuật thì nó sẽ

không được phép bán ra thị trường. Còn đối với tiêu chuẩn, nếu hàng nhập
khẩu không tuân thủ các yêu cầu của tiêu chuẩn đặt ra thì vẫn được phép bán
ra thị trường, mực dù có thể bị người tiêu dùng tẩy chay.
Mục đích của các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn là bảo vệ an toàn,
sức khỏe của con người, bả
o vệ sức khỏe, đời sống động thực vật, bảo vệ
môI trường, ngăn chặn các hành vi lừa dối.
- Các thủ tục đánh giá sự phù hợp: chẳng hạn như xét nghiệm, thẩm tra
xác thực, kiểm định, chứng nhận - được sử dụng để đảm bảo rằng các sản
phẩm đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật do các quy định kỹ thuậ
t và tiêu
chuẩn đặt ra.
WTO yêu cầu các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn cũng như thủ tục để đánh
giá sự phù hợp với các quy định và tiêu chuẩn này không được tạo ra các trở
ngạI không cần thiết đối với thương mại quốc tế, phải đảm bảo nguyên tắc
không phân biệt đối xử và đãI ngộ quốc gia, phải minh bạch và tiến tới hài
hòa hóa.
Nhưng các thành viên có thể đư
a ra các biện pháp cần thiết để bảo vệ
môi trường, sức khỏe con người và động thực vật, ngăn ngừa các hành động
xấu... mà nó cho là thích hợp, với điều kiện là các biện pháp đó không được
áp dụng theo cách thức tạo ra sự phân biệt đối xử tùy tiện, hay hạn chế vô lý
đối với thương mại quốc tế. (Hiệp định về Các hàng rào kỹ thuật đối với
th
ương mại).
2.2.4.2 Kiểm dịch động vật và thực vật (SPS):
Định nghĩa: Biện pháp kiểm dịch động vật và thực vật bao gồm tất cả
các luật, nghị định, quy định, yêu cầu và thủ tục liên quan như các tiêu
chuẩn đối với sản phẩm cuối cùng; các phương pháp sản xuất và chế biến;
các thủ tục xét nghiệm, giám định, chứng nhận và chấp nhận; nh

ững xử lý

24
cách ly bao gồm các yêu cầu liên quan gắn với vận chuyển cây trồng và vật
nuôi, hay các chất nuôi dưỡng chúng trong quá trình vận chuyển; những quy
định về các phương pháp thông kê, thủ tục chọn mẫu và các phương pháp
đánh giá rủi ro liên quan; các yêu cầu về đóng gói và nhãn mác liên quan
trực tiếp tới an toàn thực phẩm. (Phụ lục A.1, Hiệp định SPS)
Các thành viên không bị ngăn cản việc ban hành hay thực hiện các
biện pháp cần thiết để bảo vệ s
ức khỏe con người, động vật và thực vật với
điều kiện các biện pháp này không được áp dụng theo cách thức tạo ra sự
phân biệt đối xử không hợp lý và tùy tiện, hay hạn chế một cách vô lý tới
thương mại quốc tế. Các thành viên cũng không nhất thiết phải thay đổi mức
độ bảo vệ thích hợp của họ đối với sức khỏe con người, động vật và thự
c
vật, miễn là các biện pháp họ đưa ra tuân theo các quy định của Hiệp định
SPS.
Các thành viên phải đảm bảo là việc áp dụng của bất kỳ biện pháp nào
cũng chỉ ở trong phạm vi cần thiết để bảo vệ sức khỏe con người, động vật
và thực vật, cũng như phải dựa trên cơ sở khoa học và không được phép duy
trì khi không có chứng cớ khoa học đầy đủ.
(Điều 2, Hiệp định SPS)
Trong trường hợp chứng cớ khoa học liên quan không đầy đủ, một
thành viên có thể áp dụng một cách tạm thời các biện pháp kiểm dịch động
vật và thực vật trên cơ sở thông tin xác đáng sẵn có, kể cả các thông tin từ
các tổ chức quốc tế có liên quan cũng như các biện pháp kiểm dịch của các
thành viên khác. Trong trường hợp như vậy, các thành viên sẽ tìm kiếm các
thông tin b
ổ sung cần thiết cho sự đánh giá rủi ro khách quan hơn. Đồng thời

tién hành xem xét đánh giá cá biện pháp tạm thời này trong một thời hạn hợp
lý. (Điều 5.7, Hiệp định SPS)

×