Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

VỀ HỆ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836 KB, 164 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HOÀN

VỀ HỆ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HOÀN

VỀ HỆ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
Ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 9 22 90 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Hồ Sĩ Quý

HÀ NỘI, 2021



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Nguyễn Thị Hoàn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6
5. Đóng góp mới của luận án ............................................................................ 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .......................................................... 8
7. Kết cấu của luận án ....................................................................................... 8
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................................... 9
1.1. Những nghiên cứu lý luận về giá trị, hệ giá trị, hội nhập quốc tế ..... 9
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến hệ giá trị con người Việt Nam .... 23
1.3. Những nghiên cứu về định hướng giá trị của con người Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế .................................................... 28
1.4. Giá trị của các công trình đã tổng quan và những vấn đề đặt ra
cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ ....................................................... 34
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ GIÁ TRỊ CON

NGƯỜI VIỆT NAM...................................................................................... 38
2.1. Giá trị, phân loại giá trị .................................................................... 38
2.2. Hệ giá trị và hệ giá trị con người Việt Nam .................................... 46
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 59
Chương 3: HỆ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU
KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ ...................................................................... 61
3.1. Hội nhập quốc tế của Việt Nam, những tác động và yêu cầu của
hội nhập quốc tế với với hệ giá trị con người Việt Nam ........................ 61
3.2. Thực trạng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội
nhập quốc tế hiện nay.............................................................................. 87


Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 111
Chương 4: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG NHẰM XÂY DỰNG HỆ GIÁ
TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
QUỐC TẾ..................................................................................................... 113
4.1. Nhận diện hệ giá trị con người Việt Nam sau hơn 30 năm hội
nhập quốc tế .......................................................................................... 113
4.2. Đề xuất một số định hướng giá nhằm xây dựng hệ giá trị con
người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế ................................ 121
Tiểu kết chương 4 ........................................................................................ 143
KẾT LUẬN .................................................................................................. 144
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..................................................... 148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 150


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, mặc dù vẫn khơng tránh

khỏi cịn bị hồi nghi, nhưng đã gần như là một xu thế khách quan mà các
quốc gia, dân tộc đều phải tham gia. Quá trình này, khi diễn ra trong các lĩnh
vực của đời sống vật chất, đã tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần của
các xã hội, tức là tác động đến đời sống giá trị. Hệ giá trị của phần lớn các
cộng đồng tại hầu hết các quốc gia trong những thập niên gần đây, đều đã ít
nhiều biến động dưới ảnh hưởng của tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Với
các nước đi sau và đang phát triển năng động như Việt Nam, sự tác động của
tồn cầu hố cùng đồng thời với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế dường
như còn mạnh mẽ hơn, làm cho đời sống giá trị, nhất là hệ giá trị con người
đứng trước những sự lựa chọn khắt khe, phức tạp và nan giải hơn nhiều, đặc
biệt giữa nội sinh và ngoại sinh, giữa truyền thống và hiện đại.
Kể từ khi chủ động hội nhập quốc tế với những chính sách rộng mở và
đi vào chiều sâu nhằm xây dựng quan hệ phát triển bền vững với cộng đồng
thế giới, Việt Nam đã vượt qua hàng loạt khó khăn, thách thức to lớn và đã
đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng và toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực
của đời sống kinh tế - xã hội. Mặc dù tốc độ và chất lượng của sự phát triển
cũng đặt ra nhiều vấn đề khơng kém phần gay gắt, song nhìn tổng qt, vị thế,
vai trị và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng được
nâng cao. Đất nước đã đứng trước những vận hội đầy triển vọng. Đời sống vật
chất và tinh thần của người Việt Nam ngày càng được cải thiện và tiến bộ
trong so sánh với quá khứ và với bên ngoài. Niềm tin của người dân đối với
Đảng, Nhà nước và với chế độ ngày càng được củng cố và phát triển theo
chiều hướng tích cực.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội là sự phát triển con người. Theo
Báo cáo của UNDP năm 2020, sự phát triển con người Việt Nam tuy cịn có
những hạn chế khơng nhỏ, nhưng cũng đã đạt được những thành tựu rất đáng
kể nhờ chủ trương “lấy con người làm trung tâm” và đảm bảo bình đẳng, công
1



bằng và tiến bộ xã hội trong các chiến lược, kế hoạch phát triển. Với chỉ số
HDI 0,704 Việt Nam lần đầu tiên đã được xếp trong nhóm nước có chỉ số
phát triển của con người cao, xếp thứ 117/189 quốc gia và thuộc nhóm đầu
trong số 5 nhóm quốc gia về bình đẳng giới [Xem: 114].
Những thay đổi tích cực đó, trên thực tế, là sự phản ánh sâu sắc bước
nhảy mạnh mẽ của Việt Nam chuyển sang một xã hội công nghiệp với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với cách mạng công nghiệp
4.0 có hàm lượng tri thức cao, với nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc và với một “xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người”, như
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh trong bài viết kỷ niệm 131
năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5/2021. Ơng viết: “Chúng ta cần
một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ khơng phải
vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự
phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải
gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một
xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ,
nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất cơng, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích
vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm... Chúng ta cần một hệ thống
chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi
ích của nhân dân, chứ khơng phải chỉ cho một thiểu số giàu có” [96].
Như vậy, quá trình chuyển đổi và phát triển của đất nước cũng chính là
q trình đấu tranh để giải quyết những mâu thuẫn không khoan nhượng giữa
các giá trị. Khẳng định của Tổng Bí thư cho thấy rất rõ khía cạnh giá trị của
vấn đề: vì con người, chứ khơng phải chà đạp lên phẩm giá con người. Vì tiến
bộ và cơng bằng, chứ không phải gia tăng giàu nghèo và bất bình đẳng. Vì
một xã hội nhân ái, nhân văn, chứ khơng phải vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá
nhân và phe nhóm. Hệ thống chính trị là của dân, do dân và vì dân, chứ khơng
phải chỉ phục vụ cho một thiểu số giàu có, bóc lột. Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng khẳng định, “đó chính là những giá trị đích thực” mà Đảng và nhân dân
ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi [96].

2


Vấn đề là ở chỗ, sự phát triển nhanh, sôi động của đời sống kinh tế - xã
hội đã tất yếu làm cho đời sống tinh thần thay đổi theo. Nhưng khơng phải chỉ
theo một chiều tích cực, mà đã thay đổi khá đa chiều, đa dạng và phức tạp.
Cái tích cực là phổ biến, là xu thế chủ yếu của sự thay đổi các giá trị. Nhưng
cái xấu, cái tiêu cực, cái ác… lại cũng chiếm “một bộ phận khơng nhỏ” và có
sức cản trở ghê gớm đối với sự đi lên của xã hội.
Theo quan điểm của triết học duy vật lịch sử, một xã hội khi có sự thay
đổi về điều kiện sinh hoạt, tức là về tồn tại xã hội, thì ý thức của con người
cũng sẽ thay đổi theo “ít nhiều nhanh chóng”. Xã hội nào cũng sẽ có sự biến
động về giá trị, khi tồn tại xã hội khơng cịn như trước. C.Mác và Ph.Ăngghen
viết: “Liệu có cần phải sáng suốt lắm thì mới hiểu những tư tưởng, những
quan điểm và những khái niệm của con người, tóm lại là ý thức của con
người, đều thay đổi cùng với mọi sự thay đổi xảy ra trong điều kiện sinh hoạt,
trong quan hệ xã hội, trong đời sống xã hội của con người hay không?”[59,
tr.624].
Bài viết của Tổng Bí thư một lần nữa cho thấy ý nghĩa quan trọng và
tính cấp thiết của vấn đề giá trị: cùng với sự phát triển của đất nước trong điều
kiện hội nhập quốc tế, hệ giá trị con người Việt Nam đã có nhiều biến động,
thậm chí biến động dữ dội, trong đó có những biến động theo chiều hướng
xấu, cần được quan tâm, nghiên cứu sâu sắc để phát hiện những vấn đề và có
những quyết sách để giải quyết những vấn đề đó, làm cho sự phát triển đạt tới
bền vững hơn. Sự quan tâm đến biến động giá trị có ý nghĩa to lớn ở chỗ, giá
trị và hệ giá trị có thể thay đổi khi đời sống vật chất của xã hội đã hoặc đang
thay đổi, nhưng không phải mọi sự thay đổi đều nằm ngoài tầm kiểm soát của
con người. Triết học Mác cũng dạy con người ta, vấn đề là “cải tạo thế giới”
chứ khơng chỉ “giải thích thế giới”. Một khi các giá trị cũ và mới xung đột với
nhau, sẽ có những cái trước đây từng là giá trị nay có thể trở nên lỗi thời, cần

phải loại bỏ. Lại có những điều trước kia khơng được thừa nhận nay đang trở
thành giá trị buộc phải chấp nhận, không thể từ chối một cách duy ý chí.
Trong những xã hội đang chuyển đổi mạnh mẽ trong điều kiện hội nhập quốc
3


tế như Việt Nam hiện nay, cái tiến bộ đang đan xen với cái lạc hậu, lỗi thời;
cái tốt đang cùng tồn tại và đấu tranh với cái xấu, cái ác… Do vậy, việc chủ
động nhận thức, xây dựng và hoàn thiện hệ giá trị chuẩn của con người, là
một chủ trương sáng suốt để việc chuyển đổi giá trị diễn ra một cách tích cực,
thúc đẩy sự phát triển đất nước theo chiều tiến bộ.
Với tinh thần ấy, từ những năm 90 của thế kỷ XX, ở Việt Nam, những
vấn đề lý luận và thực tiễn về giá trị, như giá trị truyền thống và giá trị hiện
đại, giá trị văn hóa và giá trị con người, giá trị nội sinh và giá trị ngoại nhập…
đã được đặt ra một cách chủ động. Nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, việc xác định hệ giá trị văn hóa Việt Nam
đã được Đảng ta quan tâm và định hướng giải quyết trong Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 khóa VIII năm 1998. Tại Ðại hội XII của Ðảng năm 2016
Đảng ta xác định “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở
thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Ðúc kết và xây dựng hệ giá trị
văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [22, tr.126]. Và mới đây, năm 2021
Ðại hội XIII của Đảng một lần nữa chỉ ra những nội dung về hệ giá trị cần
phải giải quyết cấp bách. Văn kiện viết: “Tập trung nghiên cứu, xác định và
triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con
người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ
mới... Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam đã
tồn tại trong lịch sử; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt
chẽ, hài hoà giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại” [23, tr.143].
Sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề giá trị như vừa nói trên, trước hết là

nhằm xây dựng một hệ giá trị nhân văn, có tầm nhìn, mở đường cho sự phát
triển của đất nước và con người. Nhưng đồng thời sự quan tâm sâu sắc đến
vấn đề giá trị còn vì thực tiễn đời sống xã hội Việt Nam những năm vừa qua
đã ít nhiều rơi vào tình trạng xuống cấp về giá trị, khủng hoảng giá trị.
Có thể thấy những hiện tượng xã hội tiêu cực, những hành vi suy thối
về đạo đức, xuống cấp về văn hóa, lệch lạc về giá trị, … những năm gần đây,
4


đã được phản ánh gần như liên tục trên báo chí và các phương tiện thơng tin
đại chúng. Mức độ tha hóa về con người đã đến mức “rúng động” với những
vụ đại án tham nhũng. Khơng ít học giả, các nhà quản lý và các nhà hoạt động
xã hội đã lên tiếng báo động về tình trạng này. Từ năm 2018, văn kiện Hội
nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã khái quát và chỉ ra rất cụ thể 27
biểu hiện cụ thể của những hiện tượng “suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống; hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Phần nhiều trong
số 27 biểu hiện đó đều liên quan trực tiếp đến giá trị con người. Tại các kỳ
họp lần thứ 8, 9, và 10 của Quốc hội khóa XIV, nhiều hiện tượng có vấn đề
trong số đó đã được chính các đại biểu Quốc hội nêu và thảo luận gây sự quan
tâm sâu sắc trong đời sống xã hội.
Thực chất của những hiện tượng đó chính là sự khủng hoảng về giá trị.
Trong giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị cộng đồng, giá trị xã hội, giá
trị cá nhân… hiện tượng “lệch chuẩn” đang khá phổ biến, không chỉ ở trong
giới trẻ. Nhiều hiện tượng “bất bình thường” đang lan rộng trở thành nỗi lo âu
chung của nhiều tầng lớp xã hội.
Việc nhận diện sự biến đổi các giá trị, đánh giá khách quan, khoa học
động thái của các giá trị, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận về những vấn đề
liên quan đến giá trị và hệ giá trị con người để có những lý giải và giải pháp
phát huy và phát triển hệ giá trị con người Việt Nam, từ những năm gần đây
đã trở thành một địi hỏi quan trọng, cấp thiết, nóng bỏng của cuộc sống.

Như vậy, mức độ cấp thiết của vấn đề chẳng những đã được đặt ra, thảo
luận và gây nên sự quan tâm chú ý trong các tài liệu lý luận, trong các phương tiện
thông tin đại chúng, mà còn được trực tiếp xác nhận, chỉ ra phương hướng nghiên
cứu, giải quyết trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Những điều nói trên chính là căn cứ lý luận và thực tiễn trực tiếp để
nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài: “Về hệ giá trị con người Việt Nam trong
điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay” để thực hiện luận án này.

5


2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu của luận án
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về giá trị và hệ giá trị, luận án
nghiên cứu hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
hiện nay, đề xuất một số định hướng chủ yếu nhằm xây dựng hệ giá trị con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế.
- Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận án là:
+ Tổng quan các cơng trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án.
+ Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về giá trị và hệ giá trị nhằm
hình thành khung lý luận để nghiên cứu luận án.
+ Nghiên cứu khái quát những giá trị truyền thống tiêu biểu của con
người Việt Nam.
+ Phân tích những tác động và yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với sự
biến đổi hệ giá trị con người Việt Nam; nghiên cứu thực trạng hệ giá trị con
người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, đánh giá những
chuyển biến tích cực, những hạn chế và xác định một số vấn đề đặt ra đối với
hệ giá trị con người Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
+ Đề xuất một số định hướng nhằm xây dựng hệ giá trị con người Việt

Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ giá trị con người Việt Nam
trong điều kiện hội nhập quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án là những giá trị truyền thống tiêu
biểu của con người Việt Nam và những chuyển biến về giá trị của con người
Việt Nam từ sau Đổi mới, đặc biệt từ cuối những năm 1990 đến nay khi Việt
Nam hội nhập quốc tế, tham gia sâu vào các định chế quốc tế.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận trực tiếp của luận án là triết học Mác - Lênin, tư tưởng
6


Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là những
tư tưởng về giá trị truyền thống Việt Nam, về văn hóa và sự phát triển xã hội,
về tồn tại xã hội và ý thức xã hội và về con người và đời sống con người…
Cùng với những cơ sở lý luận cơ bản đó, luận án còn chú ý khai thác
chỉ dẫn lý luận của các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi triết học của các
tác giả đi trước về văn hóa và con người Việt Nam, về đời sống tinh thần và
vật chất của xã hội, về giá trị và hệ giá trị Việt Nam truyền thống và hiện đại.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp với các phương pháp: phân tích và tổng hợp,
qui nạp và diễn dịch, đối chiếu, so sánh… để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ
mà đề tài đặt ra.
Trong chừng mực có liên quan, luận án có sử dụng các tài liệu lý luận,
các báo cáo chuyên môn của các tổ chức Đảng và Nhà nước, các tài liệu cung
cấp dữ liệu và số liệu… có liên quan đến vấn đề giá trị và hội nhập quốc tế.
5. Đóng góp mới của luận án

- Làm sáng tỏ lịch sử giá trị học, khía cạnh triết học và các nội hàm của
các khái niệm giá trị, hệ giá trị và hệ giá trị con người Việt Nam.
- Trên cơ sở khai thác những tư liệu của các học giả thế hệ đầu tiên đầu
thế kỷ XX về đặc điểm của văn hóa và con người Việt Nam, luận án đã phân
tích và hệ thống hóa được những giá trị truyền thống tiêu biểu của con người
Việt Nam được hình thành và phát triển từ trong lịch sử.
- Phân tích được nét đặc thù và tính đa diện của quá trình Việt Nam hội
nhập quốc tế, xác định được những yêu cầu cơ bản của hội nhập quốc tế đối
với việc xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam giai đoạn hiện nay.
- Phân tích và đánh giá được những chuyển biến tích cực của hệ giá trị
con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế; xác định được những
vấn đề cấp thiết đang đặt ra đối với việc xây dựng hệ giá trị con người Việt
Nam hiện nay.

7


- Xác định được những giá trị tiêu biểu của con người Việt Nam trong
quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
- Đề xuất được 4 định hướng lớn nhằm xây dựng hệ giá trị con người
Việt Nam trong điều kiện chủ động hội nhập quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận, luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy triết học về giá trị và hệ giá trị con người Việt Nam trong điều
kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
- Về mặt thực tiễn, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
các hoạt động quản lý và xây dựng chính sách có liên quan đến phát triển con
người, văn hóa và giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc
tế hiện nay.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục các cơng trình đã công bố của
tác giả liên quan đến đề tài luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 10 tiết.

8


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những nghiên cứu lý luận về giá trị, hệ giá trị, hội nhập quốc tế
1.1.1. Các cơng trình liên quan về giá trị, hệ giá trị
Đối với các nghiên cứu nước ngoài, ở mỗi một góc độ, quan niệm về giá
trị, hệ giá trị được tiếp cận ở nhiều chiều cạnh khác nhau từ tâm lý học, xã hội
học, kinh tế học, giáo dục học... Về cơ bản, những nghiên cứu về vấn đề giá trị,
hệ giá trị xuất hiện khá sớm trong lịch sử. Đến đầu thế kỷ 19, chuyên ngành
khoa học với tên gọi Giá trị học (Axiology) đã ra đời. Sau đó, những vấn đề
này trở thành một trong những hướng nghiên cứu chuyên sâu ở nhiều quốc
gia như: Đức, Ba Lan, Mỹ, Nga... Từ khi giá trị học được xem xét như là một
khoa học về giá trị ra đời, đã có nhiều học giả nghiên cứu, thảo luận về vấn đề
này nhưng nhìn chung, cho đến nay, những tranh luận về các vấn đề lý luận
như: quan niệm về giá trị, hệ giá trị, định hướng giá trị.... Bahm A.J trong
cuốn “The Science of Values” [104] đã nhấn mạnh điều này khi tác giả cho
rằng: “Việc tìm hiểu các giá trị rất phức tạp bởi có nhiều dạng giá trị khác
nhau và vơ số những nhầm lẫn về giá trị, nhiều cái trong số đó xuất phát từ ý
tưởng sai lầm. Việc chọn lọc trong rất nhiều dạng giá trị nhằm tìm ra những
dạng cần thiết để hiểu sao cho đúng dường như là một nhiệm vụ vô vọng cho
những người mới bắt đầu” [trích theo 92, tr.29].
Theo Joe Bolger - Tư vấn của Cơ quan phát triển quốc tế Canada, trong bài
“Capacity Development: Why, What and How” [105] bàn sâu về phát triển
năng lực của con người trong bối cảnh hiện nay, trong đó phát triển các giá trị

được tác giả coi là yếu tố quan trọng hình thành năng lực con người. Theo tác
giả, phát triển năng lực bao gồm nhiều “phương pháp tiếp cận và chiến lược”
nhằm cải thiện khả năng ở các mức độ khác nhau, trong đó việc tăng cường sự
hiểu biết và mối quan hệ; định hướng các giá trị, thái độ, động cơ và điều kiện để
hỗ trợ phát triển bền vững.

9


David Potten trong bài viết “Learning By Doing: The Japanese PHRD
Fund and Capacity Development“ [111] tập trung luận bàn về các giá trị cá nhân.
Tác giả cho rằng phát triển giá trị cá nhân bao gồm tổ hợp các nhân tố như: Nâng
cao kiến thức cho con người, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế hiện hành;
Tăng cường năng lực kỹ thuật, công nghệ; Nâng cao kỹ năng làm việc trong
những điều kiện làm việc khác nhau (năng lực làm việc nhóm, năng lực thích
ứng…) [111, p.p .7-8].
Amartya Sen là một trong số tác giả có nhiều cơng trình nghiên cứu về
con người, giá trị con người, trong đó những nghiên cứu tập trung bàn sâu hơn
về vấn đề phát triển con người. Trong cuốn “Development as Freedom” [112],
ông cho rằng: Con người càng có năng lực thì càng có cơ hội lựa chọn hơn. Phát
triển con người được coi là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn và năng lực cho
con người. Vì thế, theo tác giả, khi con người ngày càng phát triển năng lực của
mình thì càng làm tăng giá trị của họ trong đời sống cộng đồng. Trong một số
cơng trình nghiên cứu khác như: Equality of what? (1980), Commodities and
Capabilities (1985), The Standard of Living (1987) v.v.. Amartya Sen tập trung
đi phân tích các khía cạnh khác liên quan đến giá trị con người như: chất lượng
cuộc sống, trình độ hiểu biết, năng lực tư duy v.v.. Những đóng góp của
Amartya Sen về phát triển con người có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu về
con người nói chung và nghiên cứu giá trị con người nói riêng.
Thomas Loren Friedman trong nghiên cứu “Chiếc Lexus và cây Ơliu”

[25] đã phân tích rõ nét những xung đột giá trị mới và giá trị truyền thống qua
hình ảnh chiếc xe Lexus hiện đại và cây Ơliu cổ kính. Trong đó, tác giả đã chỉ
rõ những thách thức không nhỏ của các giá trị truyền thống trước những thay
đổi của bối cảnh mới và những vấn đề đặt ra về giá trị mới khi thâm nhập, đan
xen vào đời sống xã hội. Tác giả đặt vấn đề về một phương án “thỏa thuận” để
giải quyết những “xung đột” giữa hai chiều giá trị này trong bối cảnh tồn cầu
hóa, hội nhập quốc tế hiện nay.
Ngồi ra, có thể kể đến các nghiên cứu khác như: “Capacity development
practice note”[113], “Measuring capacity, “Comparative performance
10


measurement in schools” [115] v.v... Có thể thấy, đã có rất nhiều nghiên cứu
của các học giả nước ngoài đề cập tới giá trị. Tuy nhiên, những nghiên cứu này
chủ yếu đề cập tới khía cạnh giá trị cá nhân, giá trị truyền thống, giá trị hiện đại,
các chỉ số phát triển con người v.v.. . Số cơng trình có nghiên cứu về hệ giá trị,
hệ giá trị con người trong điều kiện hội nhập quốc tế cũng không nhiều, nếu
khơng nói là khá khiêm tốn.
Đới với những nghiên cứu trong nước, giá trị và hệ giá trị cũng được xem
xét từ nhiều góc độ khác nhau với nhiều cơng trình nghiên cứu trên sách, tạp chí,
đề tài nghiên cứu, luận văn, luận án...
Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước trong Chương trình nghiên cứu về con
người đã đề cập đến giá trị và định hướng giá trị của con người Việt Nam
trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, đổi mới và mở cửa. Các
chương trình cụ thể của đề tài bao gồm: Chương trình thứ nhất, từ năm 1991
đến 1996: “Con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế- xã
hội” (KX-07); Chương trình thứ hai từ năm 1996 tới năm 2000: “Phát triển
văn hóa, xây dựng con người thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
(KX-04); Chương trình thứ ba từ 2001 đến 2005: “Phát triển văn hóa, con
người và nguồn nhân lực trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước” (KX-05); Chương trình thứ tư từ năm 2006 tới 2010: “Xây dựng con
người và phát triển văn hóa Việt trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế”
(KX- 03/06-10); Chương trình thứ năm từ năm 2011 đến 2015: “Nghiên cứu
khoa học phát triển văn hóa, con người và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực” (KX-03/11-15). Từ những chương trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà
nước nói trên đã có nhiều cơng trình được xuất bản thành sách.
Chương trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà nước KX-07-04 với chủ đề
“Giá trị- định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” [97] là một trong
những cơng trình liên quan trực tiếp tới những vấn đề giá trị, hệ giá trị. Các
tác giả trong cơng trình này khẳng định, giá trị là “một vấn đề cơ bản và rất
thời sự” và “ln mang tính khách quan” tức là sự xuất hiện và tồn tại hay
mất đi của giá trị không phụ thuộc vào ý thức con người mà nó phụ thuộc vào
11


sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi một nhu cầu nào đó của con người, khơng
phải do ý thức mà do yêu cầu của hoạt động, của thực tiễn trong đó con người
sống và hoạt động. Trong nghiên cứu, nhóm các tác giả đưa ra quan niệm về
hệ giá trị như sau: “Hệ giá trị hay còn gọi là hệ thống giá trị đó là một tổ hợp
giá trị khác nhau được sắp xếp, hệ thống lại theo những ngun tắc nhất định,
thành một tập hợp mang tính tồn vẹn, hệ thống, thực hiện các chức năng đặc
thù trong việc đánh giá của con người theo những phương thức vận hành nhất
định của giá trị” [97, tr.62]. Nhấn mạnh tính lịch sử, cơng trình khẳng định hệ
giá trị có “chứa đựng các nhân tố của quá khứ, của hiện tại và cả những nhân
tố có thể có trong tương lai”. Những nghiên cứu này cũng chỉ rõ, hệ giá trị là
tổng hợp các giá trị được sắp xếp theo một nguyên tắc và có ảnh hưởng rất
lớn bởi nhân tố lịch sử.
Tác giả Phạm Minh Hạc là người có nhiều nghiên cứu về giá trị, hệ giá
trị. Trong công trình “Nghiên cứu con người và ng̀n nhân lực đi vào cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa [31]- Khi trình bày một số kết quả trong chương

trình nghiên cứu con người và nguồn lực con người tác giả đã phân biệt với
các khái niệm giá trị, hệ thống giá trị, thang giá trị, thước đo giá trị và định
hướng giá trị. Khái niệm giá trị theo ý kiến tác giả có ba nội dung: “1)Giá trị
là sản phẩm vật chất và tinh thần của con người, nhóm người, cộng đồng dân
tộc và loài người làm ra. 2) Giá trị là phẩm giá, phẩm chất của con người,
nhóm người, cộng đồng, dân tộc và loài người. 3) Giá trị là biểu hiện mối
quan hệ của con người dưới góc độ lợi ích, đánh giá đối với tồn tại xung
quanh [31, tr.133]. Về khái niệm hệ giá trị, tuy trong cơng trình này không đề
cập rõ nhưng trong một số tác phẩm khác, tiêu biểu là tác phẩm Giá trị học,
tác giả Phạm Minh Hạc đưa ra quan điểm “Hệ giá trị là các giá trị của một tập
hợp người như dân tộc, thế giới, vùng, gia đình, bản thân” [36, tr.30]. Cơng
trình này có thể xem như bước đi mới ở Việt Nam, gắn bó mật thiết với nhiều
khoa học khác như: Đạo đức học, Văn hóa chính trị học, Nghiên cứu con
người, Tâm lý học và Giáo dục học... Nội dung cuốn sách khơng chỉ đơn
thuần trình bày một số hiểu biết về Giá trị học mà chủ yếu nhằm mục đích
12


cung cấp cơ sở lý luận về hệ giá trị của người Việt Nam trong thời đại cơng
nghiệp hố theo hướng hiện đại, mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới.
Trong cơng trình “Tìm hiểu giá trị truyền thống trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” [6] các tác giả đã trình bày khá sâu sắc các vấn đề
lý luận như: Giá trị, giá trị truyền thống, giá trị văn hóa truyền thống. Trên cơ
sở đó lý luận đó, các tác giả đã luận giải sự biến đổi của giá trị văn hóa truyền
thống trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. Cùng
với mạch nghiên cứu này có cơng trình “Giá trị truyền thống trước thách thức
của toàn cầu hóa” [7] đã phân tích sự biến đổi của những giá trị truyền thống
của Việt Nam trước thách thức của toàn cầu hóa.
Cơng trình nghiên cứu “Một sớ vấn đề về Triết học- con người- xã hội”
[8], tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn là cuốn sách tuyển tập những bài tiêu biểu

của tác giả đã đăng trên các tạp chí khoa học có uy tín ở nước ta như tạp chí
Triết học, tạp chí Cộng sản, tạp chí Khoa học xã hội... trong đó phần IV: Triết
học và cơng cuộc đổi mới đất nước có một số nội dung liên quan như: giá trị,
giá trị truyền thống trong giai đoạn đổi mới đất nước. Luận bàn về giá trị, tác
giả đặc biệt chú ý tới mặt xã hội và thực tiễn - lịch sử cụ thể, đến tính nhận
thức, noi theo và khả năng thúc đẩy con người nhằm duy trì, bảo vệ hoặc nỗ
lực đạt được của giá trị. Không đồng nhất với một số quan điểm thiên hướng
đạo đức hóa mọi giá trị nhưng tác giả cũng khẳng định khi nói tới giá trị tức là
“muốn khẳng định tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện,
nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái
hay, cái đẹp” [8, tr.745]. Xuất phát từ mặt xã hội và thực tiễn lịch sử của giá
trị, tác giả cơng trình cho rằng trên thực tế có những giá trị chung của nhân
loại, có những giá trị lâu bền được tôn trọng, được kế thừa qua nhiều thế hệ,
nhiều thời đại và được nâng cao lên, nhưng cũng có giá trị có phạm vi ảnh
hưởng và thời đại tồn tại ít hơn, có những giá trị sẽ mất đi hoặc mờ nhạt khi
hoàn cảnh lịch sử thay đổi và thế vào đó là những giá trị mới hình thành. Bàn
về thuộc tính của giá trị, tác giả cho rằng, giá trị là sự thống nhất giữa cái
khách quan và cái chủ quan chứ không phải là cái chủ quan thuần túy như
13


nhiều người ngộ nhận. Giải thích về sự thống nhất này, tác giả đưa ra lý do
như sau: chính những khách thể, những đối tượng, những quá trình, những
quan hệ mang trong mình chúng có khả năng thỏa mãn nhu cầu đa dạng của
con người, mang lại lợi ích nhiều mặt cho con người và chính con người, các
tập đồn người biểu hiện thái độ, quan điểm và sự đánh giá của họ về các khả
năng đó cũng như mức độ mà họ có thể chấp nhận được.
Tác giả Hồ Sĩ Q với cơng trình “Về giá trị và giá trị châu Á” [80] đã
phân tích chi tiết những vấn đề về giá trị và giá trị châu Á cũng như luận giải
một cách khoa học và có hệ thống thế giới các giá trị. Theo tác giả, sự biến

đổi của bối cảnh thế giới đương đại có ảnh hưởng lớn tới sự biến đổi các giá
trị truyền thống và có sự đối sánh với những hệ giá trị khác. Kết luận về thế
giới các giá trị, tác giả Hồ Sĩ Q cho rằng, “chính là tồn bộ thế giới bên
trong và bên ngồi con người được hiện hình trong tư duy và tình cảm của
con người” [80, tr.41]. Theo tác giả, với tư cách là khuôn thước của sự đánh
giá, là một biểu hiện đặc trưng cho quan hệ chủ thể- khách thể trong đời sống
xã hội nên giá trị luôn đồng hành trong cuộc sống con người, kể cả con người
ở xã hội thời mông muội, dã man. Trong tác phẩm này, các quan điểm điển
hình của một số học giả có uy tín trong và ngồi nước về lĩnh vực này được
tác giả cơng trình tổng hợp khá cơng phu, từ đó, tác giả đi tới luận giải mối
tương quan giữa giá trị truyền thống châu Á và nền văn hóa Việt Nam. Trong
cơng trình này, tác giả cũng tập trung phân tích những biến động một số giá
trị ưu trội trong bảng giá trị châu Á tại Việt Nam như: Cần cù, hiếu học, gia
đình và cộng đồng... trước tác động của q trình tồn cầu hóa.
Từ góc độ triết học, cơng trình “Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số
giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay” [85],
tác giả Mai Thị Quý trình bày quan niệm về giá trị. Theo tác giả, giá trị là một
phạm trù triết học dùng để chỉ ý nghĩa tích cực của các sự vật, hiện tượng, quá
trình, quan hệ... (cả vật chất lẫn tinh thần) đối với một cá nhân, một cộng
đồng, một giai cấp, một xã hội hay toàn thể nhân loại trong một điều kiện lịch
sử cụ thể. Tác giả cho rằng, các sự vật, hiện tượng, các quá trình, quan hệ...
14


đều có thể được coi là giá trị khi chúng có khả năng thỏa mãn những nhu cầu
vật chất và tinh thần mang tính tích cực, lành mạnh của con người. Mai Thị
Quý nhấn mạnh khái niệm giá trị với tư cách là ý nghĩa của sự vật, hiện tượng
chứ không phải là bản thân của sự vật, hiện tượng.
Tiếp cận từ góc độ văn hóa học, tác giả Ngơ Đức Thịnh trong “Những
giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam” [93] cho rằng, giá trị cũng như những

tập quán, chuẩn mực, tri thức... đều là sản phẩm của quá trình tư duy, sản xuất
tinh thần của con người, nó là yếu tố cốt lõi nhất của văn hóa. Khẳng định giá
trị là hình thái của ý thức, của tinh thần, tuy nhiên theo tác giả, không phải dạng
tinh thần thuần túy mà nó phản ánh và kết tinh những giá trị của cải đời sống
vật chất và đời sống văn hóa tinh thần của con người. Từ những quan niệm
trên, tác giả đưa ra khái niệm về giá trị dưới góc độ văn hóa học như sau: Giá
trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người về bất kỳ một
hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái đó là cần, là tốt, là
hay, là đẹp. Quan niệm trên của tác giả thiên về việc khẳng định thuộc tính chủ
quan của giá trị. Theo tác giả, giá trị mang tính lịch sử cụ thể, do đó đặt giá trị
vào trục tọa độ về mặt không gian, thời gian và chủ thể văn hóa chúng ta có thể
đánh giá tính giá trị hay phi giá trị, giá trị cao hay giá trị thấp...Về quan niệm hệ
giá trị, tác giả cho rằng, nói đến hệ giá trị (Value System) hay bảng giá trị,
thang giá trị của mỗi cộng đồng thì bao hàm hai ý nghĩa: 1) Các giá trị riêng lẻ
liên kết nhau thành một hệ thống hữu cơ các giá trị; 2) Có sự sắp đặt trước sau,
độ nhấn về tầm quan trọng của nhân tố giá trị trong một bảng (thang) giá trị.
Từ góc nhìn văn hóa học xã hội, tác giả Hồng Vinh trong “Những vấn
đề văn hóa trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay” [99] đưa ra cách hiểu về
hệ giá trị. Theo ơng: “Nói đến hệ giá trị xã hội hay bảng giá trị xã hội là đề cập
tới vấn đề sắp xếp, phân loại giá trị xã hội” [99, tr.7]. Khi nhấn mạnh về vai trò
của hệ giá trị tới cộng đồng, tác giả cho rằng các hệ giá trị đó phải được chuyển
thành các hệ chuẩn mực xã hội, tức là thành phong tục, tập quán... tổng hợp lại
thành lối sống xã hội.

15


Định hướng giá trị con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập
[35] là kết quả nhiều năm nghiên cứu về đề tài con người Việt Nam của tác
giả Phạm Minh Hạc và Thái Duy Tuyên. Đây là cơng trình đã đề cập đến

những vấn đề khá rộng và phức tạp về vấn đề giá trị và định hướng giá trị
thông qua các cuộc điều tra, khảo sát, từ đó tác giả đưa ra những kết luận về
vấn đề đồng tiền và sự làm giàu, tệ nạn xã hội và tình u, hơn nhân và gia
đình, khoa học, công nghệ và tài năng, nghề nghiệp việc làm... Trong chương
1, cơng trình dành nhiều luận bàn về khoa học giá trị, năng lực xác định giá
trị, cũng như quan điểm biến đổi giá trị. Theo các tác giả, giá trị là “cái quy
định mục đích của hoạt động”, do vậy giá trị nảy sinh từ những hoạt động
thực tiễn của con người trong xã hội.
Cơng trình “Một sớ vấn đề về giá trị và hệ giá trị Việt Nam” [91] là sản
phẩm của hai cuộc hội thảo khoa học do đề tài cấp Nhà nước KX 04.15/11-15
“Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế” thuộc chương trình KH & CN trọng điểm KX.04/11-15 “Nghiên cứu
khoa học chính trị giai đoạn 2011- 2015” do tác giả Trần Ngọc Thêm chủ trì.
Trong đó, đáng chú ý là các quan niệm về giá trị, Trần Ngọc Thêm quan
niệm: “Giá trị là phẩm chất của khách thể được bộc lộ trong một hệ tọa độ CK-T (Chủ thể- Không gian- Thời gian) cụ thể, trong đó phẩm chất của khách
thể (là sự vật/hiện tượng, v. v.) được khúc xạ qua sự đánh giá của chủ thể (là
con người) xét trong quan hệ giữa chủ thể với khách thể và giữa khách thể với
nhau” [91, tr.14]. Theo quan niệm này, giá trị mang thuộc tính khách quan.
Cùng trong cơng trình này, tác giả Dương Phú Hiệp trong bài viết “Quan
niệm về mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền
thống Việt Nam với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” [91] nhấn mạnh tính
chủ quan của các giá trị. Ông quan niệm giá trị là các tư tưởng bao quát được
cùng nhau, tin tưởng mạnh mẽ ở một nhóm người, một giai tầng, một dân tộc
hoặc một thời đại về cái gì là đúng, sai, thiện, ác, xấu, tốt, hợp lý, khơng hợp
lý. Nhấn mạnh thuộc tính chủ quan của giá trị, ông khẳng định thêm ở Việt
Nam, thuật ngữ giá trị thường dùng để chỉ phẩm chất, phẩm giá, đức tính hay
16


tức là các giá trị đạo đức. Đồng quan điểm này, tác giả Nguyễn Duy Bắc, tác

giả Phan Thị Hà trong bài viết “Một số suy nghĩ về hệ giá trị của người Việt
Nam” [91] cho rằng, giá trị là ý nghĩa và thường là có ích đối với người thừa
nhận và theo nghĩa chung nhất, giá trị là “cái bộc lộ ra tường minh hay kín
đáo từ bản thân sự vật, hiện tượng đối với con người” [91, tr.333]. Cơng trình
này cũng tập hợp nhiều quan điểm về hệ giá trị. Tác giả Trần Ngọc Thêm cho
rằng hệ giá trị được tạo thành bởi toàn bộ các giá trị của các khách thể cùng
các quan hệ của chúng. Theo đó, các loại hình giá trị được phân loại thành giá
trị văn hóa, giá trị con người, giá trị thực tế, giá trị định hướng, giá trị cốt lõi.
Nhấn mạnh tới tính định hướng của hệ giá trị, tác giả Nguyễn Thị Bích
Phượng cho rằng, nếu như giá trị mang tính định hướng cho các thành viên
trong cộng đồng thì “hệ giá trị là toàn bộ giá trị của nền văn hóa”. Đáng lưu ý
là quan điểm của tác giả Hồ Sĩ Q trong cơng trình này về giá trị và hê giá
trị. Ông cho rằng việc xác định hệ giá trị của quốc gia- dân tộc như Việt Nam
có thể hiểu theo ba nghĩa sau: 1) Chỉ bao gồm các giá trị đang tồn tại thực
trong thực tế. Việc xác định hệ giá trị trước hết là gọi tên cho chính xác các
giá trị thực đó. 2) Bao gồm các giá trị lý tưởng, kỳ vọng, có ý nghĩa định
hướng đối với hành vi của con người, đối với hoạt động của các thiết chế xã
hội và đối với chiều hướng phát triển của một dân tộc - quốc gia. 3) Bao gồm
các giá trị vừa tồn tại thực trong thực tế, vừa là thiêng liêng, lý tưởng để định
hướng hành động. Ngồi ra, có ý kiến của tác giả Dương Phú Hiệp trong cùng
cơng trình trên về hệ giá trị, theo ông: Hệ giá trị (hay bảng giá trị) là một tập
hợp các phạm trù giá trị khác nhau, được cấu trúc theo những thứ bậc khác
nhau, và có mối liên hệ có tính lịch sử cụ thể với nhau để thực hiện một hay
một số chức năng nhất định. Cơng trình “Một sớ vấn đề về giá trị và hệ giá trị
Việt Nam” của tác giả Trần Ngọc Thêm đã tập hợp nhiều bài viết giá trị khoa
học liên quan trực tiếp tới các vấn đề của luận án nghiên cứu sinh thực hiện.
Nghiên cứu “Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con
đường tới tương lai” [91] tác giả Trần Ngọc Thêm là sự tiếp nối nghiên cứu
về hệ giá trị con người Việt Nam. Tác giả đã chỉ ra bốn xu hướng chính hiện
17



nay khi nghiên cứu về định nghĩa giá trị. Xu hướng thứ nhất thuộc nhóm tác
giả cho rằng giá trị là khách thể tức là giá trị thuộc về bản thân sự vật, hiện
tượng; Xu hướng thứ hai thuộc nhóm tác giả cho rằng giá trị thuộc về chủ thể
định giá; Xu hướng thứ ba thuộc nhóm tác giả quan niệm giá trị nằm trong
các mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng; Xu hướng thứ tư thuộc nhóm tác
giả nghiêng về ý kiến cho rằng giá trị tồn tại thế giới độc lập.
Tác giả Lương Đình Hải trong bài viết “Xây dựng hệ giá trị Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay” [38] luận bàn nhiều vấn đề liên quan đến giá trị, hệ
giá trị. Tác giả cho rằng: Giá trị là những sự vật, hiện tượng, quá trình hay tất
cả những thứ được con người xem là có ý nghĩa nhất định với sự tồn tại, vận
động và phát triển của con người. Theo tác giả, giá trị mang cả thuộc tính
khách quan và thuộc tính chủ quan. Về quan niệm hệ giá trị, tác giả cho rằng:
“Hệ giá trị hay bảng giá trị của một cộng đồng được hình thành qua quá trình
lịch sử lâu dài, được sàng lọc, gạt bỏ, bổ sung, tiếp biến và phát triển phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau” [38, tr.10]. Theo đó, hệ giá trị dù có biến
đổi thường xuyên, liên tục, nhưng cũng có độ trễ so với những biến đổi của
các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có tính ổn định tương đối, có sự bền
vững, bất biến, “trường tồn” ở những mức độ và phạm vi nhất định. Hệ giá trị
được lưu giữ, truyền bá từ thế hệ này qua thế hệ khác, trở thành tài sản, hành
trang của các thế hệ mang suốt cuộc đời. Do đó, ơng khẳng định, cần phải
phân định hệ giá trị con người và hệ giá trị xã hội. Điểm chung của chúng ở
chỗ: Hai hệ giá trị này có quan hệ chặt chẽ với nhau, khơng tách rời nhau,
giao thoa với nhau, bởi vì, theo tác giả, những hệ giá trị cốt lõi trong hệ giá trị
xã hội cũng phải có và thể hiện trong hệ giá trị con người; và ngược lại,
những giá trị cốt lõi của hệ giá trị con người bao hàm và thể hiện một số
những giá trị xã hội. Ông chỉ ra điểm khác biệt của chúng ở chỗ: hệ giá trị xã
hội không thể là một tập hợp các giá trị con người. Luận án kế thừa các quan
niệm của tác giả về giá trị, hệ giá trị cũng như những phân tích của tác giả về

cấu tạo của hệ giá trị, ông cho rằng hệ giá trị có các giá trị văn hóa, truyền
18


thống, các giá trị đạo đức, giá trị chung, giá trị phổ quát của nhân loại, của
khu vực... nhưng giá trị đạo đức có “sức nặng riêng”, đặc biệt với các dân tộc
như Việt Nam.
Ngồi những cơng trình nghiên cứu trong chương trình cấp Nhà nước,
ấn phẩm sách tham khảo kể trên, về vấn đề giá trị, hệ giá trị cịn có một số bài
viết đề cập tới như: Nguyễn Ngọc Vân (1996) với nghiên cứu “Về giá trị và
quan hệ hệ giá trị chủ- khách thể” in trong tạp chí Thơng tin lý luận (Số 11);
Nguyễn Trọng Chuẩn (1998) trong nghiên cứu “Vấn đề khai thác các giá trị
truyền thớng vì mục tiêu phát triển” in trong Tạp chí Triết học (Số 2)... Thời
gian gần đây, một số bài viết liên quan về vấn đề này như: tác giả Nguyễn
Thu Nghĩa với bài viết “Định hướng giá trị thẩm mĩ- một số vấn đề lý luận”
(2020) in trong tạp chí Triết học (Số 6); Nguyễn Phú Trọng với bài viết:
“Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước vào một
giai đoạn phát triển mới” in trong “Nhân dân điện tử” ngày 31 tháng 8 năm
2020... là những nghiên cứu này có giá trị khoa học cho một số vấn đề lý luận
và thực tiễn của luận án mà nghiên cứu sinh đang thực hiện.
Tổng quan các tài liệu liên quan tới vấn đề giá trị, hệ giá trị nghiên
cứu sinh đưa ra một sớ nhận xét như sau:
+ Các cơng trình nghiên cứu về giá trị, hệ giá trị trên thế giới phát triển
khá đa dạng, tại những nước phát triển đã hình thành các viện, trung tâm
chuyên nghiên cứu về giá trị đóng góp quan trọng trong việc định hướng
những giá trị mang bản sắc của quốc gia mình. Đây là những đóng góp cơ bản
và quan trọng cho lý luận về giá trị đều xuất phát từ đây.
+ Ở Việt Nam hiện có ba khuynh hướng chủ đạo nghiên cứu về giá trị:
khuynh hướng thứ nhất cho rằng giá trị mang tính khách quan; khuynh hướng
thứ hai khẳng định giá trị mang tính chủ quan; Khuynh hướng thứ ba quan

niệm cho rằng giá trị mang cả tính khách quan và tính chủ quan, khuynh
hướng này được nhiều tác giả đồng tình. Trong đó, trong những nghiên cứu
về hệ giá trị, giá trị đạo đức được các nhiều học giả luận bàn hơn.
19


1.1.2. Các cơng trình liên quan đến hội nhập quốc tế, tác động và yêu
cầu của hội nhập quốc tế đối với hệ giá trị con người Việt Nam
Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và kinh tế thị trường hiện đại đã và
đang là xu thế nổi bật của thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó, từ năm
1986 đến nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội
nhập kinh tế quốc tế với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ
đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam luôn thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc
tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và
khu vực. Trong những năm gần đây, nghiên cứu về vấn đề hội nhập quốc tế
của Việt Nam bước đầu được chú ý, thu hút sự quan tâm của các học giả, có
thể tổng quan một số cơng trình tiêu biểu như sau:
Cơng trình “Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa: Vấn
đề và giải pháp” [102], tác giả quan niệm hội nhập quốc tế là quá trình chủ
động gắn kết nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và
thế giới thông qua các nỗ lực tự do thương mại và mở cửa trên các cấp độ đơn
phương, song phương và đa phương. Trên phương diện này công trình đã
nhấn mạnh tới mức độ, nội dung và hình thức của hội nhập kinh tế quốc tế rất
đa dạng. Bên cạnh đó, luận án kế thừa từ cơng trình này một số vấn đề như:
q trình phát triển tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam,

tác động và những phương hướng trong giai đoạn mới của tồn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
Toàn cầu hóa và tác động đối với sự hội nhập của Việt Nam [94] là
cơng trình bao gồm một số tham luận khoa học của các học giả Việt Nam và
Đức được trình bày tại hai cuộc Hội thảo tổ chức tại Hà Nội vào tháng
11/2002 và tháng 12/2003. Cơng trình tập trung vào ba nhóm vấn đề: Toàn
20


×