Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

Nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi khuất quang thuỵ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.39 KB, 127 trang )

1

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh

Phan Thị hồng diệu

Nghệ thuật trần thuật
trong văn xuôi khuất quang thụy

luận văn thạc sĩ ngữ văn

Vinh - 2008
LI CM N
hon thành luận văn, ngoài sự nỗ lực của bản thân tơi đã
nhận được sự giúp đỡ chu đáo, nhiệt tình của thầy giáo, cô giáo trong
Khoa Ngữ văn, Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Vinh, của gia
đình, bạn bè và đặc biệt là cô giáo - PGS. TS. Tôn Phương Lan.


2
Nhân dịp này, cho phép tơi bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến cô
giáo Tôn Phương Lan - người đã tận tình hướng dẫn tơi hồn thành
luận văn này cùng các thầy, cơ giáo, gia đình, bạn bè.
Vinh, tháng 12 năm 2008
Tác giả
Phan Thị Hồng Diệu
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1. Trong nửa sau thế kỷ XX văn học viết về chiến tranh là một dòng
chủ lực trong nền văn học dân tộc. Khi đất nước đặt trước thử thách “Tổ Quốc


hay là chết” và các nhà văn cách mạng đều đặt trách nhiệm công dân lên cao
nhất, thì mặc dù cịn những hạn chế nhất định nhưng nền văn học viết về
chiến tranh trong chiến tranh vẫn đạt được những thành tựu lớn với những
gương mặt sáng giá trên văn đàn Việt Nam. Sau chiến tranh, dòng văn học
viết về chiến tranh vẫn được tiếp tục với những thành tựu mới và sự thay đổi
thế hệ, thay đổi cách nhìn như một tất yếu của quy luật vận động của văn học.
2. Khuất Quang Thụy - thuộc thế hệ những nhà văn lớn và trưởng thành
từ chiến hào. Ngay khi mới xuất hiện với tiểu thuyết đầu tay Trong cơn gió
lốc ơng đã được chú ý bởi sự đóng góp kịp thời vào nền văn học viết về chiến
tranh ngay sau chiến tranh. Một tác phẩm khá đặc sắc dường như cịn mang
hơi thở nóng hổi về trận chiến đấu cuối cùng trong sự nghiệp giải phóng
thống nhất đất nước. Từ bấy đến nay, như một bộ hành cần mẫn và khá lặng
lẽ trên lộ trình văn học của mình sáng tác của ơng vẫn xuất hiện khá đều đặn
trong đời sống văn học với những trải nghiệm của một thời trẻ gian lao nhưng
hào hùng cùng đất nước, những mảng đời thường u ẩn của những năm hậu
chiến khi dân tộc vừa vượt qua một thử thách gay go lại tiếp bước vào một
thời kỳ mới cũng gay go và nhọc nhằn không kém.


3
Đặc biệt, ơng nỗ lực để vừa vượt qua chính những hạn chế do chính
mình là một người từng tham gia chiến trận nên rất dễ bị lệ thuộc vào sự kiện,
con người có thật mà mình gặp, vừa được dùng chính sự hiểu biết về chiến
tranh ở tư cách một nhân chứng để chưng cất dàn dựng và thể hiện một cách
hợp lý hơn yêu cầu của tác phẩm. Sự nỗ lực đó thể hiện trong những bước đi
qua từng tác phẩm. Cuối năm 1989, khi Góc tăm tối cuối cùng ra đời, Báo
Văn nghệ đã tổ chức cuộc toạ đàm về cuốn tiểu thuyết này như một sự ghi
nhận về sự đóng góp vào thời điểm ấy của ông vào nền văn chương nước nhà
đang trên đường đổi mới. Và tiểu thuyết Những bức tường lửa - Giải thưởng
Bộ Quốc phòng và Tặng thưởng Hội nhà văn năm 2005 là một trong những

kết quả xứng đáng với sự nỗ lực đó. Năm 2007, ơng vinh dự được nhận giải
thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Thế nhưng, những bài viết, cơng trình nghiên cứu về sáng tác Khuất
Quang Thụy đến nay chưa nhiều. Các bài nghiên cứu, phê bình mới chỉ dừng
lại ở việc đánh giá những tác phẩm riêng lẻ chứ chưa có được một cái nhìn hệ
thống, tồn diện về sự nghiệp sáng tác văn xi của ông. Cho nên, nghiên cứu
về sáng tác Khuất Quang Thụy hiện còn là một vấn đề “mở” đang rất cần có
những cơng trình khoa học đánh giá một cách đầy đủ tồn diện về những cách
tân và đóng góp của ông trong sáng tác văn học. Nhất là thời gian trôi đi, thế
hệ những nhà văn trưởng thành trong chiến tranh đang trở thành hội viên Hội
những người… cao tuổi.
3. Khảo sát văn xuôi Khuất Quang Thụy và tiếp cận vào hệ thống cấu
trúc văn bản, chúng tôi nhận thấy nghệ thuật trần thuật là một trong những
phương diện cơ bản tạo nên sức hấp dẫn trên trang văn của ông. Nghệ thuật
trần thuật trong văn xuôi Khuất Quang Thụy là một trong những yếu tố quan
trọng trong phương thức biểu hiện đồng thời cũng là yếu tố căn bản tạo nên cá
tính sáng tạo của nhà văn. Đó cũng chính là phương diện mà Khuất Quang
Thụy chứng tỏ được năng lực, tâm huyết của mình. Bởi vậy, việc nghiên cứu
nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi Khuất Quang Thụy là một việc làm cần


4
thiết để tiếp cận và đánh giá một trong số các tác giả có những đóng góp cho
văn học Việt Nam đương đại, đặc biệt là mảng văn xuôi viết về chiến tranh.
4. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi thiết nghĩ sẽ rất cần thiết đối với
việc giảng dạy các tác phẩm văn xi đương đại nói chung và tác phẩm viết
về chiến tranh nói riêng trong nhà trường.
Với những cơ sở thực tiễn trên, chúng tôi mạnh dạn đi sâu tìm hiểu đề
tài “Nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi Khuất Quang Thụy”. Mong
rằng với những kết quả đạt được luận văn sẽ có cái nhìn khái qt, hệ thống

về những cách tân, đóng góp của văn xi Khuất Quang Thụy nhất là ở
phương diện nghệ thuật trần thuật đối với q trình đổi mới văn xi đương
đại, đồng thời thấy được xu hướng vận động chung của văn xuôi Việt Nam
sau 1975.
2. Lịch sử vấn đề
Khuất Quang Thụy là cây bút văn xuôi đặc sắc và đa dạng xuất hiện
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Trong q trình sáng tác, ơng đã
gặt hái được nhiều thành công nhất là trong giai đoạn văn học Việt Nam từ
sau thời kỳ những năm tám mươi. Với năng lực và tâm huyết của mình ơng đã
có những đóng góp nhất định cho q trình đổi mới văn học Việt Nam sau
1975.
Tuy vậy, cho đến nay, các bài nghiên cứu phê bình và sáng tác của ơng
cịn rất ít ỏi, tựu trung ở những bài viết về các tác phẩm cụ thể với nhiều vấn
đề được đặt ra như nhan đề, nhân vật, kết cấu… Các bài viết mới chỉ dừng lại
ở những tác phẩm riêng lẻ tìm hiểu về những đổi mới trong tác phẩm chứ
chưa có cái nhìn hệ thống, tồn diện về sự nghiệp sáng tác Khuất Quang
Thụy, đặc biệt về phương diện nghệ thuật trần thuật hầu như chưa có tác giả
nào đặt ra có hệ thống.
Với những tài liệu có được chúng tơi tạm chia ra các hướng nghiên cứu
về sáng tác Khuất Quang Thụy như sau. Nhóm 1, bao gồm các bài viết, bài
nghiên cứu phê bình mang tính chất tương đối quy mô về các tác phẩm cụ thể


5
được đăng tải trên các báo, tạp chí như báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ Qn
đội…, các bài cơng bố trong các cuộc hội thảo lớn.
Ngay từ khi tiểu thuyết Trong cơn gió lốc vừa mới ra đời Từ Sơn có bài
viết “Trong cơn gió lốc - tiểu thuyết đầu tay của Khuất Quang Thụy”. Bài báo
đã có cái nhìn khái qt, khá tồn diện về những thành cơng và hạn chế của
ngòi bút nhà văn. Tác giả đi khá cặn kẽ vào văn bản tác phẩm để nhận thấy

“nhà văn đã phát huy khá triệt để cái thuận lợi cơ bản của mình. Anh bám rất
chắc các sự kiện có thật đồng thời biết chọn cách thể hiện giàu cảm xúc”. Để
từ đó “khắc hoạ tương đối cụ thể một số chân dung và tính cách của hàng loạt
nhân vật ở cả hai phía ta và địch”.
Tựu trung lại, tác giả bài viết đã khẳng định thành công của tiểu thuyết
Trong cơn gió lốc: “Tiểu thuyết đã làm sống lại trong lòng người đọc một
chiến dịch lịch sử dẫn tới đại thắng mùa xuân 1975 với cái hào hùng, với khí
thế và quy mơ hùng vĩ, với tầm cỡ chiến thắng lớn lao của nó” [72; 117].
Với tiểu thuyết Góc tăm tối cuối cùng, Hồng Diệu có bài viết trên báo
Văn nghệ Quân đội số 4 năm 1989. Tác giả bài viết đã nhận ra vấn đề quan
tâm mới mẻ của cuốn tiểu thuyết là vấn đề số phận con người bình thường và
để thể hiện được vấn đề nổi bật đó tác giả đã chỉ ra cấu trúc tiểu thuyết là sự
kết hợp giữa trục chính là số phận ơng Dần bên cạnh đó, là những tình tiết
phụ “được gắn khá nhuần nhuyễn với trục chính” tạo nên cấu trúc hồn chỉnh.
Ngồi ra, tác giả cịn bàn về các vấn đề như ngơn ngữ, tính triết lý của
tác phẩm, vấn đề kết thúc tiểu thuyết. Cuối cùng, Hồng Diệu nêu ra nhận định
khái quát: “Có thể khẳng định rằng Góc tăm tối cuối cùng lại một lần nữa cho
tôi cảm giác văn xuôi chúng ta mấy năm nay khởi sắc rõ rệt. Đi thật sâu vào
tâm tư, tình cảm vào niềm vui, nỗi đau của con người theo chủ nghĩa nhân
văn hay nói như Khuất Quang Thụy phấn đấu để thực hiện ”sự thật về con
người” là một hướng đi đúng” [12; 121].
Từ Sơn trong bài viết “Tản mạn về tiểu thuyết Khơng phải trị đùa” đã
đặt ra nhiều vấn đề như nhan đề tiểu thuyết, vấn đề đối thoại trong tác phẩm
đặc biệt, tác giả đi sâu tìm hiểu nghệ thuật phân tích các nhân vật như Tuấn,


6
Tình, vợ chồng Nhường, vợ chồng Bảo - Thư. Từ đó, tác giả bài báo đi đến
kết luận “Cuốn tiểu thuyết mới này, anh (Khuất Quang Thụy) đã gợi ra được
những cách nhìn mới về chiến tranh và người lính phong phú hơn, đa dạng

hơn. Điều quan trọng ở Khuất Quang Thụy là anh có cái nhìn nhân hậu và đầy
niềm tin vào con người vào cái tốt đẹp của cuộc đời” [73; 120].
Với bài viết “Những bức tường lửa và sự đổi mới tiểu thuyết sử thi”
Nguyễn Thanh Tú đặt tác phẩm trong sự đối sánh với tiểu thuyết sử thi 1945 1975 để nhận ra những đổi mới của Khuất Quang Thụy trong nghệ thuật viết
tiểu thuyết sử thi. Đó cũng chính là những đóng góp của Khuất Quang Thụy
trong bối cảnh văn xuôi sau 1975.
Tác giả bài báo lần lượt đi tìm hiểu đối sánh các vấn đề như: Nghệ
thuật thể hiện nhân vật, sự cách tân về kết cấu tác phẩm, vận dụng thành công
thủ pháp đồng hiện, đặc biệt là vấn đề thay đổi điểm nhìn - trao cái nhìn cho
nhân vật tạo nên sự dịch chuyển luân phiên điểm nhìn trần thuật mang lại cái
nhìn đa diện, nhiều chiều. “Các điểm nhìn được dịch chuyển và luân phiên
một cách thông minh đã tạo ra cái nhìn nhiều chiều. Cùng một sự kiện nhưng
được soi chiếu ở nhiều góc độ để phân tích, lật xới, chiêm nghiệm, cật vấn…
Nhờ thế đã góp phần tạo cho tiểu thuyết có một chiều sâu cần thiết” [104; 99].
Cùng viết về tiểu thuyết Những bức tường lửa - Nguyễn Chí Hoan
trong bài viết “Về người anh hùng, về chiến tranh và về đồng đội hay "nỗi
buồn chiến tranh"khác nhân đọc Những bức tường lửa của Khuất Quang
Thụy” lại đi sâu bình luận, luận chứng vấn đề người anh hùng, cảm hứng anh
hùng. Tác giả khẳng định: “chúng tôi thấy trong số các tác phẩm văn chương
về chiến tranh những năm gần đây tiểu thuyết Những bức tường lửa của tác
giả Khuất Quang Thụy là một tác phẩm hiếm hoi đã đưa người anh hùng vào
tâm điểm khảo sát hơn nữa, đã tái hiện cả một lớp các nhân vật anh hùng và
đưa cảm hứng anh hùng vào luận đề về chiến tranh và đồng đội” [52; 264].
Ngoài những bài trên, cịn có rất nhiều bài tập trung vào những tác
phẩm gây được tiếng vang như Góc tăm tối cuối cùng, Những bức tường
lửa… phần lớn các nhận định của nhiều nhà phê bình, nghiên cứu cho rằng


7
với những sáng tác tiêu biểu có giá trị đều có hướng tiếp cận mới, tạo nên

những đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà trong công cuộc đổi mới.
Góc tăm tối cuối cùng là cuốn gây được sự chú ý lớn đối với người đọc
trong sáng tác Khuất Quang Thụy. Báo Văn nghệ số 11 năm 1990 đã ghi lại
cuộc toạ đàm về tác phẩm này, trong đó bao gồm rất nhiều ý kiến của các nhà
văn, nhà nghiên cứu như Kim Lân, Phan Hồng Giang, Cao Tiến Lê… và ý
kiến của chính nhà văn nói về tác phẩm của mình. Đây là cuộc toạ đàm trao
đổi rất sơi nổi, có nhiều ý kiến phát hiện về những đổi mới của tiểu thuyết.
Tựu trung, đều khẳng định “trong bối cảnh lúc bấy giờ, tác phẩm đã có những
đổi mới đáng kể góp phần khẳng định văn học nước nhà mấy năm trở lại đây
đã thực sự khởi sắc” [69; 12].
Tháng 12 năm 2005, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân phối hợp cùng
Thư viện Quân đội đã tổ chức cuộc toạ đàm giới thiệu cuốn tiểu thuyết
Những bức tường lửa đạt giải A - Giải thưởng 5 năm Bộ Quốc phòng và Tặng
thưởng văn học của Hội Nhà văn. Trong buổi toạ đàm bạn đọc, đặc biệt là
nhiều cựu chiến binh đã có những phân tích cụ thể vào từng chi tiết, nhân vật
tâm đắc, khen và chỉ ra những thiếu sót. Buổi toạ đàm diễn ra trong khơng khí
dân chủ nên đã có nhiều ý kiến sắc sảo, quý báu.
Với các bài viết trên, mặc dù, các tác giả đã cố gắng có cái nhìn khái
qt về từng tác phẩm cụ thể với nhiều đổi mới, cách tân của sáng tác Khuất
Quang Thụy nhưng không tránh khỏi cái nhìn có phần chủ quan và thường
thiên về nội dung tư tưởng.
Nhóm 2. Các ý kiến nhận định đánh giá về sáng tác Khuất Quang Thụy
trong các bài nghiên cứu tổng quan văn học Việt Nam sau 1975 về khuynh
hướng sáng tác, sự vận động thể loại…Đây là những ý kiến mang tính chất
khái quát, các nhà nghiên cứu mới chỉ đề cập đến những sáng tạo mới mẻ,
những đóng góp chủ yếu của sáng tác Khuất Quang Thụy chứ chưa có được
luận chứng cụ thể rõ ràng. Tuy nhiên, đó lại là những gợi mở có giá trị q
báu cho chúng tơi trong q trình thực hiện đề tài này.



8
Bích Thu trong bài: “Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi
mới” đã viết “Trong sự vận hành chung của thể loại, nhìn lại những năm tiền
đổi mới (75 - 85) không thể không ghi nhận sự xuất hiện của một loạt tiểu
thuyết gây tiếng vang một thời như những tín hiệu mở đầu thời kỳ mới trong
sáng tạo và tiếp nhận văn chương hiện đại. Từ Đất trắng (Nguyễn Trọng
Oánh), Năm 75 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Hn), Trong cơn gió lốc
(Khuất Quang Thụy) đến Đứng trước biển, Cù lao tràm (Nguyễn Mạnh
Tuấn), Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người (Nguyễn Khải)… đã là minh
chứng cho sự chuyển đổi tư duy sáng tạo và quan niệm nghệ thuật của nhà
văn. Những tác phẩm kể trên là những khởi động ngõ hầu đưa tới sự đổi mới
triệt để và quyết liệt hơn trong cách nhìn hiện thực và thi pháp thể loại"
[88; 75].
Về tác phẩm Góc tăm tối cuối cùng, có nhiều nhận định đánh giá khái
quát với sự đổi mới tiểu thuyết trên nhiều mặt. Tôn Phương Lan trong bài
“Một vài suy nghĩ về con người trong văn xuôi thời kỳ đổi mới” đã viết: “Đổi
mới quan niệm nghệ thuật về con người. Con người của đời thường cũng trở
thành một đối tượng dành được sự chú ý của nhiều nhà văn. Góc tăm tối cuối
cùng đã thể hiện một con người chuyên trơng coi nhà xác. Ngịi bút anh đã
trân trọng trong cách xử lý tình huống để làm bật lên hình ảnh một con người
bình thường bị hồn cảnh truy bức đến cùng nhưng tư tưởng vẫn toát lên vẻ
đẹp thánh thiện" [48; 45].
Cùng chung ý kiến với Tôn Phương Lan, Bích Thu cũng nhận ra trong
tiểu thuyết Góc tăm tối cuối cùng có sự chuyển đổi điểm nhìn của nhà văn
hướng đến đời sống tâm hồn con người, khơi sâu vào cõi tâm linh, vô thức
của con người, khai thác “con người bên trong con người”. Bởi vậy, tác phẩm
có cái nhìn về con người đa chiều hơn.
Ngồi ra, các nhà nghiên cứu cũng nhận ra trong tác phẩm Góc tăm tối
cuối cùng những biểu hiện của sự sáng tạo trong việc đi sâu vào đời sống tâm
hồn con người, đời sống tâm linh tạo nên những đổi mới trong thi pháp thể

loại tiểu thuyết. Tiêu biểu ý kiến của Lý Hoài Thu: Những tác phẩm kết cấu


9
theo quy luật tâm lý (dòng hồi tưởng và ký ức, tư tưởng nhân vật) trở nên linh
hoạt, sáng tạo hơn như Ăn mày dĩ vãng, Góc tăm tối cuối cùng…
Trần Mai Nhân trong bài viết “Quan niệm về tiểu thuyết trong văn học
Việt Nam giai đoạn 1986 – 2000”, khi tìm hiểu “cách tiếp cận và tái hiện hiện
thực chiến tranh” đã chỉ ra: “Sự đổi mới khác biệt so với trước các nhà văn đã
gia tăng sự chú ý đến việc trình bày “con người trong diễn biến lịch sử”.
Nghĩa là nhà văn miêu tả các biến cố, sự kiện trong đời sống tinh thần, đời tư,
tâm hồn con người. Cái mà họ quan tâm không chỉ chiến tranh xảy ra như thế
nào mà trong và sau chiến tranh, người ta sống như thế nào… Góc tăm tối
cuối cùng dựng lại chiến tranh bằng nước mắt, bằng đau thương, bằng “sự
thật về con người” vừa đi ra khỏi cuộc chiến qua số phận ơng Dần…Vì thế,
chiến tranh hiện lên toàn diện hơn, khách quan hơn” [63; 21].
Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong bài viết “Những biến đổi cấu
trúc thể loại tiểu thuyết sau 1975” nhấn mạnh vấn đề vai trò của ký ức đối với
những thay đổi cấu trúc tiểu thuyết, nó được coi như một thành tố quan trọng
dùng để tổ chức tác phẩm. Ký ức tạo cho tiểu thuyết một cấu trúc kép, tạo nên
những “tiểu thuyết trong tiểu thuyết”. Một cấu trúc kép như thế trong tiểu
thuyết cũng tạo nên những đặc điểm mới của trần thuật (gia tăng tính chủ
quan, phối hợp nhiều giọng kể và điểm nhìn của người kể chuyện ln thay
đổi). Điều này thể hiện rõ trong các tiểu thuyết như Khơng phải trị đùa
(Khuất Quang Thụy), Thân phận tình u (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu
Lai)…
Ngồi hai nhóm bài nghiên cứu trên, cịn có các bài nói chuyện, trao đổi
phỏng vấn của nhà văn Khuất Quang Thụy trên các loại thơng tin đại chúng
như báo hình, báo điện tử… Theo chúng tơi, khi các phóng viên đặt ra những
câu hỏi xung quanh nghề nghiệp, tác phẩm của nhà văn nghĩa là họ cũng đang

đánh giá nhận xét. Mặc dù, phát ngôn cơ bản vẫn là tác giả nhưng sắc màu
phê bình văn học vẫn ẩn chứa trong đó.
Tiêu biểu là bài trả lời phỏng vấn Báo Thể thao Văn hoá của tác giả
nhân dịp Khuất Quang Thụy nhận giải thưởng văn học, nghệ thuật và báo chí


10
đề tài chiến tranh cách mạng lần thứ 3 diễn ra ngày 25/12/2005 tại Nhà hát
lớn Hà Nội. Gần đây, phóng viên Tồn Nguyễn đã có cuộc trao đổi với nhà
văn về đời văn của ông. Trong cuộc trao đổi “Lướt Web nhà văn” này Khuất
Quang Thụy rất cởi mở bộc lộ nhiều suy nghĩ, những ý tưởng sáng tạo trong
cả hai mảng đề tài chiến tranh và nông thôn. Bước sang năm thứ 8 của thế kỉ
XXI, nhà văn khốc áo lính này vẫn thuỷ chung với đề tài chiến tranh cách
mạng. Ông đang viết cuốn Đối chiến hứa hẹn nhiều đổi mới bất ngờ.
Tóm lại, nhóm 1 tập trung những bài viết, những ý kiến đánh giá sát
thực, bộc lộ những cảm nhận sâu sắc của các nhà nghiên cứu đối với sáng tác
Khuất Quang Thụy. Tuy nhiên, các ý kiến chỉ mới dừng lại ở việc bình luận
về một tác phẩm cụ thể. Khi đó, tác phẩm được xem xét ở nhiều góc độ khác
nhau. Chẳng hạn, hội thảo về Góc tăm tối cuối cùng, Những bức tường lửa…
Những ý kiến trong nhóm này có thể nói là những đánh giá tương đối hoàn
chỉnh nhưng mới chỉ khoanh vùng trong phạm vi một tác phẩm cụ thể. Bởi
vậy, nghiên cứu về sáng tác văn xuôi Khuất Quang Thụy cịn thiếu một cái
nhìn mang tính tổng quan, đánh giá tồn diện, hệ thống về những cách tân và
đóng góp của ơng.
Nhóm 2. Các ý kiến nhận định, đánh giá của các nhà nghiên cứu về
những đổi mới, những đóng góp của Khuất Quang Thụy trong sự phát triển
văn học Việt Nam sau 1975. Do các ý kiến đặt trong phạm vi hạn chế những
bài nghiên cứu tổng quan về thời kỳ văn học, sự vận động thể loại nên chưa
có được những luận giải cụ thể, chi tiết. Tuy vậy, đây là những nhận định
tương đối chính xác, sâu sắc. Đặc biệt, những phát hiện của các nhà nghiên

cứu về sự đổi mới bút pháp, thi pháp thể loại của văn xi Khuất Quang Thụy
có tác động đến sự thay đổi cách viết, cách kể, nghệ thuật trần thuật của nhà
văn. Bởi vậy, đây là những gợi dẫn quý báu có ý nghĩa đối với tác giả luận văn.
Bên cạnh đó, các bài nói chuyện, trao đổi của tác giả trên phương tiện
thông tin khá đa dạng, mặc dù, chưa mang tính chuyên sâu nhưng đã là những
ý kiến bổ ích cho chúng tơi có cái nhìn đa chiều toàn diện về những ý tưởng


11
sáng tạo của tác giả từ đó, góp phần bổ sung nhiều phương diện có giá trị cho
chúng tơi trong quá trình thực hiện đề tài.
Như vậy, nhìn đại thể nghiên cứu về sáng tác văn xuôi Khuất Quang
Thụy chưa nhiều và cịn thiếu một cái nhìn tổng quan, một cơng trình quy mơ
mang tính tổng thể, hệ thống. Đặc biệt, vấn đề nghiên cứu nghệ thuật trần
thuật, một phương diện cơ bản biểu hiện sự cách tân mới mẻ, độc đáo trong
văn xi Khuất Quang Thụy chưa có tác giả nào đặt ra một cách cụ thể, hệ thống.
Vì vậy, để có một cái nhìn tồn diện, hệ thống về những giá trị, đóng
góp của nhà văn Khuất Quang Thụy đối với văn học Việt Nam sau 1975
chúng tôi xác định đề tài nghiên cứu: Nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi
Khuất Quang Thụy là một công việc cần thiết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung đi sâu tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi
Khuất Quang Thụy.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi đi sâu khảo sát một số tác phẩm tiêu
biểu của nhà văn viết sau năm 1975, bao gồm: Trong cơn gió lốc (Tiểu thuyết
- 1978); Những trái tim không tàn tật (Truyện - 1978); Người ở bến Phù Vân
(Tập truyện ngắn - 1985); Thềm nắng (Tập truyện ngắn - 1986); Trước
ngưỡng cửa bình minh (Tiểu thuyết - 1986); Góc tăm tối cuối cùng (Tiểu

thuyết - 1989); Khơng phải trị đùa (Tiểu thuyết - 1989); Giữa ba ngôi chúa
(Tiểu thuyết - 1990); Người đẹp xứ Đoài (Truyện vừa - 1992); Nước mắt gỗ
(Tập truyện ngắn - 1996); Những bức tường lửa (Tiểu thuyết - 2004).
Ngoài ra, để làm rõ hơn nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi Khuất
Quang Thụy, chúng tôi mở rộng phạm vi khảo sát tới một số tác phẩm và tác
giả có chung đề tài và cùng thế hệ với ơng đề có sự đối sánh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu, nghiên cứu các biểu hiện của phương thức trần thuật trong
sáng tác văn xuôi Khuất Quang Thụy như điểm nhìn trần thuật, quan điểm


12
trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật. Từ đó, đưa ra những nhận định,
kết luận mang tính khái quát về đặc điểm trần thuật trong văn xuôi Khuất
Quang Thụy.
- Nhận ra sự độc đáo trong nghệ thuật trần thuật văn xi Khuất Quang
Thụy. Từ đó, khẳng định vai trị đóng góp của nhà văn đối với nền văn học
nước nhà, đồng thời thấy được xu hướng vận động của văn xuôi Việt Nam
sau 1975.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng kết hợp linh hoạt nhiều
phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp hệ thống để làm nổi bật một phương diện cơ bản thể
hiện sự cách tân, sáng tạo độc đáo trên trang văn Khuất Quang Thụy - Nghệ
thuật trần thuật cũng như thể hiện chân xác các phương diện biểu hiện của nó.
6. Đóng góp của luận văn
Từ việc khảo sát văn bản tác phẩm và đặt sáng tác Khuất Quang Thụy
trong bối cảnh chung của văn học Việt Nam sau 1975, lần đầu tiên đi sâu
nghiên cứu và chỉ ra những phương diện độc đáo trong nghệ thuật trần thuật
của Khuất Quang Thụy, luận văn khẳng định đóng góp của nhà văn đối với
nền văn học nước nhà, đồng thời cũng cho thấy được xu hướng vận động của

văn xuôi Việt Nam sau 1975 nói chung và văn xi viết về chiến tranh nói
riêng.
7. Cấu trúc luận văn
Ngồi Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của
luận văn được triển khai qua ba chương:
Chương 1. Văn xuôi Khuất Quang Thụy trong bức tranh chung của văn
xuôi Việt Nam sau 1975
Chương 2. Quan điểm trần thuật và nghệ thuật tổ chức điểm nhìn
Chương 3. Giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật.


13


14
Chương 1
VĂN XUÔI KHUẤT QUANG THỤY TRONG BỨC TRANH CHUNG
CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM SAU 1975
1.1. Sự vận động của văn xuôi Việt Nam sau 1975
1.1.1. Đổi mới - một nhu cầu tất yếu của văn học
Với chiến thắng vĩ đại trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân
1975, cuộc kháng chiến chống Mĩ hoàn toàn kết thúc thắng lợi. Nhân dân
bước vào thời kỳ hồ bình xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Cuộc sống của dân tộc và của mỗi gia đình dần dần trở lại với quy luật bình
thường của nó, con người trở lại với muôn mặt đời thường.
Trong niềm vui đất nước thống nhất, cả nước bắt tay hàn gắn vết
thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới. Tuy nhiên, khoảng thời gian
đầu của thời kỳ sau trận chiến sự lúng túng của việc điều hành và phát triển xã
hội sớm bộc lộ. Hàng loạt vấn đề bức thiết, thậm chí nhức nhối được đặt ra.
Trong hồn cảnh ấy, xuất hiện những phân vân, thậm chí nghi ngờ, lo lắng.

Văn học nói chung và văn xi nói riêng ngồi việc “trượt” theo qn tính cũ,
đang có sự quẫy cựa, tìm đường. Yêu cầu đổi mới đặt ra với văn học như một
điều không thể khác cả từ công chúng lẫn bản thân mỗi người cầm bút. Một
lớp công chúng mới hết sức đa dạng về nhu cầu và thị hiếu đặc biệt là lực
lượng độc giả chuyên nghiệp - “người đọc lý tưởng” mỗi ngày lại không
ngừng được bổ sung đã đặt nhà văn trước thử thách mới.
Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) và Nghị quyết 05
(1987) về “Đổi mới và nâng cao trình độ quản lý văn học nghệ thuật và văn
hoá, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ thuật và văn hoá phát triển
lên một bước mới” đã khiến cho các nhà văn khơng cịn phải “ơm” hai thứ:
tấm lịng và thực tài trong người mà có điều kiện hơn để thể hiện cá tính sáng
tạo độc đáo của mình. Nói như nhà văn Nguyên Ngọc thì “Họ thực sự trở lại
cơng việc viết văn với nghĩa đích thực nhất”. Tự do trong sáng tác (dù chỉ là
tương đối) là một động lực quan trọng để các nhà văn có thể tìm đến những


15
vùng đất khác nhau vừa cso thể nói tiếng nói chung của cả cộng đồng, dân
tộc, thời đại đồng thời nói tiếng nói của chính cá nhân mỗi người cầm bút.
Bên cạnh thế hệ cầm bút xuất hiện từ thời kỳ chống Pháp, chống Mĩ một thế
hệ nhà văn xuất hiện sau chiến tranh đã ra đời và thể hiện được bản sắc riêng
của thế hệ mình. Ngồi các nhà văn trong nước cịn có đơng đảo các nhà văn
hải ngoại. Với ý thức tìm tịi, họ đã có những đóng góp nhất định vào diện
mạo của văn học nước nhà sau chiến tranh.
1.2.2. Sự vận động của văn xuôi
Bất luận một tác phẩm, một trào lưu, một nền văn học nào, xét đến
cùng cũng không thể đứng trên, đứng ngoài sự vận động của nền tảng xã hội,
thị hiếu, lý tưởng thẩm mĩ… của mảnh đất đã sinh ra nó; tức là sự vận động
của nền tảng xã hội mà trên cơ sở đó nó hình thành và phát triển. Hay nói
cách khác, văn học ln chịu sự chi phối, ảnh hưởng của nhiều yếu tố chính

trị, tư tưởng thẩm mĩ trong bối cảnh lịch sử mà văn học đã sinh ra và phát
triển. Lịch sử xã hội luôn ln chi phối ảnh hưởng đến văn học đó là một quy
luật. Văn học Việt Nam sau 1975 cũng không nằm ngồi quy luật đó.
Ngay từ những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 người ta thấy
trên văn đàn Việt Nam xuất hiện những tác phẩm mang dấu hiệu đổi mới, dự
báo một tương lai đáng tin tưởng của nền văn học nước nhà. Càng về sau,
càng có nhiều sáng tác lôi cuốn được độc giả về mặt này hay mặt khác.
Hành trình đổi mới văn xi gắn liền với tiến trình vận động của đổi mới
văn học dân tộc. Theo các nhà nghiên cứu, văn học Việt Nam ba mươi năm
qua đã trải qua hai chặng đường có sự tiếp nối khơng đứt đoạn: từ 1975 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn
học thời hậu chiến; từ 1986 trở đi là văn học trong thời kỳ đổi mới, bao gồm
hai chặng nhỏ: từ 1986 đến đầu thập kỉ 90 là chặng đường văn học đổi mới
sôi nổi, mạnh mẽ gắn liền với chặng đầu của công cuộc đổi mới đất nước. Từ
giữa những năm 90 đến nay, văn học trở lại với quy luật bình thường và
hướng sự quan tâm nhiều hơn vào những cách tân nghệ thuật.


16
Q trình đổi mới văn xi vẫn cịn đang tiếp diễn, nhưng hơn ba mươi
năm đã trơi qua, đã có thể nhận diện một cách khái quát trên một số phương
diện sau.
1.1.2.1. Tư duy mới về nghệ thuật
Khi đổi mới được đặt ra vừa như một yêu cầu khách quan của sự phát
triển, vừa là nỗi khát khao, nguyện vọng của nhiều người cầm bút thì u cầu
đầu tiên chính là sự thay đổi tư duy nghệ thuật trong hoạt động sáng tạo của
nhà văn. “Tư duy nghệ thuật là một bộ phận của hoạt động nghệ thuật nhằm
khái quát hoá hiện thực và giải quyết nhiệm vụ thẩm mĩ”. Tính cấu trúc của tư
duy nghệ thuật gắn với năng lực nhìn thấy thế giới một cách tồn vẹn, nắm
bắt nó qua những dấu hiệu phát sinh đồng thời phát hiện các mối quan hệ mới
chưa được nhận ra. Trên cơ sở của tư duy nghệ thuật người ta tạo ra tư tưởng

và quan niệm nghệ thuật lựa chọn các phương tiện, biện pháp nghệ thuật
[29; 324].
Có thể nói, sự đổi mới ý thức nghệ thuật nằm ở chiều sâu của đời sống
văn học, nó vừa là kết quả, vừa là động lực cho những tìm tịi đổi mới trong
sáng tác, đồng thời, lại tác động mạnh mẽ đến sự tiếp nhận của công chúng.
Tư duy văn học mới đã dần hình thành, làm thay đổi các quan niệm về chức
năng văn học, về mối quan hệ giữa văn học và đời sống, nhà văn và bạn đọc,
về sự tiếp nhận văn học, thúc đẩy mạnh mẽ những sự tìm kiếm thể nghiệm về
cách tiếp cận thực tại, về các thủ pháp và biện pháp nghệ thuật, phát huy cá
tính và phong cách cá nhân nhà văn.
Quả thực, văn học Việt Nam sau 1975 đã làm một “cuộc nhận đường
mới” đặc biệt là đổi mới trong tư duy nghệ thuật. Tư duy nghệ thuật mới biểu
hiện trước hết ở quan niệm mới về văn chương nghệ thuật, về kiểu nhà văn.
Đời sống văn học trở nên rất phong phú, đa dạng. Ta bắt gặp trong đó
nhiều gương mặt văn học đã tạo nên sự đổi mới văn học thực sự mang lại
những quan niệm mới về văn chương như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,
Lê Lựu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài…


17
Để đạt đến một cá tính sáng tạo, một phong cách nghệ thuật còn là cả
một chặng đường dài đầy khó khăn. Tuy thế, trong khoảng thời gian ấy chúng
ta đã có thể nhắc đến một Nguyễn Minh Châu ln trăn trở và thiết tha trên
mỗi trang văn, một Nguyễn Huy Thiệp với những câu văn “khô lạnh mà đầy
xao động ẩn ức bên trong”, Nguyễn Khải - cây bút hiện thực tỉnh táo và sắc
sảo… Và ngay cả một lớp người viết trẻ như Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn
Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái…cũng đã bắt đầu thấy rõ những dấu
ấn cá tính trong tư duy nghệ thuật và cách thể hiện. Mối quan hệ bình đẳng
giữa nhà văn và cơng chúng đã tạo nên tính đối thoại cho tác phẩm văn học.
Chính tác phẩm văn học là nơi để nhà văn tổ chức một tình thế đối thoại với

bạn đọc một cách dân chủ nhất thể hiện mối quan hệ bình đẳng giữa nhà văn
và bạn đọc. Nguyễn Khải trong “Cha và con và…” nối tiếp đó trong một loạt
các sáng tác khác như Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người, Một cõi nhân
gian bé tí… là một trong số những người tiêu biểu sớm có ý thức tạo ra tính
đối thoại cho tác phẩm văn học, đặt mối quan hệ bình đẳng giữa nàh văn và
bạn đọc trong tinh thần dân chủ. Nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu
(Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê), Thái Bá Lợi (Hai người
trở lại trung đoàn, Họ cùng thời với những ai), Vũ Tú Nam (Sống với người
cùng thời), Nguyễn Kiên (Trái cam), Khuất Quang Thụy (Khơng phải trị
đùa, Những bức tường lửa), Ma Văn Kháng (Mùa lá rụng trong vườn),
Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu, Khơng có vua, Những bài học nông
thôn…) chứa đựng nhu cầu đối thoại của tác giả khi họ trình bày những suy
ngẫm, trải nghiệm riêng. Trong các sáng tác này mối quan hệ giữa công
chúng - nhà văn và tác phẩm được cải thiện.
Văn học bước vào thời kỳ đổi mới, bằng sự “lật trở” của tư duy nghệ
thuật, mối quan hệ văn học - hiện thực đã có một sự thay đổi về chất, văn học
chuyển từ hiện thực chiến trận sang hiện thực đời sống thường nhật với tất cả
mối quan hệ ngổn ngang, phức tạp và luôn vận động. Đây quả là bước chuyển
biến không đơn giản đối với một nền văn học từng nhiều thập kỷ gắn bó với
hiện thực chiến tranh.


18
Trong khi nhiều cây bút vẫn lúng túng trong hướng tiếp cận với những
phạm vi hiện thực mới của đời sống, bằng sự nhạy cảm của mình, một số nhà
văn đã kịp thời nắm bắt đưa vào văn học những vấn đề mới của đời sống,
những “cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ và
màu đen, đầy rẫy những biến động bất ngờ…”. Đặc biệt, Nguyễn Mạnh Tuấn
với Đứng trước biển, Cù lao tràm đã góp phần "kéo văn học đang thánh thót
ở bè cao xuống cái trần tục đời thường… Và nhờ đó bắt một cái vịi có lực

lượng mạnh của hiện thực ngổn ngang mới ùa tràn vào văn học, đem lại sinh
khí mới mạnh mẽ cho văn học" (lời Nguyên Ngọc). Cùng Nguyễn Mạnh
Tuấn, các nhà văn khác như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn
Khải cũng đã có hướng tiếp cận, lựa chọn chất liệu hiện thực qua một loạt
các tác phẩm Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê,
Chiếc thuyền ngoài xa, Thời xa vắng, Thời gian của người, Mùa lá rụng
trong vườn, Mưa mùa hạ… Hiện thực đời sống trong tính tồn vẹn của nó đã
mở ra những khơng gian cho văn học thoả sức chiếm lĩnh, khám phá, khai vỡ.
Thế hệ nhà văn mới như Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Hoà Vang, Phạm
Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Võ Thị Hảo, Dạ Ngân… đã góp phần đáng kể tạo nên
những thành tựu của văn học đổi mới. Trong những sáng tác của họ vừa có
hiện thực quen biết, vừa có hiện thực mới. Đặc biệt, có cả hiện thực vừa mới
vừa lạ như trong các tác phẩm Người Ấn (Hồ Anh Thái); Nhân sứ (Hoà
Vang), Bến trần gian (Lưu Sơn Minh), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Thiên thần
sám hối (Tạ Duy Anh), Thoạt kỳ thuỷ (Nguyễn Bình Phương)… Đó là hiện
thực được mơ tả không phải để người đọc tin vào sự hiện hữu của nó mà để
suy ngẫm về những gì nó gợi lên. Nhờ mảng hiện thực “khơng có thật”, khó
tin, hồn tồn như “bịa” mà nhà văn có thể tự do nói về xã hội, về con người.
Trong những tác phẩm văn xuôi sau 1986, thế giới nghệ thuật đã có
một “đời sống” mới nó khơng chỉ phản ánh thực tại ngồi đời, mà cịn là thế
giới do nhà văn sáng tạo, có thể bao gồm cả cái có thực và cái khơng thể có,
cái kì ảo được tạo ra bằng trí tưởng tượng có thể tồn tại bên cạnh những hình
ảnh của hiện thực. Trong tâm thức của nhà văn, hiện thực là cái đang diễn ra,


19
cái chưa biết, không thể biết hết, hiện thực phức tạp, cần phải khám phá, tìm
tịi. Đặc biệt, hiện thực hồn tồn chỉ có thể là phương tiện chứ khơng nhất
thiết phải là mục đích phản ánh của nghệ thuật. Hiện thực được mô tả không
phải để người đọc tin vào sự hiện hữu của nó mà để suy ngẫm về những gì nó

gợi lên.
Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật bao giờ cũng gắn với quan niệm về
con người vì “văn học là nhân học” (M.Gorki). Quan niệm về con người là
hạt nhân nhận thức - giá trị và thể hiện mục đích cuối cùng của hành vi sáng
tạo. Hơn nữa, văn học là khoa học đặc thù về thế giới tâm hồn, tư tưởng của
con người. Vì vậy, quan niệm nghệ thuật về con người là thước đo trình độ
chiếm lĩnh hiện thực đời sống của một tác phẩm, một tác giả hay một trào lưu,
một thời đại, một giai đoạn văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người
trong văn học là những nguyên tắc cắt nghĩa về thế giới, con người, là hình
thức bên trong của sự chiếm lĩnh đời sống, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình
thức nghệ thuật.
Sau 1975, khi cái nhìn của nhà văn nghiêng về thế sự - đời tư, con
người trong văn xuôi là con người đời thường tồn tại trong hàng loạt các quan
hệ chằng chịt, phức tạp lắm khi ối oăm, khơng đốn trước được bất cứ điều
gì. Đúng như Bakhtin nhận xét “con người không bao giờ trùng khít với chính
mình”. Quan niệm con người phàm tục xen lẫn thiên thần và ác quỷ, con
người khơng hồn hảo trong văn xi thời kì đổi mới có ý nghĩa đối thoại với
những quy phạm nghệ thuật từng được xác lập trong quá khứ vừa đòi hỏi phải
xem xét con người một cách toàn diện trong những hoàn cảnh cụ thể, cá biệt.
Quan niệm mới về con người được thể hiện trong ba mối quan hệ
chính: xã hội, tự nhiên, tâm linh. Con người xã hội trong văn học sau 1975
được nhìn nhận trong nhiều mối quan hệ khác nhau: quan hệ với dòng họ, với
cộng đồng, với pháp luật… thậm chí, có nhà văn cịn đề cập đến những khu
vực trước đây chúng ta vẫn né tránh. Tính khốc liệt của chiến tranh, cuộc đấu
tranh chống tệ nạn xã hội, sự mòn cũ trong tư duy, quan niệm cổ hủ về giá trị,
xung đột văn hoá… Điều đáng nói, khi miêu tả con người xã hội các nhà văn


20
khơng cịn bị gị ép theo tiêu chí tốt xấu mà họ nhìn thấy cả mặt tốt và mặt

xấu trong mỗi con người, nhìn thấy sự phức tạp của cá nhân khi đứng trước
hoàn cảnh cụ thể. Đặt nhân vật trong các hồn cảnh cụ thể, nhìn sâu vào nội
tâm của họ để soi chiếu con người cá nhân trong các quan hệ đời sống, nhà
văn đã dần dần khám phá ra sự không đồng nhất giữa con người cá nhân với
con người xã hội, giữa những con người có cùng chung hoàn cảnh, cùng
chung lý tưởng xã hội với nhau.
Những đề tài quen thuộc như chiến tranh và người lính, nơng thơn và
nơng dân được xử lý khác nhiều so với trước. Đặc biệt, nhiều cây bút văn
xuôi đã có sự đổi mới tư duy đi sâu khám phá con người trong cái nhìn đa
chiều, phát hiện con người số phận như một điều tất yếu mà Nguyễn Huy
Thiệp là một hiện tượng tiêu biểu.
Bên cạnh việc xem xét con người là “tổng hoà các mối quan hệ xã hội”
con người cịn được nhìn nhận như một sản phẩm tự nhiên, điều mà có một
thời với những lý do nhất định, các nhà văn chưa có điều kiện khám phá. Nó
đã góp phần trả lại con người trong tính nguyên thuỷ và từ đó, nhận thấy rõ
hơn sự tác động cũng như mối quan hệ hai chiều giữa môi trường đối với cái
“nhân chi sơ” nguyên thuỷ của con người.
Nhiều tác phẩm khi phê phán sự băng hoại đạo đức vẫn thể hiện khát
vọng làm giàu và ước mơ được sống sung sướng hơn, được ăn ngon mặc đẹp
hơn như Đám cưới khơng có giá thú, Heo may gió lộng (Ma Văn Kháng),
Một cõi nhân gian bé tí (Nguyễn Khải), Vũ điệu cái bơ, Thuế giường (Nguyễn
Quang Thân), Vịng tròn im lặng (Dạ Ngân), Tướng về hưu (Nguyễn Huy
Thiệp)… Đặc biệt, là vấn đề văn hố tính dục và tình dục đã được nhiều nhà
văn quan tâm và có những cách tiếp cận vấn đề, đưa lại cho văn xuôi những
sắc diện mới. Không chỉ là các sáng tác viết về đời thường, như của Y Ban,
Ma Văn Kháng… mà cả những sáng tác viết về chiến tranh, như của Võ Thị
Hảo, Phạm Ngọc Tiến… Ngay cả vấn đề này cũng được thể hiện ở nhiều
dạng khác nhau. Đó là nhu cầu được làm vợ, làm mẹ, là nhu cầu dâng hiến và
coi đó như một niềm hạnh phúc như trong Họ đã trở thành đàn ông (Phạm




×