Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Nâng cao năng lực tự học cho sinh viên trong giảng dạy môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác lênin (phần II) (qua khảo sát ở trường y khoa vinh) luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.46 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ DUNG

NÂNG CAO NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO SINH VIÊN
TRONG GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ
BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN (PHẦN II)
(QUA KHẢO SÁT Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA VINH)

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
BỘ MƠN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS.Đinh Trung Thành


2

NGHỆ AN - 2012


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tơi xin bày
tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến T.S. Đinh Trung Thành, khoa Giáo
dục - Chính trị trường đại học Vinh ln tận tình hướng dẫn, động viên và
giúp đỡ tơi hồn thành luận văn này.
Qua đây, tơi cũng gửi lời cảm ơn tới các thầy, cơ khoa Giáo dục Chính trị, Phòng đào tạo Sau Đại học trường đại học Vinh đã đóng góp ý
kiến, tạo điều kiện thuận lợi để luận văn được hồn thành.


Tơi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phịng Cơng tác Học sinh,
Sinh viên, Khoa Khoa học cơ bản và sinh viên trường Đại học Y khoa Vinh
đã tạo điều kiện cho tơi hồn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới những người thân trong gia
đình, bạn bè, những người thân yêu luôn bên tôi, động viên, giúp đỡ về nhiều
mặt trong suốt q trình tơi hồn thành khóa học.
Vinh,tháng 8/2012
Tác giả.
Trần Thị Dung


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

GD-ĐT

Giáo dục đào tạo

ĐH,CĐ

Đại học, Cao đẳng

GV, SV

Giáo viên, Sinh viên


NCKH

Nghiên cứu khoa học

PPDH

Phương pháp dạy học

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

THCN

Trung học chuyên nghiệp

VN

Việt Nam

PTSX

Phương thức sản xuất


5


6
A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Tự học là hình thức học tập khơng thể thiếu được của sinh viên đang
học tập tại các trường đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý,
khoa học, có chất lượng, hiệu quả là trách nhiệm không chỉ ở người học mà
còn là sự nghiệp đào tạo của nhà trường.
Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi và chỉ khi tạo ra
được năng lực sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành
quá trình tự giáo dục. Luật Giáo dục đã ghi rõ: “Phương pháp giáo dục đại
học phải coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều
kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành,
tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”[27;2]. Như vậy, phương pháp
dạy và học ở các trường đại học, cần thực hiện theo ba định hướng:
- Bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu.
- Tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo.
- Rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, ứng dụng.
Trong quá trình học tập, mỗi sinh viên tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri
thức, kỹ năng, phải nắm vững những cơ sở của nghề nghiệp tương lai và có
tiềm năng vươn lên thích ứng với những yêu cầu trước mắt và lâu dài do thực
tiễn xã hội đặt ra. Muốn vậy, khi tiến hành hoạt động học tập, sinh viên khơng
chỉ phải có năng lực nhận thức thông thường mà cần tiến hành hoạt động
nhận thức mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, sáng
tạo phát triển ở mức độ cao. Điều đó có nghĩa là, dưới vai trị chủ đạo của
thầy, sinh viên không nhận thức một cách máy móc chân lý có sẵn mà cịn
đào sâu hoặc mở rộng kiến thức...


7
Trong những năm qua cùng với quá trình đổi mới giáo dục Đại học, sự
phát triển của nhà trường, việc giảng dạy, học tập các mơn lý luận chính trị ở
trường Đại học Y khoa Vinh đã đạt được nhiều thành tích quan trọng. Một

trong những kết quả đáng ghi nhận đó là phương pháp dạy và phương pháp
học của cả giảng viên và học sinh, sinh viên trong quá trình dạy học mơn
Những Ngun lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin (phần II) đã không
ngừng được cải tiến theo hướng phát huy vai trị chủ động, tích cực sáng tạo
của sinh viên. Trong quá trình học tập, việc xác định mục đích, xây dựng
động cơ, lựa chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý là cần thiết. Song
điều quan trọng là sinh viên phải có hệ thống kỹ năng tự học. Điều này có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng đối với sinh viên, bởi lẽ muốn có kỹ năng nghề
nghiệp trước hết phải có kỹ năng làm việc độc lập, trên cơ sở phát huy tính
tích cực nhận thức để chiếm lĩnh hệ thống tri thức. Vì tri thức là sản phẩm của
hoạt động, muốn nắm vững tri thức và có tay nghề thì việc rèn luyện hệ thống
kỹ năng tự học một cách thường xuyên và nghiêm túc phải được chú trọng
ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Như vậy, để hoạt động học tập của sinh viên đạt chất lượng và hiệu
quả, sinh viên phải có tri thức và kỹ năng tự học. Chính kỹ năng tự học là
điều kiện vật chất bên trong để sinh viên biến động cơ tự học thành kết quả cụ
thể và làm cho sinh viên tự tin vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển
hứng thú, duy trì tính tích cực nhận thức trong hoạt động tự học của họ.
Tuy nhiên cần nhận thức rằng, hình thành kỹ năng tự học ln gắn với
vai trị của người giảng viên. Xuất phát từ u cầu có tính cấp thiết đó, chúng
tơi chọn vấn đề “Nâng cao năng lực tự học cho sinh viên trong giảng dạy
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin (phần II)” (Qua khảo sát
ở trường Đại học Y khoa Vinh) làm đề tài Luận văn tốt nghiệp cao học,
chuyên ngành LL&PPDH bộ mơn Giáo dục chính trị.


8
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Đổi mới phương pháp dạy – học theo hướng nâng cao, phát triển năng
lực tự học, xây dựng xã hội học tập là một chủ trương lớn của Đảng và nhà

nước. Chủ trương đó đã và đang nhận được sự quan tâm sâu rộng của cả xã
hội, đặc biệt của các nhà giáo, nhà nghiên cứu khoa học. Đã có nhiều cơng
trình khoa học của các tác giả trong và ngoài nước đăng tải bàn về vấn đề đổi
mới giáo dục đại học trong đó có bàn tới chủ đề rèn luyện, phát triển năng lực
tự học, của sinh viên.
Trước hết về các cơng trình khoa học liên quan đến chủ trương đổi mới
phương pháp dạy học có thể kể đến:
Làm chủ phương pháp giảng dạy, Madeline Hunter - Robin Hunter Nguyễn Đào Quý Châu (dịch)(2005), Nhà xuất bản Đại học quốc gia
TP.HCM ;
Dạy và học môn GDCD ở trường THPT những vấn đề lí luận và thực tiễn
Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Duy Khiêm (2008), Nhà xuất bản Đại học Sư phạm;
Hồ Chí Minh, Tồn tập, NXB CTQG, Hà Nội ;
Tài liệu bài giảng lí luận dạy học TS Nguyễn Văn Tuấn (2009), trường
đại học sư phạm kĩ thuật TP.HCM năm 2009;
Giáo dục học hiện đại, Thái Duy Tuyên(2001), NXB Đại học quốc gia,
Hà Nội;
Giáo dục trong thực tiễn, A.X. Ma-ca-ren-cơ(2002), NXB Trẻ, TP Hồ
Chí Minh;
Những cơ sở lý luận dạy học (Các hình thức tổ chức việc dạy học),S. I.
Ganêlin và B.P.Êxipơp (1977), Người dịch Phan Huy Bính, Nguyễn Thế
Trường, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Cơng trình nghiên cứu của các tác tác giả đã nêu lên những vấn đề cơ
bản về lý luận dạy học, về việc tổ chức dạy học và đổi mới phương pháp dạy


9
học nói chung thơng qua việc tự học. Đặc biệt qua tác phẩm "Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" của tác giả Trần Dân Tiên, Nhà
xuất bản Sự thật in năm 1975, ta có thể thấy rõ Chủ tịch Hồ Chí Minh chính
là tấm gương sáng chói về tự học.

Về các cơng trình khoa học về vấn đề tự học của sinh viên, một số tác
giả đã có những cơng trình đăng tải trên tạp chí chuyên ngành đã nghiên cứu
một số cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề tự học như:
Trần Anh Tuấn, Vấn đề tự học của sinh viên từ góc độ đánh giá chất
lượng kỹ năng nghề nghiệp, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, (1996)
Nguyễn Kỳ, Biến quá trình dạy học thành q trình tự học, Tạp chí
Nghiên cứu Giáo dục (1990)
Hà Thị Đức, Về hoạt động tự học của sinh viên sư phạm, Tạp chí Nghiên
cứu Giáo dục, (1992)
Phan Bích Ngọc, "Nghiên cứu kĩ năng làm việc độc lập với sách của sinh
viên Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội", Đề tài cấp Đại học
Quốc gia - mã số QN05.07
Phan Bích Ngọc, “Tổ chức tốt việc tự học cho sinh viên nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo của các trường đại học theo hình thức tín chỉ hiện nay” , Tạp
chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 25 (2009)
Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả đều tập trung vào các giải
pháp nhằm tạo môi trường tự học, cần tạo ra sự hứng thú, tích cực, nhanh
chóng tháo gỡ những khó khăn cho người học.
Như vậy, cho đến nay đã có một số cơng trình nghiên cứu về năng lực tự
học của sinh viên ở các trường ĐH, CĐ - những cơng trình đó đã đưa lại nhiều
giá trị lý luận và thực tiễn làm cơ sở khoa học cho chủ trương quá trình đổi mới,
nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Tuy nhiên các cơng trình này chỉ khai thác những khía cạnh có tính chất


10
chuyên ngành, chủ yếu dưới góc độ giáo dục học, nghiên cứu giáo dục và phương
pháp dạy học nói chung.
Từ những vấn đề tổng quan trên có thể khẳng định rằng chưa có một
cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống và chuyên sâu về “Nâng

cao năng lực tự học cho sinh viên trong giảng dạy Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin (phần II)” (Qua khảo sát ở trường Đại học Y khoa
Vinh), từ cơ sở lý luận và thực tiễn, đặc điểm đến phương hướng và các giải
pháp để tăng cường hoạt động tự học cho sinh viên các trường đại học mà
trực tiếp ở trường đại học Y khoa Vinh – trường Đại học đào tạo có tính chất
đặc thù, góp phần nâng cao năng lực tự học cho sinh viên các trường đại học
Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Vì vậy nghiên cứu đề tài này không trùng với bất kỳ cơng trình khoa học nào
đã được cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp nâng
cao năng lực tự học cho sinh viên trong giảng dạy phần II môn Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
3.2. Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nâng cao năng lực tự học
của sinh viên Đại học Y khoa Vinh trong giảng dạy phần II môn Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Khảo sát, đánh giá tình hình tổ chức dạy học theo hướng nâng cao
tính tự học của sinh viên Đại học Y khoa Vinh trong giảng dạy phần II môn
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin thời gian qua.


11
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả của năng lực tự học
của sinh viên trong giảng dạy trong phần II môn Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin ở trường Đại học Y khoa Vinh trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và biện pháp nâng cao năng lực
tự học của sinh viên trong giảng dạy trong phần II môn Những nguyên lý cơ

bản của chủ nghĩa Mác - Lênin ở trường Đại học Y khoa Vinh
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung, nhằm nâng cao năng lực tự học cho sinh
viên các trường ĐH, CĐ.
- Đề tài sử dụng các phương pháp như phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo
sát, điều tra, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và các phương pháp khác.
6. Giả thuyết khoa học
Nâng cao năng lực tự học cho sinh viên thông qua giảng dạy môn
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ góp phần tích cực,
hiệu quả vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập môn Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin (phần II) ở trường Đại học Y khoa Vinh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 3 chương.


12
B. NỘI DUNG
Chương 1
SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC
TỰ HỌC CHO SINH VIÊN TRONG GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG
NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN (PHẦN II)
1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề tự học
1.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tự học
Trong thời đại mà khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng như hiện
nay, nhà trường dù tốt đến mấy cũng không thể đáp ứng hết nhu cầu học tập
của người học cũng như đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội. Vì vậy,

bồi dưỡng năng lực tự học cho sinh viên (SV) là một cơng việc có vị trí cực kì
quan trọng trong các nhà trường đại học. Chỉ có tự học, tự bồi đắp tri thức
bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau mỗi SV mới có thể bù đắp
được những thiếu khuyết về tri thức khoa học về đời sống xã hội. Từ đó có
được sự tự tin trong cuộc sống, cơng việc bởi năng lực tồn diện của mình.
Vấn đề tự học, tự đào tạo của người học đã được Đảng, Nhà nước quan
tâm quán triệt sâu sắc từ nhiều năm qua. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII
nêu rõ: “ Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự
học, tự sáng tạo của học sinh, Bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho
học sinh, phát triển mạnh mẽ phong trao tự học, tự đào tạo thường xuyên và
rộng khắp trong toàn dân”[33;2].
Trên tinh thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi tự học, tự đào tạo là vấn đề
mấu chốt có vị trí cực kì quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào tạo của
đất nước. Trong khuôn khổ đề tài này chúng tôi muốn tập trung đề cập những
vấn đề liên quan đến khái niệm tự học, nội dung hoạt động tự học, các hình


13
thức dạy tự học, đặc biệt là quan tâm đến các biện pháp rèn luyện kĩ năng tự
học cho SV. Để từ đó thúc đẩy q trình rèn luyện kĩ năng tự học cho SV, góp
phần vào cơng cuộc đổi mới phương pháp dạy học, không ngừng nâng cao
chất lượng đào tạo của nhà trường.
Thực trạng Giáo dục và đào tạo hiện nay ở nước ta là nỗi âu lo sâu sắc
của tồn xã hội, vì nó gắn liền với mỗi gia đình và tương lai phát triển của đất
nước. Vấn đề này đã được đề cập mọi lúc, mọi nơi và nhiều khi gay gắt trong
Hội thảo khoa học, trên mặt báo và tại diễn đàn của Quốc Hội.
Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng
ta rất chú trọng vấn đề chiến lược đào tạo con người; coi con người: "Vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội”. Để
thực hiện được mục tiêu và chiến lược nêu trên, Đảng ta đã có chỉ thị đối với

giáo dục và đào tạo: “Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, trang bị
đủ kiến thức cần thiết đi đôi với tạo ra năng lực tự học, sáng tạo của sinh viên,
v.v.. Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp
trong toàn dân”.
Bộ giáo dục và Đào tạo cũng đã quy định một cách cụ thể, rõ ràng
trong hướng dẫn số 11381/BGDĐT- ĐH và SĐH ngày 10/10/2006: “Thực
hiện đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển quá trình dạy ở bậc
đại học thành quá trình tự học của sinh viên có tổ chức và hỗ trợ tối ưu của
giảng viên, ứng dụng mạnh mẽ các phương tiện hỗ trợ và cơng nghệ thơng
tin, chấm dứt tình trạng “đọc-chép” trên giảng đường đại học”[3;10]. Tại
Nghị quyết TW 2 khoá VIII khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp
giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư
duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự
học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học” [3;14].


14
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học
Hiện nay, trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy thường nhấn
mạnh đến việc tự học. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương sáng chói về
tự học. Qua tác phẩm "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch"
của tác giả Trần Dân Tiên, Nhà xuất bản Sự thật in năm 1975, ta có thể thấy
rõ điều đó.
Đầu tiên là ý chí tự học. Ngay từ khi Bác Hồ đang trong lứa tuổi thanh
niên, còn mang tên là anh Ba, trên con tàu rời bến cảng Nhà Rồng sang Pháp
năm 1911, anh Ba đã phải làm việc rất cực khổ, nhưng vẫn có ý chí vượt khó
và say sưa tự học. Một thuỷ thủ cùng đi trong chuyến tàu đó kể lại: "Mỗi
ngày, chín giờ tối, cơng việc mới xong. Anh Ba mệt lử. Nhưng trong khi
chúng tôi nghỉ hoặc đánh bài, anh Ba đọc hay viết đến mười một giờ hoặc nửa

đêm"[49;6].
Ta biết Bác chỉ sang Anh một thời gian rất ngắn, khơng có điều kiện ở
lâu nhưng từ ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng Bác đã bắt đầu học mỗi ngày
một bài và học thuộc mười từ. Sau này trong quá trình ở Pháp hay ở những
nơi khác để hoạt động cách mạng, Bác vẫn tự học và sử dụng được tiếng Anh
để đọc sách, giao thiệp (như giao thiệp với luật sư Loseby và tồ án của chính
quyền Hồng Kơng, khi Bác bị chúng bắt giam ở Hồng Kơng; giao thiệp với
chính quyền Singapore khi Bác bí mật vượt Hồng Kơng nhưng bị chính quyền
Singapore bắt lại; giao thiệp với ông bạn thân của luật sư Loseby khi luật sư
tạo điều kiện cho Bác trốn khỏi Hồng Kông; giao thiệp với trung uý phi công
Shaw của Mỹ khi anh này buộc phải nhảy dù xuống một hòn núi gần tỉnh lị
Cao Bằng; hay làm việc với tướng Chennault, tổng tư lệnh không quân Mỹ ở
Trung Quốc năm 1944..v.v.) và dịch thuật. Thời gian hoạt động ở Trung
Quốc, Bác đã dịch những tờ báo TQ sang tiếng Anh


15
Khơng chỉ học về ngơn ngữ mà Bác có ý chí học nhiều kiến thức khác.
Trần Dân Tiên kể lại: Bác tham gia Hội "Nghệ thuật và khoa học" và Hội
"Những người bạn của nghệ thuật". Các hội này mỗi tuần tổ chức những cuộc
đi thăm viện bảo tàng, nhà máy, phịng thí nghiệm, xưởng nghệ thuật, nhà
hát...Có những nhà chun mơn giải thích các vấn đề ấy. Bác vào cả hội "Du
lịch", hội đưa người ta đi thăm nước Pháp, và những nước lân cận với giá tiền
rất rẻ. Nhờ vậy Bác đi thăm nhiều nơi ở Pháp, Ý, Thuỵ Sĩ, Đức và cả Tồ
thánh Vatican. Bác từng nói với bạn: "Trong những ngày nghỉ, khơng nên tiêu
phí tiền bạc, mất thì giờ ở bãi bể để nhìn những người đàn bà đi tắm, mà nên
đi du lịch, học hỏi được nhiều"[49;9].
Bác có phương pháp tự học riêng của mình. Đó là tranh thủ mọi thời
gian để học, tranh thủ học được nhiều người. Vẫn lời kể của anh bạn thuỷ
thủ: "Vài ngày sau tàu rời bến, có hai hành khách - hai người lính trẻ tuổi

giải ngũ trở về Pháp. Tôi không hiểu tại sao hai anh này đã trở nên bạn thân
của anh Ba. Họ giúp anh nhặt rau và buổi tối họ cho anh mượn những quyển
sách nhỏ, dạy cho anh đọc và viết. Và anh Ba lại dạy họ học quốc ngữ. Và
một người quen anh Ba khi anh đang nghỉ chờ việc ở nhà viên chủ tàu, cho
biết: "anh học tiếng Pháp với cô sen" (cô sen là từ chỉ người phụ nữ giúp
việc gia đình)[49;18].
Đó là cách học kiên trì, bền bỉ, năng động và học thường xuyên. Có
lần nói chuyện với thanh niên, Bác cho biết: Để học được ngoại ngữ Bác
phải kiên trì mỗi ngày học thuộc mười từ, học ở mọi nơi mọi lúc cho kỳ
thuộc, có khi viết các từ đó lên cánh tay để vừa làm vừa nhìn vào đó cho
nhớ. Hơm sau lại học mười từ khác, cứ thế mà tích luỹ dần như ta bỏ tiền tiết
kiệm hàng ngày vào ống. Bằng cách đó dần dần Bác đã học được rất nhiều
ngoại ngữ.


16
Bác tự học một cách kiên trì, chẳng hạn như cách Bác học viết báo.
Tuy Bác có biết tiếng Pháp vì đã được học trong thời gian theo học ở trường
Quốc học Huế nhưng chưa có đủ vốn để viết sách báo. Trần Dân Tiên kể
lại:" Chủ nhiệm báo Dân chúng-cơ quan của đảng Xã hội Pháp-ông Jean
Longuet,cháu ngoại Các-Mác và là nghị viên của Quốc hội Pháp, đã khuyến
khích Bác viết bài và ông sẽ đăng lên báo Dân chúng để làm cho nhân dân
Pháp hiểu rõ những sự bất công xảy ra ở Việt Nam. Bác không đủ tiếng
Pháp để viết, phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay. Ơng
Trường viết giỏi, nhưng khơng muốn ký tên. Nhất là ông Trường không viết
tất cả những điều Bác muốn nói. Vì vậy Bác bắt tay vào việc học làm báo.
Thường lui tới toà báo Dân chúng, Bác đã làm quen với chủ bút tờ báo Đời
sống thợ thuyền. Cũng như ông Longuet, người chủ bút này rất đáng mến.
Ông ta bảo Bác viết tin tức cho tờ báo của ơng. Bác nói thật là mình cịn
kém tiếng Pháp.Người chủ bút nói: "Điều đó khơng ngại, có thế nào anh viết

thế ấy.Tôi sẽ chữa bài của anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài, năm
sáu dịng cũng được". Bắt đầu viết rất khó khăn, tin tức về Việt Nam Bác
không thiếu, thiếu nhất là văn Pháp. Bác viết làm hai bản, gửi cho toà báo
một bản, giữ lại một bản. (Thời đó chưa có photocopy như bây giờ) để đem
so với bài báo đã in, và sửa những chỗ viết sai, kiên nhẫn làm theo cách ấy.
Khi thấy viết đã bớt sai, ông chủ bút bảo Bác: "Bây giờ anh viết dài hơn một
tí, viết độ bảy, tám dòng". Bác viết bảy, tám dòng, dần dần có thể viết cả
một cột báo và có khi dài hơn. Lúc bấy giờ, người chủ bút bạn thân của Bác
khẽ bảo: "Bây giờ anh viết ngắn lại. Viết từng này hoặc từng này dịng
khơng dài hơn". Bác thấy rằng phải rút ngắn cũng khổ như trước kia phải
kéo dài. Nhưng cũng hết sức cố gắng. Và Bác thành cơng, bắt đầu vào làng
báo từ đó" [49;13].


17
Một điều cần học Bác là tự học một cách tồn diện. Ngồi học viết
báo, Bác cịn tích luỹ vốn ngôn ngữ và văn học nữa, nên đã tranh thủ đọc các
sách của những nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch nổi tiếng: Shakespeare,
Dickens bằng tiếng Anh; Lỗ Tấn bằng tiếng Trung; Hugo, Zola, Anatole
France, Léon Tolstoi bằng tiếng Pháp. Bác đã viết cuốn sách "Bản án chế độ
thực dân Pháp" gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong sách
của người Pháp viết có ở thư viện quốc gia và hăng hái viết vở kịch "Rồng
tre" bằng tiếng Pháp nhân dịp Khải Định sang Pháp dự triển lãm thuộc địa.
Vở kịch bị chính phủ Pháp cấm, nhưng Câu lạc bộ ngoại ô Paris đã đem
diễn, được các nhà phê bình văn nghệ khen hay.
Ta cịn phải học Bác ở tinh thần vượt gian khổ để học tập. Thời gian
Bác sống ở Paris, rất cực khổ. Bác thuê phòng trọ nhỏ trong một khách sạn
rẻ tiền, mỗi buổi mai nấu cơm trong một cái sanh nhỏ đặt trên ngọn đèn dầu.
Cơm ăn với một con cá mắm hoặc một ít thịt, ăn một nửa còn một nửa giành
đến chiều. Có khi một miếng bánh mì với một miếng phó-mát là đủ ăn cả

ngày. Mùa đông lạnh, buổi sáng trước khi đi làm, Bác để một viên gạch vào
lò bếp của khách sạn, chiều về lấy ra, bọc nó vào trong những tờ báo cũ, để
xuống nệm cho đỡ rét. Bác làm nghề rửa ảnh và phóng đại ảnh, do cụ Phan
Chu Trinh dạy nghề cho. Thường thường Bác chỉ làm việc nửa ngày vào
buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều đi đến thư viện hoặc dự những buổi
nói chuyện. Tối đến Bác đi dự những cuộc mít-tinh. Hầu hết những buổi
mít-tinh Bác đều phát biểu ý kiến và khéo lái những vấn đề thảo luận sang
vấn đề thuộc địa. Bác làm quen với những nhà chính trị, nhà văn để nâng
cao trình độ chính trị và văn học của mình [49;22].
Ngày nay thanh niên ta có rất nhiều điều kiện để tự học tốt hơn, nhưng
do thiếu ý chí và thiếu phương pháp tự học nên kết quả tự học chưa cao. Học
tập tấm gương đạo đức của Bác, một trong những điều cần thiết đối với


18
thanh niên, học sinh, sinh viên là cần tự học tốt, nâng cao trình độ cho mình
để có điều kiện phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được tốt hơn và bản
thân ngày càng thành đạt.
1.2. Cơ sở lý luận của việc nâng cao năng lực tự học
1.2.1. Bản chất, vai trị, ngun tắc của q trình tự học
1.2.1.1. Bản chất của quá trình tự học
Về bản chất, quá trình học tập của sinh viên ở các trường đại học là q
trình nhận thức có tính chất nghiên cứu [20;3].
Trong quá trình tự học, mỗi sinh viên tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri
thức, kĩ năng, phải nắm vững những cơ sở của nghề nghiệp tương lai và có
tiềm năng vươn lên thích ứng những yêu cầu trước mắt và lâu dài do thực tiễn
xã hội đặt ra, muốn vậy khi tiến hành hoạt động học tập, sinh viên khơng chỉ
có năng lực nhận thức thơng thường mà cần tiến hành hoạt động nhận thức
mang tính nghiên cứu trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, phát triển ở mức độ
cao. Điều đó có nghĩa là dưới vai trị chủ đạo của thầy, sinh viên khơng nhận

thức một cách máy móc có sẵn mà cịn đào sâu mở rộng kiến thức.
Mỗi chúng ta đều nhận thấy rằng, muốn làm tốt một việc gì đó, dù nhỏ,
đơn giản cũng cần có sự phấn đấu nỗ lực của bản thân. Việc học tập của sinh
viên cũng vậy, họ sẽ trở thành cái máy ghi âm lời thầy cô và cũng nhanh chóng
qn đi những gì đã học nếu khơng làm cho nó có ích và biến những tri thức ấy
thành thực sự của mình. Cơng việc tự học sẽ đáp ứng được yêu cầu này.
Thực chất tự học là một q trình học tập, một q trình nhận thức
khơng trực tiếp có thầy giáo, đó là “lao động khoa học”, vất vả hơn q trình
học có thầy rất nhiều vì người học phải xây dựng cho mình cách học và sử
dụng hợp lý các điều kiện, hình thức, phương tiện học tập để đạt được kết quả
như mong muốn. Có thể nói bản chất của việc tự học của sinh viên đại học là


19
q trình nhận thức một cách tự giác, tích cực, tự lực khơng có sự tham gia
trực tiếp của giáo viên, nhằm đạt được mục đích nhiệm vụ dạy học”[20;11].
Tự học vừa mang ý nghĩa củng cố trau dồi kiến thức, vừa có ý nghĩa
mở rộng hiểu biết, tự học có nghĩa là sinh viên phải độc lập, tự xây dựng kế
hoạch, phương pháp học tập cho mình, tự năng động tìm tịi, phân tích những
sách vở, tài liệu tiến tới làm chủ tri thức kĩ năng kĩ xảo.
Bản chất của q trình tự học là khơng có sự hướng dẫn của giáo viên,
nên tất yếu đòi hỏi sự nỗ lực, tích cực hóa hoạt động nhận thức của sinh viên,
sự tự kiềm chế với những ảnh hưởng ngoại cảnh hay những ước muốn không
hợp lẽ trong tư tưởng là điều kiện cần thiết đối với quá trình tự học. Nếu thiếu
sự kiên trì, những yêu cầu cao, sự nghiêm túc của bản thân thì sinh viên
khơng thể thực hiện được kế hoạch học tập do chính mình đặt ra.
Đây cũng là điều kiện giúp sinh viên từng bước nâng cao chất lượng
học tập, bản thân và các trường đại học cũng sẽ nâng cao được chất lượng đào
tạo, hoàn thành mục tiêu giáo dục nếu tổ chức có hiệu quả cơng việc tự học
cho sinh viên.

1.2.1.2. Vai trị của việc tự học
Trong bất cứ quá trình dạy học nào, nhất là quá trình dạy học ở đại học
và cao đẳng, giảng viên ln giữ một vai trị quan trọng đặc biệt. Đó là sự tổ
chức, điều khiển, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động học tập của sinh viên. Nhưng
thực tế cho thấy rằng, dù giảng viên có kiến thức uyên thâm, sâu rộng đến
đâu, PPDH hay đến mấy mà sinh viên khơng chịu khó học hỏi, đầu tư thời
gian suy nghĩ, nghiên cứu, khơng có sự lao động của cá nhân, khơng có niềm
khao khát với tri thức, say mê học tập, khơng có kế hoạch và phương pháp
học tập hợp lý, v.v.. thì việc học tập khơng đạt kết quả cao được.


20
Vì vậy, có thể khẳng định hoạt động tự học ln giữ một vị trí, vai trị
rất quan trọng trong quá trình học tập của sinh viên, là yếu tố quyết định chất
lượng và hiệu quả đào tạo của nhà trường.
Nhiều sinh viên đã thành công khi biết phối kết hợp khoa học giữa thời
gian học ở trên lớp với thời gian tự học ở nhà. Nếu sinh viên nào cũng vận
dụng được như thế thì chắc chắn chất lượng giáo dục của chúng ta sẽ tốt lên
nhanh chóng. Hơn nữa học ở cao đẳng, đại học đòi hỏi sinh viên phải tiếp thu
một lượng kiến thức lớn và khó, cho nên ngoài thời gian học trên lớp sinh
viên phải tự học, tự nghiên cứu để mở rộng và đào sâu tri thức qua đó làm
giàu vốn hiểu biết và nâng cao hiệu quả học tập cũng như nghề nghiệp của
mình trong tương lai.
Tự học giúp sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp
trong tương lai. Trong quá trình tự học, sinh viên đã từng biến vốn kinh
nghiệm của loài người thành vốn tri thức riêng của bản thân. Hoạt động tự
học đã tạo điều kiện cho sinh viên hiểu sâu tri thức, mở rộng kiến thức, củng
cố, ghi nhớ vững chắc tri thức, biết vận dụng tri thức vào giải quyết các nhiệm
vụ học tập mới.
Tự học không những giúp sinh viên không ngừng nâng cao chất lượng

và hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà cịn giúp họ có được
hứng thú, thói quen và phương pháp tự thường xuyên để làm phong phú thêm,
hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của mình. Giúp họ tránh được sự lạc hậu trước
sự biến đổi không ngừng của khoa học và công nghệ trong thời đại ngày nay.
Tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ giúp sinh
viên mở rộng đào sâu kiến thức, hiểu thêm về thế giới, con người xung quanh
mà cịn giúp sinh viên hình thành được các giá trị đạo đức, tinh thần, thẩm mỹ
tạo nên bản sắc tồn tại của loài người, vừa kế thừa, phát triển những giá trị
truyền thống, vùa sáng tạo những giá trị mới. Tạo cho họ có nếp sống và làm


21
việc khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, hứng
thú học tập và lịng say mê nghiên cứu khoa học.
Chính ý chí và năng lực tự học sẽ khơi dậy được ở sinh viên tiềm năng
to lớn vốn có của họ, tạo nên động lực nội sinh của quá trình học tập, giúp họ
vượt lên mọi khó khăn, trở ngại để chiếm lĩnh nội dung học vấn.
Nhưng để việc "dạy có hiệu quả" nhất thiết phải được đánh giá từ việc
"học có hiệu quả". Việc dạy phải dẫn đến việc học của người học có chất
lượng cao hơn. Phải làm thay đổi cách hiểu, cách sống, cách lao động của
người học. Dạy học không phải là chất đầy vào một cái thùng rỗng mà chính
là thổi bùng lên ngọn lửa trí tuệ, ngọn lửa của sự say mê học tập để hình thành
năng lực và thói quen học tập. Để bảo đảm những cánh cửa của học tập, bao
gồm cả học tập chính quy và khơng chính quy, khơng bao giờ khép lại đối với
mọi người, ngoài việc chú ý tạo ra các tác động ngoại lực, điều quan trọng
hơn là giáo dục phải tác động vào nội lực tạo ra được động cơ học, nhu cầu
học, hứng thú học ở người học để họ có thể học tập suốt đời với thói quen tự
học. Chỉ bằng cách đó, người học mới có thể tiếp tục thu nhận, xử lý thông tin
do xã hội, do cuộc sống cung cấp trong suốt cuộc đời mình bằng phương pháp
tự học. Dạy là khởi động quá trình tự học.

Tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa là hạ thấp vai trò của giảng
viên và tập thể cán bộ công nhân viên trong nhà trường. Các lực lượng này có
tác dụng lớn trong việc động viên khuyến khích hướng dẫn sinh viên tự học
một cách đúng hướng và hiệu quả. Mỗi thầy cô giáo cần dạy các em cách tự
học, tự đào sâu kiến thúc đã học, cách học với thầy, với bè bạn. Đó là vấn đề
truyền đạt những phương pháp để lĩnh hội và làm phong phú kiến thức. Muốn
làm được điều đó “Mỗi thầy giáo cô giáo phải là tấm gương sáng về tự học, tự
sáng tạo". Tận dụng tối đa các điều kiện để học mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn
cảnh, mọi phương tiện và học với mọi người.


22
Như vậy, qua thực tế nghiên cứu chúng tơi có thể khẳng định, hoạt
động tự học, năng lực tự học ln có một vai trị quan trọng trong q trình
học tập của sinh viên. Quá trình này giúp cho sinh viên nắm vững tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo nghề nghiệp trong tương lai. Trong quá trình tự học, sinh viên
từng bước biến vốn kinh nghiệm của loài người thành vốn tri thức riêng của
bản thân, tạo điều kiện cho sinh viên hiểu sâu tri thức, mở rộng kiến thức,
củng cố ghi nhớ vững chắc tri thức, biết vận dụng tri thức đã học, đã nghiên
cứu vào giải quyết các nhiệm vụ học tập mới.
Để hiểu rõ bản chất vấn đề, chúng tôi tiến hành điều tra nhận thức của
sinh viên về tầm quan trọng của tự học ở bậc đại học, cao đẳng:
Bảng 1.1 Tầm quan trọng của tự học ở Đại học, Cao đẳng
Tầm quan trọng

SL (SV)

Tỷ lệ (%)

a. Rất cần thiết


84

70

b. Cần thiết

36

30

c. Thế nào cũng được

0

0

d. Không cần thiết

0

0

(Nguồn tác giả điều tra, khảo sát khi thực hiện đề tài)
Qua bảng số liệu thống kê cho ta thấy: Đa số sinh viên đều nhận thức

được tầm quan trọng của tự học ở đại học, cao đẳng. Không có một sự lựa
chọn nào ở ý (c) và ý (d). 70 % số sinh viên được khảo sát chọn ý (a): Rất cần
thiết và 30 % chọn (b): Cần thiết. Giữa sinh viên các khoa đều khơng có nét
khác biệt nào khi nhận thức tầm quan trọng của tự học ở đại học, cao đẳng.



23
1.2.1.3. Nguyên tắc đảm bảo việc tự học
Một vấn đề có tính khoa học bao giờ cũng được xây dựng trên những
cơ sở nguyên tắc nhất định, việc tự học muốn đảm bảo tốt cần tuân thủ những
nguyên tắc sau:
- Đảm bảo tính tự giáo dục
Trong thực tế q trình giáo dục ln chứa đựng q trình giáo dưỡng,
do vậy mà tong cơng tác tự học của sinh viên, ngồi việc củng cố những tri
thức cũ, lĩnh hội những tri thức mới, mở rộng hiểu biết, người sinh viên cần
biết tự hồn thiện nhân cách của mình sao cho ngày càng gần với những phẩm
chất cao quý của thầy cô giáo.
- Đảm bảo tính khoa học trong q trình tự học
Bản thân quá trình tự học của sinh viên cũng là một q trình lao động
khoa học hết sức khó khăn, do vậy phải địi hỏi có tính khoa học, việc đảm
bảo được tính khoa học trong cơng tác tự học sẽ đảm bảo được tính tự giáo
dục, kích thích hứng thú học tập dẫn đến kết quả như mong muốn.
- Đảm bảo "học đi đôi với hành"
Đây là một cặp phạm trù có quan hệ biện chứng với nhau, tự học và
nghiên cứu khoa học khơng chỉ có củng cố mở rộng kiến thức thông thường
mà quan trọng hơn là đưa những kiến thức ấy vào cuộc sống, cọ xát với thực
tế để thu được những kinh nghiệm thực tế sống động, bổ ích, từ đó giúp cho
sinh viên trong những điều kiện quen thuộc cũng như mới mẻ đều có thể vận
dụng linh hoạt, sáng tạo những gì họ đã tiếp thu và lĩnh hội được.
- Nâng cao dần đến mức tự giác, tích cực trong q trình tự học
Nguyên tắc này sẽ trực tiếp tác động đến kết quả học tập của sinh viên, kế
hoạch tự học có được thực hiện thành cơng hay khơng là do yếu tố tự giác tích
cực quyết định.
- Đảm bảo nâng cao dần và củng cố kĩ năng kĩ xảo



24
Q trình tự học khơng chỉ đơn thuần là q trình tự hình thành tri thức,
mà nó cịn là q trình hoạt động thực tiễn, nâng cao, củng cố kĩ năng kĩ xảo.
Trên đây là 5 nguyên tắc cơ bản đảm bảo hiệu quả cho quá trình tự học và
nghiên cứu khoa học của sinh viên, năm nguyên tắc này có quan hệ gắn bó với
nhau, nguyên tắc này hỗ trợ cho nguyên tắc kia và đều nhằm mục đích đảm bảo
tính tự giáo dục, tự đào tạo và nghiên cứu khoa học theo mục tiêu giáo dục của
trường đại học. Trong thực tiễn tự học của bản thân, mỗi sinh viên cần kết hợp
khéo léo và khoa học nhũng nguyên tắc trên, hạn chế mức thấp nhất yếu tố ngoại
cảnh khơng có lợi cho việc tự học.
1.2.2. Đặc trưng của hoạt động học tập ở các trường đại học
Hoạt động học tập ở đại học, cao đẳng khác với hoạt động này ở phổ
thơng cả về nội dung, tính chất và hình thức. Nội dung chương trình chủ yếu
bao gồm các kiến thức cơ bản, hệ thống các phương pháp, những kỹ năng, kỹ
xảo cần thiết trong hoạt động nghề nghiệp[1;12]. Các hình thức học tập tương
đối đa dạng như: SV tham gia giờ học lý thuyết trên giảng đường, tham gia
làm thực hành mơn học ở các phịng thực nghiệm, thực hành, thực tập môn
học (rèn nghề), tham gia nghiên cứu khoa học, tham gia các diễn đàn, hội thảo
khoa học, tự học ở thư viện… Song hình thức chủ yếu là SV tham gia các giờ
học lý thuyết trên giảng đường, các giờ học thực hành môn học, thực tập mơn
học (rèn nghề). Các hình thức này đảm bảo cung cấp những hệ thống kiến
thức cơ bản, giúp SV làm quen với những phương pháp làm việc, kỹ năng, kỹ
xảo cần thiết của một người chuyên gia. Trong các hình thức đó, GV đóng vai
trị là người cố vấn, định hướng quá trình lĩnh hội, tiếp thu kiến thức của SV.
Phong cách giảng dạy của giáo viên ở các trường cao đẳng, đại học rất khác
nhau. Có những người chỉ trình bày những nội dung chính, đặt ra những gợi ý
để SV tự tìm hiều, khám phá, một số người khác chỉ đề cập đến những kiến
thức họ tâm đắc, nhưng khơng có trong giáo trình, trong các tài liệu có tính



25
chất phổ biến, trong khi đó, vẫn cịn những giáo viên giảng dạy theo phương
pháp truyền thống là thuyết trình các nội dung trong giáo trình, nhưng với tốc
độ nhanh, khơng ghi đầy đủ các ý chính lên bảng như giáo viên phổ thông…
Hơn nữa, tài liệu học tập ở đại học không ngừng thay đổi, địa điểm học cũng
thường xuyên thay đổi. Tất cả những điều kiện học tập như vậy đòi hỏi những
SV mới nhập học ở các bậc học này phải có khả năng thích nghi rất lớn. Đồng
thời, trong suốt q trình học, họ phải có tính tự giác, tính kế hoạch cao. Thực
tế cho thấy, trong thời gian đầu mới vào trường, thậm chí trong cả quá trình
học ở cao đẳng, đại học, nhiều SV gặp khơng ít khó khăn trong việc học tập.
Khác với học sinh phổ thông, bên cạnh hoạt động chủ đạo là học tập,
lĩnh hội tri thức của thầy, người sinh viên cịn phải có nhiệm vụ tự học, tự
nghiên cứu trên cơ sở tư duy độc lập. Về bản chất, quá trình học tập của sinh
viên ở bậc đại học là q trình nhận thức có tính nghiên cứu. Điều này đã
được thể chế hóa trong Luật giáo dục như sau: “Phương pháp giáo dục đại
học phải coi trọng bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện
cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham
gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”[1;12].
Do vậy, dù ở phương thức đào tạo đại học nào, người sinh viên cũng cần
phải có năng lực tự học, hay nói cách khác: “tự học là cách học ở bậc đại học”.
Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương của đổi mới giáo dục đại học,
nhiều trường đại học đã và đang triển khai mơ hình đào tạo theo học chế tín
chỉ. Phương thức đào tạo này coi trọng vai trò trung tâm của sinh viên, tạo cho
sinh viên năng lực chủ động, sáng tạo trong phương pháp học của mình.
Qua quá trình khảo sát thực tiễn, đa số sinh viên đều hiểu được vai trò
quan trọng của tự học. Tuy nhiên, sức ì và tính thụ động của sinh viên còn rất
lớn. Hoạt động tự học vẫn cịn mang tính hình thức, đối phó với các bài kiểm
tra. Theo số liệu khảo sát của sinh viên một số trường đại học, hầu hết các



×