Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Thực trạng huy động và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để phát triển kinh tế hộ sản xuất ở huyện Thanh Trì” pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.25 KB, 69 trang )




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG
VỐN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỂ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HỘ SẢN XUẤT Ở HUYỆN
THANH TRÌ





Giáo viên thực hiện :
Sinh viên thực hiện :
ChươngI
Kinh tế hộ sản xuất và tín dụng ngân hàng đối với kinh tế hộ sản xuất

I. Kinh tế hộ sản xuất trong nền kinh tế quốc dân
1. Vai trò của nông nghiệp nông thôn nước ta.
Nông nghiệp nông thôn có vị trí hết sức quan trọng đối với nền
kinh tế quốc dân. Nước ta hơn 80% dân số sống ở nông thôn và hơn 70%
lao động trong ngành nông nghiệp, hàng năm nông nghiệp sản xuất ra
hơn 40% tổng sản phẩm xã hội và 50% giá trị thu nhập quốc dân.
Vai trò của nông nghiệp nông thôn còn thể hiện ở việc xuất khẩu các
nông sản có ảnh hưởng đến kim nghạch xuất khẩu với một thế mạnh về
điều kiện đất đai, thiên nhiên, thời tiết và khí hậu, nên nông nghiệp nước
ta có thể sản xuất ra nhiều nông sản thực phẩm cao cấp góp phần cho
xuất khẩu. Tổng sản lượng nông nghiệp kể năm 1990 trở lại đâu tăng
đáng kể, trong đó nổi bật nhất là lương thực.


Năm 1990 sản lượng lương thực là 21,49 triệu tấn.
Năm 1991 sản lượng lương thực là 21,99 triệu tấn
Năm 1992 sản lượng lương thực là 24,20 triệu tấn
Năm 1993 sản lượng lương thực là 24,50 triệu tấn
Năm 1997 sản lượng lương thực là 30,50 triệu tấn, xuất khẩu 3,6
triệu tấn đứng hàng thứ 3 sau Mỹ và Thái lan.
Năm 1998 sản lượng lương thực là 31,85 triệu tấn, xuất khẩu 3,8
triệu tấn đứng thứ 2 sau Thái lan.
Từ chỗ độc canh cây lương thực tới cơ cấu sản xuất cây nông
nghiệp đã chuyển sang kết hợp chăn nuôi, tỷ trọng sản lượng ngành chăn
nuôi chiếm gần 30% sản lượng nông nghiệp.
Hàng năm, nước ta trồng thêm được 1020 ha rừng tập trung, 400 triệu
cây phân tán, khai thác trên 3triệu mét khối gỗ 30triệu xe củi cung cấp
cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó việc đánh
bắt và nuôi trông thuỷ sản đều đạt sản lượng cao.
Tuy nhiên nền nông nghiệp nước ta vẫn còn nét đặc thù đó là nền
nông nghiệp tự cấp mà đại đa số nông dân sản xuất nhỏ là phổ biến, phân
công và hợp tác chưa đồng đều. Do đó để có tốc độ phát triển kinh tế
bình quân hàng năm tăng lên thì yêu cầu tỷ trọng vốn đầu tư trong nông
nghiệp là cấp bách.
2. Kinh tế hộ sản xuất trong sản xuất nông nghiệp.
2.1. Khái niệm hộ sản xuất.
Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng ta cần
thấy rằng hộ sản xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền
sản xuất nông nghiệp trên thế giới. Hộ sản xuất đã tồn tại qua nhiều phương thức
và vẫn đang tiếp tục phát triển. Phương thức sản xuất này có những quy luật phát
triển riêng của nó và trong mỗi chế độ nó tìm cách thích ứng voứi nền kinh tế hiện
hành. Chúng ta có thể xem xét một số quan niệm khác nhau về hộ sản xuất.
Trong một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ, hộ
là tất cả những người cùng sống trong một mái nhà, nhóm người đó bao gồm

những người chung huyết tộc và người làm công.
Liên hiệp quốc cho rằng: "Hộ là những người cùng sống chung dươcí một
mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ".
Tại cuộc thảo luận quốc tế lần thứ IV về ql nông trại tại Hà Lan năm 1980,
đưa ra khái niệm: "Hộ là một đơn vị cơ bản của zh có liên quan đến sản xuất, tái
sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác".
Có quan niệm lại cho rằng hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế mà các thành
viên dựa trên cơ sở kinh tế chung, các nguồn thu nhập do các thành viên cùng
sáng tạo ra và cùng sử dụng chung. Quá trình sản xuất hộ được tiến hành một cách
độc lập và các thành viên của hộ thường có cùng huyết thống, thường cùng sống
chung trong một ngôi nhà. Hộ cũng là một đơn vị để tổ chức lao động, tồn tại như
một đơn vị kinh tế cơ sở với chế độ tự cấp, tự túc, tự sản, tự tiêu.
Trên góc độ ngân hàng: "Hộ sản xuất" là một thuật ngữ được dùng trong
hoạt động cung ứng vốn tín dụng cho hộ gia đình để làm kinh tế chung của cả hộ.
Hiện nay, trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam, hộ được xem như một chủ thể
trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và được định nghĩa là một đơn vị
mà các thành viên có hộ khẩu chung, tài sản chung và hoạt động kinh tế chung.
Một số thuật ngữ khác được dùng để thay thế thuật ngữ "hộ sản xuất" là "hộ", "hộ
gia đình".
Ngày nay hộ sản xuất đang trở thành một nhân tố quan trọng của sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong quá trình xây
dựng một nền kinh tế đa thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phù
hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước,
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Phụ lục số 1 kèm theo
Quyết định 499A ngày 2/9/1993, theo đó khái niệm hộ sản xuất được hiểu như
sau: "Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động kinh doanh, là chủ
thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt
động sản xuất của mình". Thành phần chủ yếu của hộ sản xuất bao gồm: hộ nông
dân, hộ tư nhân, cá thể, hộ gia đình xã viên, hộ nông, làm trường viên.
Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn. Hộ sản

xuất hoạt động trong nhiều ngành nghề nhưng hiện nay phần lớn hoạt động trong
lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Các họ này tiến hành sản xuất kinh
doanh đa dạng kết hợp trồng trọt với chăn nuôi và kinh doanh ngành nghề phụ.
Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề nói trên đã góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta.
2.2. Đặc điểm của kinh tế hộ sản xuất.
Đặc trưng 1: Kinh tế hộ nông thôn nước ta đang chuyển từ kinh tế tự cấp,
tự túc khép kín lên dần nền kinh tế hàng hoá. Tiếp cận với thị trường chuyển từ
nghề nông thuần tuý sang nền kinh tế đa dạng theo xu hướng chuyên môn hoá.
Dưới sự tác động của các quy kụat kinh tế thị trường trong quá trình chuyển hoá
tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh và hệ quả sẽ đến sự phân chia giàu nghèo trong nông
thôn. Từ đó vấn đề đặt ra đối với quản lý và điều hành phía Nhà nước là phải làm
soa cho phép kinh tế hộ phát triển mà vẫn đảm bảo công bằng xã hội, tăng số hộ
giàu, giảm hộ nghèo, tạo điều kiện để hộ nghèo bớt khó khăn và vươn lên khá giả.
Đặc trưng 2: Quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ chênh lệch nhau
khá lớn giữa các vùng và ngay cả trong một số vùng cùng có sự chênh lệch nhau
giữa quy mô và diện tích đất đai, vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động và trình
độ hiểu biết giữa các hộ do điều kiện khó khăn và thuận lợi khác nhau giữa các
vùng. Một tất yếu khác của sự phát triển kinh tế hộ sản xuất là nảy sinh quá trình
tích tụ và tập trung về ruộng đất, vốn, cơ sở vật chất, kỹ thuật ngày càng tăng độ
giảm bớt tính chất sản xuất phân tán, manh mún lạc hậu của kinh tế tiểu nông.
Đặc trưng 3: Trong quá trình chuyển hoá kinh tế hộ sản xuất sẽ xuất hiện
nhiều hình thức kinh tế khác nhau như: Hộ nhận khoán trong đó các hộ là các
thành viên của các tổ chức kinh tế đó. Một loại hình kinh tế hôh khác xuất hiện đó
là các hộ nhận khoán nhận thầu. Trong quá trình nhận thầu nhìn chung phần lớn
kinh tế các hộ nhận thầu phát triển nhanh thu nhập cao rõ rệt, nhưng bên cạnh đó
còn có hộ gặp rủi ro, thất bại.
Một hình thức kinh tế hộ cao hơn đó là kinh tế trang trại. Đây là hình thức
phổ biến của các nước phát triển trên thế giới, có tác dụng tạo ra nhiều nông sản
hàng hoá. Ở nước ta hình thcs này còn ít và ở trình độ thấp ở một số nơi như các

vùng kinh tế mới hình thức kinh tế trang trại đã bắt đầu phát triển và mang hiệu
quả rõ rệt (cây cà phê, cây điều...).
2.3. Phân loại hộ sản xuất:
Các hộ sản xuất dù hoạt động trong lĩnh vực nào của nền kinh tế cũng có
những đặc trưng phát triển do bản thân nền sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp quyết
định. Hộ sản xuất hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá phụ
thuộc rất nhiều vào trình độ sản xuất kinh doanh, khả năng kỹ thuật, quyền làm
chủ tư liệu sản xuất và mức độ vốn đầu tư mỗi gia đình. Việc phân loại hộ sản
xuất cps căn cứ khoa học sẽ tạo điều kiện để xây dựng các chính sách kinh tế - xã
hội phù hợp nhằm đầu tư phát triển có hiệu quả kinh tế hộ sản xuất.
Có nhiều cách phân loại hộ sản xuất khác nhau:
2.3.1. Dựa trên các yết tố tự nhiên.
Yếu tố tự nhiên đề cấp đến đây là các đặc trưng địa lý kinh tế, xã hội. Có
thể gặp hai kiểu phân loại chính: Một là thành thị - nông thôn; hai là vùng kinh tế.
- Hộ sản xuất thành thị và nông thôn: Các hộ được phân công theo địa bàn
cư trú tương ứng là thành thị và nông thôn. Nước ta có 80% số hộ nông thôn và
20% hộ thành thị.
- Hộ sản xuất theo vùng kinh tế: theo đó nước ta có 7 vùng chính đó là:
Miền núi và trung du Bắc Bộ; Đồng bằng Sông Hồng; ven biển Bắc Trung Bộ;
ven biển Nam Trung Bộ; Tây Nguyên; Đông Nam Bộ; Đồng bằng Sông Cửu
Long.
Hoạt động kinh tế hộ sản xuất mang sắc thái và đặc trưng mỗi vùng.
2.3.2. Dựa trên các yếu tố kinh tế.
- Đây là hình thức phân loại thường gặp nhất, trong đó bao gồm nhiều dạng
phân loại khác nhau. Dựa vào thu nhập có thể chia ra hộ giầu - nghèo; hoặc hộ
giầu, hộ khá - hộ trung bình - hộ nghèo. Tuy nhiên, việc tính thu nhập nhất là của
người nông dân là điều rất phức tạp. Mặt khác, tiêu chuẩn giầu, nghèo khác nhau
giữa các khu vực như thành thị, nông thôn.
- Dựa vào mức độ đa dạng hoá sản xuất co thể chia ra: hộ thuần nông, hộ
kinh doanh tổng hợp, hppj sản xuất phi nông nghiệp. Từ sự phân hoá trên có thể

đưa ra những chính sách kinh tế phù hợp tại điều kiện khuyến khích các hộ phát
triển ngành nghề, tăng trưởng sản phẩm hàng hoá.
2.4. Vai trò của kinh tế hộ sản xuất trong nền kinh tế quốc dân.
Từ khi Nghị Quyết 10 - Bộ Chính trị ban hành, hộ nông dân được thừa
nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ, năng
động trong kinh tế nông thôn, nhờ đó người nông dân gắn bó với ruộng đất hơn,
chủ động đầu tư vốn để thâm canh tăng vụ, bố trí phân vùng đặc điểm sinh thái và
nhu cầu thị trường, khai phá thêm hàng ngàn hecta đất mới, ruộng đất được sử
dụng tốt hơn, vừa đi vào thâm canh vừa đi vào đổi mới cơ cấu sản xuất, cơ cấu
thời vụ. Việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã khơi dậy nhiều làng nghề
truyền thống, mạnh dạn vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất để đạt
tới mục đích cuối cùng là thu được thành quả lớn nhất. Điều này càng khẳng định
sự tồn tại khách quan của hộ sản xuất với vai trò là cầu nối trung gian giữa hai nền
kinh tế, là đơn vị tích vốn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động,
giải quyết việc làm ở nông thôn.
2.4.1. Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh
tế hàng hoá.
Lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá đã trải qua giai đoạn đầu tiên là kinh tế
tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình; tiếp theo là giai đoạn
chuyển biến từ nền kinh tế hàng hoá nhỏ lên kinh tế hàng hoá quy mô lớn, đó là
nền kinh tế hoạt động mua bán trao đổi bằng trung gian tiền tệ.
Kinh tế hộ xs được coi là khâu trung gian có vai trò đặc biệt quan trong
trong giai đoạn chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ tạo đà
cho bước chuyển từ nền kinh tế hàng hoá nhỏ tạo đà cho bước chuyển từ kinh tế
hàng hoá nhỏ sang nền kinh tế hàng hoá quy mô lớn. Bước chuyển biến từ kinh tế
tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình là một giai đoạn lịch
sử mà nếu chưa trải qua thì khó có thể phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn
giải thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát triển.
2.4.2. Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết
việc làm ở nông thôn.

Lao động là nguồn lực dồi dào nhất ở nước ta, là yếu tố năng động và là
động lực quyết định của nền kinh tế quốc dân. Bởi lao động là một trong những
yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, lao động là nguồn gốc của giá trị thặng dư,
lao động góp phần làm tăng của cải vật chất cho mọi quốc gia. Đặc biệt ở Việt
Nam có 80% dân số sống ở mức thấp mặc dù từ khi đất nước chuyển sang nền
kinh tế hàng hoá với chủ trương mở cửa nền kinh tế của Đảng và nhà nước, trong
những năm qua số lượng các công ty liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài đã tăng lên nhanh chóng, nhưng yêu cầu đối với lao động nông thôn của các
doanh nghiệp này đòi hỏi rất cao, do đó rất ít lao động của các doanh nghiệp này
đòi hỏi rất cao, do đó rất ít lao động nông thôn có cơ hội làm việc trong các doanh
nghiệp này. Hiện nay, ở nước ta có khoảng 12 triệu lao động chưa được sử dụng
và quỹ thời gian của người lao động ở nông thôn cũng chưa được sử dụng hết.
Các yếu tố tự nhiên chỉ mang lại hiệu quả thấp do có sự mất cân đối giữa lao
động, giải quyết việc làm ở nông thôn chúng ta cần phải phát triển kinh tế hộ sản
xuất. Trên thực tế đã cho thấy trong những năm vừa qua hàng triệu cơ sở sản xuất
được tạo ra bởi các hộ sản xuất trong khu vực nông nông nghiệp và nông thôn.
Mặt khác, so cơ tạo hữu cơ thấp, quy mô sản xuất nhỏ, nên mức đầu tư cho
một lao động trong kinh tế hộ sản xuất là thấp. Qua khảo sát Việt Nam cho thấy :
- Vốn đầu tư cho hộ sản xuất: 1,5 triệu/1lao động/1 việc làm.
- Vốn đầu tư cho 1 công ty tư nhân: 3,5 triệu/1lao động/1 việc làm.
- Vốn đầu tư cho kinh tế quốc doanh địa phương:
3,5 triệu/1lao động/1 việc làm.
(ở đây chỉ tính vốn đầu tư tài sản cố định)
Như vậy, chi phí cho một lao động ở trong hộ sản xuất là ít tốn kém nhất.
Điều này đặt trong hoàn cảnh đất nước ta còn là một nước nghèo, vốn tích luỹ ít
thì càng khẳng định hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế phù hợp góp
phần giải quyêts công ăn việc làm , nâng cao thu nhập cho lực lượng lao động
trong cả nước nói chung và ở nông thôn nói riêng.
2.4.3. Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc đẩy sản
xuất hàng hoá.

Ngày nay, hộ sản xuất hoạt động theo cơ chế thị trường có sự tự do cạnh
tranh trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ sản xuất
phải quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì? Sản
xuất như thế nào để trực tiếp quan hệ với thị trường. Để đạt được điều này các đơn
vị kinh tế nói chung và hộ sản xuất nói riêng đều phải không ngừng nâng cao chất
lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số biện pháp khác để
kích thích cầu từ đó mở rộng sản xuất đôngf thời đạt được hiệu quả kinh tế cao
nhất.
Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có thể dễ
dàng đáp ứng được những thay đổi của nhu cầu thị trường mà không sợ ảnh
hưởng đến tốn kêms về mặt chi phí. Thêm vào đó lại được Đảng và Nhà nước có
các chính sách khuyến khích, hộ sản xuất không ngừng vươn lên tự khẳng định vị
trí trên thị trường, tạo điều kiện cho thị trường phát triển đầy đủ, đa dạng thúc đẩy
quá trình sản xuất hàng hoá. Như vậy với khả năng nhạy bến trước nhu cầu thị
trường, hộ sản xuất đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị
trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển cao hơn.
2.4.4. Hộ sản xuất thúc đẩy sự phân công lao động dần tới chuên môn hoá,
tạo khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi.
Kinh tế hộ đã từng bước tạo sự chuyển dịch cơ cấu nông thôn, củng cố
quan hệ sản xuất, tăng cường lực lượng sản xuất tạo sự phân công lao động trong
nông thôn từ nền sản xuất thuần nông lạc hậu, sản xuất hàng hoá kém phát triển
sang sản xuất hàng hoá phát triển hơn. Tự sự phân công lao động dẫn đến quá
trình chuyên môn hoá trong các hộ sản xuất. Đối với các hộ kinh doanh dịch vụ
thì sự chuyên môn hoá càng cao thì một yêu cầu tất yếu sẽ xuất hiện, đó là sự hợp
tác lao động giữa các hộ sản xuất với nhau. Nếu như chuyên môn hoá làm cho
năng xuất lao động tăng cao, chất lượng sản phẩm tốt hơn thì hợp tác hoá sẽ làm
cho quá trình sản xuất hàng hoá được hoàn thiện đáp ứng đầy đủ nhu cầu của
chính các hộ sản xuất và từ đó đáp ứng nhu cầu thị trường.
2.5. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất.
Nước ta là một nước nông nghiệp với 80% dân sso sống ở nông thôn,

chúng ta tiến hành lên CNXH dựa trên nền sản xuất thuần nông. Sớm nhận thức
rõ vai trò của nông nghiệp trong quá trình xây dựng đất nước. Đảng và Nhà nước
ta từng bước có những chủ trương chính sách về nông nghiệp, tạo điều kiện cho
kinh tế phát triển làm nòng cốt cho phát triển kinh tế hộ nông thôn.
Những ngày đầu cải tạo XHCN, kinh tế hộ cá thể được coi là mảnh đất
hàng ngày hàng giờ đẻ ra CNTB. Do đó nó không được pháp luật thừa nhận, mà
trái lại nó còn được coi là đối tượng cải tạo. Sau đó, chúng ta đã nhận thấy trong
điều kiện một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trình độ sản xuất thấp, kinh tế
hộ cá thể sẽ trở thành nòng cốt để phát triển kinh tế nông thôn. Tháng 01/1981
Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành chỉ thị 100 về khoán trong nông nghiệp,
thực chất là giải phóng (tự do hoá) sức lao động của hàng chục triệu hộ nông dân
thoát khỏi sự ràng buoọc của cơ chế tập trung.
Đại hộ Đảng toàn quốc lần thứ VI, với đường lối đổi mới, nông nghiệp
được xác định là "mặt trận hàng đầu", tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải
phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông nghiệp từ tự túc tự cấp
sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, phát
triển nền kinh tế nhiều thành phấn. Đảng và Nhà nước đã ban hành những chủ
chương, csc để định hướng nêu trân. Nhờ đó, kinh tế hộ sản xuất dần được đặt vào
đúng vị trí của nó.
Tháng 4/1988 - Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 10 nhằm cụ thể hoá
một bước quan điểm đổi mới của ĐH VI đối với lĩnh vực quản lý nông nghiệp, tạo
điều kiện cho việc hình thành và thức đẩy kinh tế hộ sản xuất phát triển. Từ đây hộ
nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh
và là đơn vị kinh tế cơ sở ở nông thôn.
Sau Nghị định 10 của Bộ Chính trị rồi đến Nghị định 66 HĐBT của Hội
đồng Bộ trưởng ngày 2/3/1992, cùng luật doanh nghiệp tư nhân NĐ 29 ngày
19/3/1998, luật công ty thì hộ sản xuất đã được thừa nhận là một đơn vị kinh tế
bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Điều này được khẳng định tại điều 21
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992: "Kinh tế gia đình được khuyến
khích phát triển".

Đại hội lần thứ VII của Đảng chủ trương phát triển nền kinh tế nước ta nói
chung và đặc biệt đối với kinh tế hộ gia đình nói riêng.
Tháng 6/1993, tại kỳ họp lần thứ 5 (khoá VII), Đảng đã ban hàng nghị định
TW5, tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của hộ với tư cách là một chủ thể kinh tế ở
nông thôn được luật thừa nhận quyền sử dụng đất đai (5 quyền), quyền vay vốn
tín dụng, quyền lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh có lợi nhất, quyền tự do
lưu thông tiêu thụ sản phẩm.
Nghị quyết TW5 cùng các văn bản luật, Nghị định của Chính phủ đã tạo
hành lang pháp lý, khơi dậy động lực cho hơn 10 triệu hộ nông dân phát triển. Từ
đó phát triển triển mạnh nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII với chủ trương CNH - HĐH đất nước.
Nghị quyết TW6 lần một (khoá VIII) với chủ trương "tiếp tục đổi mới, đẩy
mạnh CNH - HĐH đất nước, nhất là CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn" đã
khẳng định nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực có vai trò cực kỳ quan trọng cả
trước mắt và lâu dài, làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Cùng với
các chính sách về các thành phần kinh tế, kinh tế hộ được khuyến khích phát triển
"Kinh tế hộ gia đình tồn tại và phát triển lâu dài, luôn luôn có vị trí quan trọng".
II. Tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất.
1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một phạm trù kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín
dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả và lãi sau một thời gian nhất định, là quan
hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên
cùng có lợi. Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như : tina
dụng thương mại, tián dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng nói
chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các ngân hàng, tổ
chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân khác, được thực hiện dưới
hình thức tiền tệ và theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Điều 20 luật các tổ chức tín dụng quy định :
"Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có,

nguồn vốn huy động để cấp tín dụng"
"Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng
một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết
khấu, cho thuê tài chính. Bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác"
Do đặc điểm riêng của mình tín dụng ngân hàng đạt được ưu thế hơn các
hình thức tín dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc điểm
tín dụng bằng tiền, vốn TDNH có khả năng đầu tư chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực
nào của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng ngân hàng ngày càng
trở thành một hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có.
Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ "tín dụng
hộ sản xuất". Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng ngân hàng giữa một bên
ngân hàng với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi được thừa nhận là chủ thể
trong mọi quan hệ xã hội, có thừa kế, quyền sở hữu tài sản, có phương án sản xuất
kinh doanh hiệu quả. Có tài sản thế chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư
cách để tham gia quan hệ tín dụng vơi ngân hàng. Đây cũng chính là điều kiện cần
để đáp ứng điều kiện vay vốn ngân hàng.
Đối với ngân hàng, tư khi chuyển hệ thống ngân hàng hai cấp, hạch toán
kinh tế và kinh doanh độc lập, các ngân hàng phải tự tìm kiếm thị trường với mục
tiêu an toàn và lợi nhuận. Thêm vào đó là Nghị định 14/CP ngày 02/03/1993 của
Thủ tướng Chính phủ, thông tư 01 - TD - NH ngày 26/03/1993 của Thống đốc
ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện nghị định 14/CP về chính sách cho hộ
sản xuất vay vốn để phát triển nông - lâm - ngư nghiệp. Và gần đây là quy định số
67/1999/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ, văn bản số 320/CV - NHNN 14 của
Thống đốc NHNN hướng dẫn thực hiện quy định trên, văn bản số 791/NHN
o
- 06
của Tổng giám đốc NHN
o
VN về thực hiện một số chính sách ngân hàng phụ vụ
phát triển nông nghiệp nông thôn. Với các văn bản trên đã mở ra một thị trường

mới cho ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Trong khi đó hộ sản xuất đã cho
thấy sản xuất có hiệu quả nhưng còn thiếu vốn để mở rộng tiến hành sản xuất kinh
doanh. Đứng trước tình hình đó, việc tồn tại một hình thức tín dụng ngân hàng đối
với hộ sản xuất là một yết tố phù hợp với cung cầu trên thị trường được môi
trường xã hội, pháp luật cho phép.
2. Vai trò tín dụng ngân hàng với kinh tế hộ sản xuất.
Trong nền kinh tế hàng hoá các doanh nghiệp khổng thể tiến hành sản xuất
kinh doanh nếu không có vốn. Đặc biệt là trong điều kiện nước ta hiện nay, thiếu
vốn là hiện tượng thường xuyên xảy ra đối với các đơn vị kinh tế, không chỉ riêng
đối với hộ sản xuất. Vì vậy vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò hết sức quan
trọng, nó trở thành "bà đỡ" trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Nhờ có vốn tín dụng, các đơn vị kinh tế không những đảm bảo quá
trình sản xuất kinh doanh bình thường mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ
thuật, áp dụng kỹ thuật mới đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh. Riêng đối với
hộ sản xuất, tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc phát triển
kinh tế hộ sản xuất.
2.1. Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá
trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả có ý nghĩa quan trọng đối với
sự tăng trưởng kinh tế. Nếu như vốn tham gia vào quá trình đầu tư không đem
lại hiệu quả sẽ không có sự tăng trưởng thậm chí còn gây sức ép tới lạm phát,
tạo ra kết cục trái ngược. Thực tế chó thấy, quá trình sản xuất luôn trải qua
những giai đoạn khác nhau, vì vậy các doanh nghiệp nói chung và hộ sản xuất
nói riêng có lúc thừa vốn có lúc thiếu vốn. Việc vay bổ sung vốn lưu động sẽ
giúp cho quá trình sản xuất được liên tục. Mặt khác, vốn đầu tư từ bên ngoài
vào còn giúp cho các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình đổi mới công
nghệ nhất là trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước như nước
ta hiện nay.
Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất với sự chuyên môn
hoá sản xuất trong xã hội ngày càng cao, đã dẫn đến tình trạng các hộ sản xuất

chưa thu hoạch sản xuất, chưa có hàng hoá để bán thì chưa có thu nhập,
nhưng trong khi đó họ vẫn cần tiềnđể trang trải cho các khoản chi phí sản
xuất, mua sắm đổi mới trang thiết bị và rất nhiều khoản chi phí khác. Trong
những lúc này các hộ sản xuất cần có sự hỗ trợ giúp đỡ của tín dụng ngân
hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất được liên tục. Nhờ có sự hỗ trợ về vốn, các
hộ sản xuất có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có khác như lao động,
tài nguyên để tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy việc sắp xếp tổ chức lại
sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý từ đó nâng cao đời sống vật chất
cũng như tình thần cho mọi người.
Như vậy có thể khẳng định rằng tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan
trọng đối với việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay. Nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất là cần thiết và rất lớn,
khu vực nông thôn trở thành một thị trường to lớn của tín dụng ngân hàng.
cũng vì thế mà thị phần của các hộ sản xuất trong dư nợ của ngân hàng nông
nghiệp càng tăng.
2.2. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập trungvốn và tập
trung sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vố tập trung sản xuất của tín
dụng ngân hàng đã được thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp
cũ. Hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề sống còn đối với các ngân hàng
phải đảm bảo được độ an toàn và có lợi nhuận, tránh rủi ro trong cho vay.
Bằng cách tập trung vốn vào các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh
doanh có hiệu quả, có nghĩa là vốn đã được bổ sung vào đúng chỗ còn thiếu,
giúp cho các hộ sản xuất càng có điều kiện để mở rộng sản xuất có hiệu quả
hơn, đóng góp cho xã hội nhiều sản phẩm với chất lượng cao thúc đẩy quá
trình tăng trưởng kinh tế và đồng thời ngân hàng cũng đảm bảo tránh được rủi
ro tín dụng.
Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, ngân hàng
phải quan tâm đến nguồn vốn đã huy động được để cho hộ sản xuất vay. Vì
vậy ngân hàng sẽ thúc đẩy các hộ sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả, tăng

nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất và lưu thông. trên cơ sở đó
hộ sản xuất phải tập trng vốn như thế nào để sản xuất, góp phần tích cực vào
quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
2.3. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề truyền thống,
ngành nghề mới giải quyết việc làm cho người lao động.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, có nhiều làng nghề truyền thốg,
nhưng chưa được quan tâm đến các ngành nghề truyền thống có khả năng đạt
hiệu quả kinh tế đặc biệt trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn. Phát huy được làng nghề truyền thống cũng
chính là phát huy được nội lực của kinh tế hộ. Và tín dụng ngân hàng sẽ là
công cụ tài trợ cho các ngành nghề mới thu hút được số lao động nhàn rỗi giải
quyết việc làm cho người lao động. Từ đó góp phần làm phát triển toàn diện
nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản,
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng thương
nghiệp, du lịch, dịch vụ ở các thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động
kinh tế đối ngoại.
Do đó tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành nghề
này phát triển một cách nhịp nhành và đồng bộ. Như vậy, bằng động tác gián
tiếp ngân hàng đã kích thích các hộ sản xuất nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,
phải hoạch định kinh doanh để tính toán có hiệu quả, giảm cho phí sản xuất
hàng hoá, góp phần vào phát triển kinh tế hộ nói riêng và nền kinh tế cả nước
nói chung.
2.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị - xã hội:
Tín dụng ngân hàng không những có vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy phát triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội.
Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã
góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đó là một trong
những vấn đề cấp bách hiện nay ở nước ta. Có việc làm, người lao động có
thu nhập sẽ hạn chế được tiêu cực xã hội. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các
ngành nghề phát triển, giải quyết việc làm cho lao động thừa ở nông thôn, hạn

chế những luồng di dân vào thành phố. Thực hiện được vấn đề này là do các
ngành nghề phát triển sẽ làm tăng thu nhập cho nông dân, đời sống văn hoá,
kinh tế xã hội tăng lên, khoảng cách giữa nông thôn và thành thi càng nhích
lại gần nhau, hạn chế bợt sự phân hoá bất hợp lý trong xã hội, giữa vững an
ninh chính trị.
Ngoài ra, tín dụng ngân hàng thực hiện tốt các chính sách đổi mới của
Đảng và Nhà nước, điển hình là chính sách xoá đói giảm nghèo. Tín dụng
ngân hàng thúc đẩy các hộ sản xuất phát triển nhanh, làm thay đổi bộ mặt
nông thôn, các hộ nghèo trở nên khá hơn, hộ khá trở nên hộ giàu. Chính vì lẽ
đó các tệ nạn xã hội dần dần được xoá bỏ như: rượu chè, cờ bạc, mê tín dị
đoan, nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên môn của lực lượng kinh
doanh. Qua đây, chúng ta thấy được vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc
củng cố lòng tin của nông dân nói chung và hộ sản xuất nói riêng vào sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước.
3. Giới thiệu một số chính sách tín dụng hộ sản xuất.
3.1. Chính sách của chính phủ và ngân hàng nhà nước đối với tín dụng hộ sản
xuất.
Sau hơn 10 năm đổi mới, việc thực thi hàng loạt chủ trương, chính sách, cơ
chế quản lý của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã thu được những thành
tựu trên nhiều mặt, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; đất nước thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế, tạo tiền đề bước vào giai đoạn phát triển mới; đẩy mạnh
công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Để phục vụ mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chính
sách tín dụng ngân hàng đã và đang thực hiện đổi mới đồng bộ và hữu đáp ứng
các yêu cầu mới, tạo bước đột phá trong việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn nội lực và nguồn bên ngoài. Nhìn lại các chính sách tín dụng ngân hàng
phục vụ phát triển nông nghiệp - nông thôn có thể nói chính sách tín dụng nhằm
tạo động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá, tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho
người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn luôn là
một chính sách quan trong nhất của Đảng và Nhà nước ta.

Ngày 26 tháng 8 năm 1991 (Ngày đầu của thời kỳ đổi mới) Hội đồng bộ
trưởng (nay là Chính phủ) đã có chỉ thị số 202/CT nêu rõ: "Việc cho vay của ngân
hàng để phát triển sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp cần được chuyển sang
cho vay trực tiếp đối với hộ sản xuất thuộc các ngành này thực sự trở thành đơn vị
kinh tế tự chủ".
Ngày 2/03/1993 trên cơ sở kết quả và kinh nghiệm sau hơn 1 năm "làm
thử" việc chuyển sang cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 14/CP về "chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển sản xuất
nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và kinh tế nông thôn". Đây là bước tiến mới, vì chỉ
thị 202/CP chủ yếu chỉ đề cập đến việc chuyển hướng tín dụng ngân hàng sang
cho vay trực tiếp hộ sản xuất và triển khai thực hiện như một chương trình thử
nghiệm.
Ngày 20/03/1999 chính phủ ban hành Quyết định số 67/199/QĐ-TTg về
"một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông
thôn".
Ngày 16 tháng 04 năm 1999 Thống đốc ngân hàng nhà nước có văn bản số
320 CV-NHN 14 hướng dẫn thực hiện một số nội dung trong Nghị định 67 của
Chính phủ và giao cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
chịu trách nhiệm chủ yếu thực hiện.
Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam yêu cầu các chi nhánh ngân hàng
thực hiện một số nội dung sau có liên quan tới tín dụng hộ sản xuất.
* Về nguồn vốn :
- Các chi nhánh thành viên phải có biện pháp phù hợp để huy động nguồn
vốn của các tổ chức kinh tế - xã hội, đoàn thể đã góp phần phục vụ cho phát triển
nông nghiệp và nông thôn của địa phương.
- Để tranh thủ ngày càng nhiều nguồn vốn từ nước ngoài, các chi nhánh
phải thực hiện việc giải ngân đúng cẩm nang và đúng thời gian bảo đảm hiệu quả
cao các dự án uỷ thác để tăng tín nhiệm của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam đối với Chính phủ và các tổ chức tín dụng nước ngoài.
Đối với tín dụng thực hiện các chương trình kinh tế theo chính sách của

Đảng, Nhà nước có ưu đãi lãi suất, phải tổ chức tốt khâu thẩm định và giải ngân
để nhận toàn bộ nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước chuyển sang Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nôngthôn Việt Nam cho vay các chương trình này.
* Về cơ chế tín dụng:
Các chi nhánh tổ chức tốt việc điều tra nắm nhu cầu vốn phục vụ cho việc
phát triển kinh tế hộ trên địa bàn.
* Về cơ chế đảm bảo tiền vay.
- Đối với hộ gia đình sản xuất nông - lâm - ngư - diêm nghiệp, mức vay tối
đa đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản, nhưng mức vay cụ thể phải căn
cứ vào nhu cầu vốn hợp lỹ cho từng đối tượng vay và có hiệu quả của dự án sản
xuất kinh doanh. Đối với hộ vay trên 10 triệu đồng phải thực hiện bảo đảm tiền
vay bằng tài sản, quyền sử dụng đất...
- Đối với các khoản vay khắc phục thiên tai thì người vay không phải thực
hiện quy định đảm bảo tiền vay. Trong trường hợp có rủi ro, các chi nhánh báo
cáo cho Thống đốc để trình Thủ tướng chính phủ xem xét giải quyết.
* Về mạng lưới phục vụ và giao dịch:
- Các chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh,
thành phố phải căn cứ vào địa bàn hoạt động, đối tượng tín dụng, khả năng tài
chính, từng bước mở rộng mạng lướu ngân hàng loại IV (xã, liên xã, thị trấn) để
đáp ứng yêu cầu và huy động vốn vừa cho vay tạo thuận tiện cho khách hàng,
thực hiện giải ngân tại chỗ, trực tiếp đến hộ vay vốn.
- Việc uỷ thác cho quỹ tín dụng và các ngân hàng thương mại cổ phần ở
nông thôn làm đại lý một số nghiệp vụ tín dụng, chi nhánh phải xem xét đầy đủ
khả năng quản lý, tài chính và khả năng thực hiện nghiệp vụ đại lý của tổ chức
này và phải có đề án trình Tổng giám đốc xem xét quyết định mới thực hiện.
3.2. Một số quyết định chính sách của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam đối với tín dụng đầu tư hộ sản xuất.
- Căn cứ điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam ban hàng kèm theo Quyết định số 390/QĐ - NHNN5
ngày 22 tháng 11 năm 1997 của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam.

- Căn cứ Quyết định số 284/2000/QĐ - NHNN1 ngày 21/9/2000 của
Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam về đối tượng cho vay bằng ngoại tệ
của tổ chưchính sách tín dụng.
- Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam kỳ họp lần thứ 15.
Ban hành kèm theo quyết định này quy định cho vay đối với khách hàng.
- Quyết định này (Quyết định số 06/QĐ-HĐQT ngày 18 thời gianáng 01
năm 2001) có hiệu lực kể từ ngày 02 tháng 02 năm 2001 và thay thế các quy định
của Chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam sau đây:
+ Quyết định số 180/QĐ/HĐQT ngày 15 tháng 12 năm 1998 của Hội đồng
quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam v/v ban hành
cho vay đối với khách hàng.
Các văn bản hướng dẫn Quyết định số 180/QĐ/HĐQUá TRìNH của Tổng
giám đốc: văn bản số 1110/NHNo-05 ngày 2 tháng 6 năm 1999 về mẫu biểu cho
vay theo QĐ 180; văn bản số 2375/NHNo-05 ngày 18 tháng 10 năm 1999 v/v
thực hiện Quyết định số 180/QĐ/HĐQUá TRìNH.
Trong phạm vi đề tài này chỉ giới thiệu một số quy định việc cho vay bằng
đồng Việt Nam của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
đối với khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh dịch vụ
đầu tư phát triển và đầu tư phát triển và đời sống của kinh tế hộ sản xuất.
* Về đối tượng áp dụng: Hộ gia đình, cá nhân thường trú tại địa bàn nơi chi
nhánh Ngân hàng nông nghiệp đóng làn trụ sở. Trường hợp hộ chỉ có đăng ký tạm
trú thì phải có xác nhận hộ khẩu của nơi thường trú và có xác nhận UBND xã
(phường) nơi đến cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Đại diện cho hộ gia đình để giao dịch đối với ngân hàng là chủ hộ hoặc
người đại diện phải có đủ năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự.
- Đối với hộ nông dân (nông - lâm - ngư - diêm nghiệp) phải được cơ quan
có thẩm quyền cho thiê giao quyền sử dụng đất, mặt nước.
- Đối với hộ đánh bắt thuỷ sản: Phải có phương tiện đánh bắt và được Cục

bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản cho phép đánh bắt.
- Đối với hộ gia đình cá nhân kinh doanh: Phải được cơ quan thẩm quyền
cấp giấy phép kinh doanh..
- Đối với hộ làm kinh tế gia đình và hộ khác phải được UBND xã (phường)
xác nhận cho phép sản xuất kinh doanh hoặc làm kinh tế gia đình. Riêng đối với
hộ là nông lâm trường phải có xác nhận của Giám đốc nông trường.
* Về nguyên tắc vay vốn.
- Khách hàng phải đảm bảo:
+ Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng (mục đích
sử dụng vốn vay hợp pháp, phù hợp với chương trình phát triển kinh tế xã hội của
địa phương, phù hợp với giấy phép kinh doanh với mục đích được giao, thuê,
khoán quyền sử dụng mặt nước).
+ Phải có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
+ Phải trả gốc và lãi tiền vay đúng theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Nếu không thực hiện đúng sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và ngân hàng
Nông nghiệp có quyền bán tài sản làm đảm bảo theo thoả thuận trong hợp đồng để
thu nợ theo quy đinh của pháp luật.
+ Việc đản bảo tiền vay phải thực hiện theo quy định của Chính phủ,
Thống đốc ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn về đảm bảo tiền vay của ngân hàng
nông nghiệp đối với khách hàng.
- Các ngân hàng nông nghiệp cơ sở phải đảm bảo:
+ Cho vay các đối tượng là giá trị vật tư hàng hoá, máy móc thiết bị và các
khoản chi phí để khách hàng thực hiện dự án hoặc phương án sản xuất kinh
doanh.
+ Thoả thuận thời hạn cho vay: Cho vay ngắn hạn được xác định phù hợp
với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng tối đa không
quá 12 tháng. Cho vay trung và dài hạn được xác định phù hợp với thời hạn thu
hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn
cho vay của ngân hàng nông nghiệp (cho vay trung hạn từ 12 - 60 tháng cho vay
dài hạn từ 60 tháng trở lên nhưng không quá hạn hoạt động còn lại theo quyết

định thành bảng hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm
đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống).
+ Thoả thuận lãi suất cho vay cho phù hợp với quy định của Ngân hàng
Nhà nước và Ngân hàng nông nghiệp tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng.
Trường hợp khản vay bị chuyển sang nợ quá hạn phải áp dụng lãi suất nợ
quá hạn theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm ký hợp
đồng tín dụng.
+ Mức cho vay: Ngân hàng phải căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách
hàng, vốn tự có của khách hàng tham gia vào dự án: mức cho vay tối đa không
quá 70% tổng nhu cầu vốn của dự án (đối với cho vay đời sống là không quá 60%
tổng nhu cầu) tỷ lẹe cho vay không quá 70% giá trị tài sản làm đảm bảo tiền vay.
+ Ngân hàng nông nghiệp được miễn giảm tiền vay của khách hàng theo
nguyên tắc khách hàng bị tổn thất về tài sản có liên quan đến vốn vay do nguyên
nhân - Ngân hàng nông nghiệp không được miễn giảm lãi tiền vay đối với khách
hàng thuộc đối tượng quy định tại điểm 1 điều 78 luật của tổ chức tín dụng.
+ Ngân hàng nông nghiệp có nghĩa vụ thực hiện đúng thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng, lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Ngân hàng nông nghiệp nơi cho có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quá
trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng nhằm đôn đốc khách
hàng thực hiện đầy đủ những cam kết đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng phù
hợp với đặc điểm hoạt động của chi nhánh và đặc điểm kinh doanh, sử dụng vốn
của khách hàng.
Tiến hành kiểm tra trước khi cho vay đó là việc thẩm định các điều kiện
vay vốn theo quy định.
Kiểm tra trong khi cho vay bao gồm: Kiểm tra việc giải ngân theo tốc độ
thực hiện dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh.
Kiểm tra sau khi cho vay bao gồm: Kiểm tra mục đích sử dụng tiền vay sau
khi cho vay, kiểm tra hiệu quả của dự án hoặc phương án, kỉem tra hiện trạng tài
sản đảm bảo tiền vay.
Sau khi kiểm tra vốn vay nếu có phát hiện khách vi phạm, giám đốc Ngân

hàng nông nghiệp cho vay căn cứ vào kết quả kiểm tra tuỳ theo mức độ vi phạm
của khách hàng mà quyết định xử lý cho phù hợp và đúng quy định. Tạm ngưng
cho vay trong trường hợp khách hàng sử dụng sai mục đích, cung cấp thông tin sai
sự thật nhưng đã được khắc phục và sửa chữa. Chấm dứt cho vay trong các trường
hợp khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng đã cam kết nhưng không khắc phục
và sửa chữa, khách hàng ngừng sản xuất có thể dẫn đến phá sản. Ngân hàng sẽ
tiến hàng khởi kiện trước pháp luật đối với khách hàng vi phạm một trong những
điều sau? Vi phạm hợp đồng tín dụng và đã được ngân hàng thông báo nhưng
không khắc phục. Có sự quá hạn do nguyên nhân chủ quan nhưng không có biệm
pháp để trả nợ nhưng cố tình trốn tránh trả nợ ngân hàng theo thoả thuận, có hành
vi lừa đảo, gian lận (thủ tục khởi kiện theo quy định của pháp luật).
II. Đặc điểm huy động vốn và sản xuất vốn tín dụng ngân hàng đối với hộ sản
xuất.
1. Đặc điểm huy động vốn.
Cũng như các doanh nghiệp khác, ngân hàng muốn hoạt động trước hết
phải có vốn. Nhưng do những khác biệt trong công tác tổ chức cũng như vai trò
của ngân hàng trong nền kinh tế mà nhu cầu về vốn của ngân hàng rất lớn. Nhu
cầu về vốn của ngân hàng được đáp ứng từ những nguồn vốn sau:
1.1. Vốn tự có
Nguồn vốn tự có của ngân hàng được hình thành từ hai bộ phận:
* Vốn điều lệ: Là số vốn bán đầu của ngân hàng, là tiêu chuẩn để một ngân
hàng thành lập và đi vào hoạt động: Về quy mô thì vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc
bằng vốn pháp định (vốn do Nhà nước quy định). Tuy nhiên với mỗi loại hình
hoạt động khác nhau của từng ngân hàng thì vốn điều lệ cũng có nguồn hình thành
khác nhau. Vốn điều lệ nói lên sức mạnh và khả năng hoạt động ban đầu của một
ngân hàng.
* Vốn tự có bổ sung: Được hình thành trong quá trình hoạt động của ngân
hàng thông qua việc trích lập các quỹ. Hàng năm ngân hàng căn cứ vào kết quả
hoạt động kinh doanh của mình mà trích một phần lợi nhuận bổ sung vào nguồn
vốn tự có của ngân hàng.

1.2. Nguồn vốn vay từ trung ương.
Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại dưới
nhiều hình thức như: cho vay, mua bán, chiết khấu, tái chiết khấu đối với các giấy
tờ có giá trị của ngân hàng thương mại. Vốn hình thành từ nguồn này đảm bảo
cho khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại.
1.3. Nguồn vốn điều hoà trong hệ thống.
Các ngân hàng thương mại có nhiều chi nhánh nằm trên các địa bàn khác
nhau nên luôn luôn xuất hiện tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn đối với các chi
nhánh trong cùng một hệ thống. Sở dĩ xuất hiện tình trạng này là do trên mỗi địa
bàn có những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, do đó nó tác động đến nguồn
vốn và khả năng sử dụng của từng chi nhánh.
1.4. Nguồn vốn huy động.
Đây là nguồn vốn quan trọng nhất của một ngân hàng thương mại. Nguồn
vốn huy động có nhiều hình thức khác nhau.
1.4.1. Các khoản tiền gửi của khách hàng.
a. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Đây là một trong những khoản tiền lớn gửi ngân
hàng.
Việc phân chia các khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư có thể theo nhiều
tiêu thức khác nhau, thông thường là theo thời gian:
* Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Đây là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào. Do thời
hạn rút tiền không được ấn định trước nên khách hàng phải chấp nhận một tỷ lệ lãi
suất thấp hơn so với hình thức tiền gửi có kỳ hạn.
* Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Đây là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ có thể rút tiền theo thời hạn đã được
thoả thuận giữa ngân hàng với khách hàng.
b. Tiền ký gửi.
Đây là khoản tiền mà khách hàng đem ký gửi vào ngân hàng. Việc sử dụng
các khoản tiền ký gửi được thực hiện theo những thoả thuận giữa ngân hàng và
khách hàng.

* Tiền ký gửi không kỳ hạn: Là các khoản tiền gửi mà người gửi có quyền
rút ra bất kỳ lúc nào họ muốn. Đối với loại này tuỳ theo quy định của từng quốc
gia mà không được phép tính lãi hoặc lãi thấp.
* Tiền gử i có kỳ hạn: Với khoản tiền gửi này, NH chỉ phải hoàn trả số tiền
ký gửi vào ngày đến hạn ghi trên hợp đồng. Các khoản tiền gửi có kỳ hạn có dạng
như một khoản tiền vay của ngân hàng.
1.4.2. Nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính, tín dụng.
Các NHTM có thể thu hút vốn bằng cách vay ở các tổ chức tài chính tín
dụng. Đối với những NHTM ở các nước phát triển có quan hệ rộng khắp thì
nguồn vốn vay là một nguồn vốn vay thường xuyên và khá quan trọng. Nguồn
vốn vay mượn này đã trở thành một nguồn vốn quan trọng hơn đối với các ngân
hàng trong những năm qua. Trong hoạt động quan hệ quốc tế, việc vay mượn từ
các tổ chức tín dụng quốc tế cũng cung cấp cho ngân hàng những nguồn vốn quan
trọng.
1.4.3. Các hình thức huy động vốn khác.
Bên cạnh những hình thức huy động vốn nói trên, ngân hàng còn thực hiện
việc huy động vốn thông qua việc phát hành tín phiếu ngân hàng, tín phiếu cầm
cố... Thông thường đối với những hình thức này thường lãi suất cao hơn so với
các loại hình tiền gửi tiết kiệm và các loại hình được huy động vốn theo từng sáng
kiến của mỗi (khách hàng) ngân hàng. Với các hình thức này, ngân hàng chủ động
về mặt thời hạn hoàn trả do đó có thể sử dụng cho vay theo những nhu cầu hiện tại
của mình.
2. Đặc điểm sử dụng vốn tín dụng của ngân hàng đối với hộ sản xuất.
Đây là thành phần quan trọng nhất trong danh mục các khoản sử dụng vốn
của ngân hàng. Hoạt động sinh lợi của các ngân hàng là hoạt động tín dụng. Các
khoản mục tín dụng có thể đcượ phân loại theo nhiều cách: Mục đích, hình thức
bảo đảm (nếu có), kỳ hạn, phương pháp hoàn trả và nguồn gốc khách hàng...
* Căn cứ theo mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng có thể chia thành
các khoản mục như sau:
- Nông nghiệp:

+ Cho vay trồng trọt.
+ Cho vay chăn nuôi.
- CN - TTCN
- TM - DV
- Phát triển ngành nghề.
- Mục đích khác.
* Căn cứ theo hình thức đảm bảo thì khoản mục tín dụng được phân chia
thành:
- Cho vay có đảm bảo.
- Cho vay không có đảm bảo.
* Căn cứ theo kỳ hạn có:
- Cho vay ngắn hạn.
- Cho vay trung hạn.
- Cho vay dài hạn.
Những quy định về kỳ hạn của các khoản mục cho vay được quy định theo
điều luật của từng quốc gia.
* Căn cứ theo phương pháp hoàn trả có:
- Các khoản vay hoàn trả một lần.
- Các khoản vay hoàn trả nhiều lần.
Chúng ta sẽ phân tích một số khoản mục quan trọng.
2.1. Cho vay có đảm bảo.
Cho vay có đảm bảo là hoạt động quan trọng của ngân hàng, nó biểu hiện
việc ngân hàng cho vay có cầm giữ các vật thế chấp cụ thể nào đó. Vật thế chấp
có thể bao gồm nhiều loại khác nhau như: bất động sản, biên nhận ký gửi hàng
hoá, máy móc thiết bị, nhà máy, cổ phiếu,... yêu cầu cơ bản của những vật thế
chấp là có thể bán được. Lý do thực tế đòi hỏi một khoản cho vay phải được đảm
bảo là nhằm tạo điều kiện để ngân hàng giảm bớt rủi ro, mất mát trong trường hợp
người vay không muốn hoặc không thể trả nợ khi đến hạn thanh toán với ngân
hàng.
Sự đảm bảo là yêu cầu phải có đối với các khoản vay vì một trong những lý

do đó chính là sự yếu kém về mặt tài chính của người vay. Sự yếu kém này có thể
được biểu hiện thông qua một vài yếu tố, bao gồm: nợ nần chồng chất, quản lý
yếu kém và lợi nhuận thấp. Người trong điều kiện thế chấp như vậy có thể tạo uy
tín bằng việc thế chấp các tích sản. Khi người vay đem cầm cố các tích sản mang
quyền sở hữu của mình thì hộ sẽ có ý hoàn trả nợ. Kỳ hạn của mỗi khoản vay
cũng ảnh hưởng đến việc khoản vay đó có cần được bảo đảm hay không. Khi kỳ
hạn cho vay dài, rủi ro trong việc hoàn trả tăng lên thì các khoản vay càng cần có
sự đảm bảo.
2.2. Cho vay không đảm bảo.
Khác với cho vay có đảm bảo, cho vay không bảo đảm được dựa trên hình
thức tài chính của người vay, lợi tức có thể thu được trong tương lai, ý thức trả nợ
trong quan hệ với ngân hàng trước đây, tín nhiệm của ngân hàng đối với người
vay. Trong hoạt động của ngân hàng có một số khoản vay chủ yếu thì trong nhiều
trường hợp họ được hưởng lãi suất ưu đãi và không cần có bảo đảm cho khoản
vay. Những công ty ấy thường là có danh tiếng trên thị trường, có phương cách
quản lý hiệu quả, có các sản phẩm và dịch vụ được thị trường chấp nhận, có lợi
nhuận ổn định và có một khả năng tài chính vững mạnh. Họ sẵn sàng cung cấp
cho ngân hàng các báo cáo tài chính của công ty để ngân hàng nắm rõ tình hình tài
chính, sự tiến bộ của họ và có thể đáp ứng các món cho vay không đảm bảo.
Các doanh nghiệp không phải là khách hàng duy nhất của ngân hàng được
cho vay trên cơ sở không cần đảm bảo, nhiều cá nhân cũng được hưởng đặc
quyền này. Những người có nhà riêng, có công ăn việc làm ổn định, làm việc
trong các công sở có thu nhập ổn định, có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng với
ngân hàng trước đó cũng sẽ được vay không cần bảo đảm.
2.3. Cho vay hoàn trả một lần.
Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những khoản cho vay
thẳng, nghĩa là hợp đồng yêu cầu trả vốn một lần vào thời gian đáo hạn cuối cùng.
Những khoản lãi có thể được trả vào từng thời điểm nhất định hoặc trả khi đáo
hạn. Đối với khoản vay này việc hoàn trả khi đáo hạn trở thành một gánh nặng đối
với khách hàng. Những khoản cho vay hoàn trả một lần thường là những khoản

cho vay ngắn hạn.
2.4. Cho vay hoàn trả làm nhiều lần.
Cho vay hoàn trả nhiều lần đòi hỏi việc hoàn trả theo những thời điểm nhất
định. Cho vay hoàn trả nhiều lần được thực hiện theo nguyên tắc trả dần trong
suốt kỳ hạn thực hiện hợp đồng tín dụng. Nhờ vậy việc hoàn trả không trở thành
gánh nặng lớn đối với người vay như trong trường hợp toàn bộ khoản vay phải
được trả một làan. Đối với nhiều người các khoản cho vay hoàn trả nhiều lần ví
như các khoản trả góp, đóng vai trò như một phương tiện tích luỹ. Các khoản trả
góp đóng vai trò quan trọng trong việc tăng mức tiết kiệm của người dân và làm
tăng hiệu quả sử dụng vốn.
2.5. Cho vay ngắn hạn.
Các khoản cho vay ngắn hạn có kỳ hạn là một năm hoặc thấp hơn. Cho vay
ngắn hạn được thực hiện một thời gian nhất định dưới một năm hoặc trên cơ sở
theo yêu cầu (đã đươcj thoả thuận trước với ngân hàng). Cho vay theo yêu cầu là
khoản cho vay không có kỳ hạn nhất định và ngân hàng phải đáp ứng khi khách
hàng phát sinh nhu cầu vay vào bất cứ thời điểm nào. Cho vay theo yêu cầu,
người vay có được vị thế rất linh hoạt và cóthể trả nợ trong một thời gian rất ngắn.
Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng rộng rãi trong việc
tài trợ mang tính thời vụ về vốn luân chuyển và tài trợ tạm thời cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh.
2.6. Cho vay trung và dài hạn.
Thời hạn cho các khoản vay trung và dài hạn tuỳ thuộc vào quy định của
từng quốc gia. Theo quy định của nước ta, những khoản vốn vay từ 1 đến 3 năm
được coi là trung hạn, từ 3 năm trở lên được coi là dài hạn. Những khoản cho vay
này thường có giá trị lớn và khách hàng được vay với mục đích dùng để đầu tư,
mở rộng sản xuất, nâng cấp tài sản cố định.
Khách hàng thường ưa chuộng những khoản tín dụng trung hạn và dài hạn
vì một số lý do: Thứ nhất, khách hàng có thể yên tâm về thời gian sử dụng vốn
trong sản xuất kinh doanh. Trong thời gian ngắn việc sử dụng vốn phục vụ cho
mở rộng sản xuất kinh doanh để mang lại lợi nhuận thường gặp khó khăn. Do đó

muốn phát triển kinh doanh cần có những nguồn vốn trung hạn và dài hạn để đầu
tư cho sản xuất. Thứ hai, các khoản vay trung hạn và dài hạn thường thuận tiện
hơn các khoản vay ngắn hạn, doanh nghiệp khong phải hoàn trả toàn bộ khoản
vay một lần, thay vào đó các khoản trả nợ được hoàn trả theo phương pháp trả
nhiều lần trong thời gian khoản vay được thực hiện. Thứ ba, các vay trung và dài
hạn dễ dàng thực hiện hơn so với các hình thức tài trợ khác như phát hành trái
phiếu, phát hành cổ phiếu mới...
Vốn trung và dài hạn là mọt nhu cầu cấp thiết đối với việc đẩy mạnh sự
tăng trưởng của nền kinh tế tại những quốc gia đang phát triển.
IV. Đặc điểm sử dụng vốn của hộ sản xuất.
Người dân ở nông thôn nói chung và hộ sản xuất nói riêng họ chủ yếu sống
bằng nghề nông là chính, mà nông nghiệp lại phụ thuộc và điều kiện tự nhiên.
Thiên nhiên ngoài mặt tích cực là mang lại thuận lợi cho sản xuất, nó vẫn còn
mang lại không ít khó khăn, sản xuất thường gặp nhiều rủi ro như mưa nắng, lũ
lụt, sâu bệnh... Vì vậy việc sử dụng vốn tín dụng cũng có dễ xảy ra rủi ro, nhiều
khi đầu tư bị mất trắng không có khả năng hoàn trả.
Thu nhập của các hộ sản xuất nói chung là thấp, đời sống của họ còn nhiều
khó khăn. Vì vậy vốn tín dụng còn có hiện tượng sử dụng sai mục đích. Có trường
hợp vốn cung cấp không được đầu tư vào sản xuất, mà dùng vào mua sắm hoặc
đánh bạc nên làm cho đồng vốn phát huy tác dụng kém.
Đối tượng vay vốn là các hộ gia đình, nên món vay thường nhỏ. Vì vậy thủ
tục cần đơn giản, gọn nhẹ tránh để người dân đi lại nhiều gây lãnh phí thời gian và
tiền của của người dân dẫn đến chi phí cho một đồng vốn vay khá cao.
Đối tượng sản xuất của các hộ sản xuất chủ yếu là cây trồng, con vật nuôi
nó có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng. Vì vậy việc sử dụng vốn phải phù
hợp với từng loại cây trồng, từng loại vật nuôi. Vốn đầu tư phải được sử dụng
đúng lúc, đúng thời gian mới mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp đã làm cho sự tuần hoàn và luân
chuyển vốn chậm chạp. Vì vậy cần thiết phải có lượng vốn dự trữ đáng kể trong
thời gian dài cho nên hiệu quả sử dụng vốn không cao.

Mặt khác hộ sản xuất còn có các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nên việc
sử dụng vốn cũng có một phần hiệu quả hơn.
* Đặc điểm sử dụng vốn tín dụng ở hộ sản xuất ngoại thành.
- Tốc độ đô thị hoá nhanh, do đó hầu hết các huyện ngoại thành đều bị thu
hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Để tạo công ăn việc làm cho người dân
nông thôn, không còn có cách nào khác là phải phát triển nhiều ngành nghề, đó là
cách sử dụng vốn hợp lý nhất, có hiệu quả nhất nhằm phát triển kinh tế nông thôn.
- Trình độ thâm canh của nông dân vùng ngoại thành tương đối cao, do đó
họ luân giao cây trồng những cây có giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu thị
trường. Từ đó tạo điều kiện phát triển sản xuất, như vậy việc sử dụng vốn cũng có
hiệu quả hơn.
- Trình độ dân trí cao hơn so với nơi khác, quan hệ hàng hoá tiền tệ cũng
biểu hiển rõ nét hơn. Họ mạnh dạn vay vốn đầu tư vào sản xuất khi cần thiết, khi
đến hạn trả sòng phẳng, việc sử dụng vốn thường có hiệu quả hơn nơi khác.

×