Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận Nguồn gốc các khoản thu nhập cơ bản trong xã hội tư bản chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.35 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài: Nguồn gốc các khoản thu nhập cơ bản trong xã hội
tư bản chủ nghĩa
Họ và tên: Đặng Ngọc Lan
Lớp: Anh 12 – KTKT – K59
Chuyên ngành: Kế tốn Kiểm tốn
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Hồng Văn Vinh

QUẢNG NINH – THÁNG 6 NĂM 2021


MỤC LỤC
2


LỜI NÓI ĐẦU

3

I.

Xã hội tư bản chủ nghĩa............................................................4

II.

Nguồn gốc của lợi nhuận...........................................................4


1. Các quan điểm trước Mác về lợi nhuận

4

a. Quan điểm của trường phái trọng thương......................................................4
b. Quan điểm của trường phái trọng
nông..........................................................5
c.

Quan điểm của trường phái cổ điển Anh........................................................5

2. Học thuyết giá trị thặng dư (m) và lợi nhuận (P) của Các Mác................6
a.
b.

Học thuyết giá trị thặng dư.............................................................................6
Lợi nhuận (P)..................................................................................................7

3. Các hình thức của lợi nhuận........................................................................9
a.
b.
c.
d.
e.

Lợi nhuận cơng
nghiệp....................................................................................9
Lợi nhuận thương nghiệp................................................................................9
Lợi nhuận ngân hàng....................................................................................10
Tư bản cho vay và lợi tức..............................................................................10

Địa
tô.............................................................................................................10

III. Bản chất của lợi nhuận...........................................................11

KẾT LUẬN...............................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................13

3


LỜI NĨI ĐẦU
Chúng ta đang sống ở xã hội có nền kinh tế chủ nghĩa tư bản. Chỉ có một câu để
nói về điều đặc trưng của chủ nghĩa tư bản: “Dù là bất kỳ ai đi chăng nữa, đều có
quyền tự do tạo ra mọi loại sản phẩm, rồi bán tất cả các mặt hàng, và mua tất cả
các mặt hàng”. Tất cả mọi người đều có quyền tự do sở hữu cho cá nhân mình
những cơng cụ để phục vụ mục đích sản xuất như: nguyên liệu, máy móc, cơng
xưởng. Đó chính là điểm đặc trưng đầu tiên, chúng ta gọi nó là quyền tư hữu tài
sản.
Sau đó bạn tạo ra được sản phẩm, bạn bán nó đi rồi bạn lại thu được lợi nhuận. Sau
đó bạn lại cần mua một mặt hàng khác để phục vụ cuộc sống và việc sản xuất của
mình. Việc mua và bán đó, chính là đặc trưng tiếp theo của nền kinh tế chủ nghĩa
tư bản, gọi đặc điểm này là: kinh tế hàng hóa.
Việc mua bán hàng hóa, tạo ra nhu cầu trao đổi tiền tệ, việc này được thực hiện
trên thị trường. Ở đó khơng có khái niệm có kế hoạch trước đó, khơng bị điều
khiển bởi bất kì ai. Ở thị trường, chỉ có giá cả kinh doanh giữa người mua và người
bán, ngồi ra khơng bị chi phối điều chính bởi bất kỳ thứ gì khác. Đó cũng là đặc
điểm của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Gọi nó là kinh tế thị trường.
Như chúng ta đã biết, giá trị thặng dư là một phạm trù nói lên mục đích của sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Trong điều kiện thực tế của xã hội tư bản giá trị thặng dư

chuyển hóa và biểu hiện thành lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi
nhuận ngân hàng, lợi tức cho vay, địa tơ tư bản chủ nghĩa. Vì vậy em xin trình bày
đề tài: “Nguồn gốc các khoản thu nhập cơ bản trong xã hội tư bản chủ nghĩa”,
để nghiên cứu qua đó thấy rõ một trong những hình thức biểu hiện của phạm trù
giá trị thặng dư.

4


I.
-

-

-

II.
1.
a.

Xã hội tư bản chủ nghĩa
Chủ nghĩa tư bản là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối
với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì lợi nhuận. Các đặc điểm đặc
trưng của chủ nghĩa tư bản bao gồm: tài sản tư nhân, tích lũy tư bản, lao
động tiền lương, trao đổi tự nguyện, một hệ thống giá cả và thị trường cạnh
tranh.
Trong nền kinh tế thị trường tư bản, việc điều hành và đầu tư được quyết
định bởi chủ sở hữu tài sản, tư liệu sản xuất hoặc khả năng sản xuất trong thị
trường tài chính, trong khi giá cả, phân phối hàng hóa và dịch vụ chủ yếu
được quyết định bởi sự cạnh tranh trong thị trường hàng hóa và dịch vụ.

Chủ nghĩa tư bản xuất hiện đầu tiên tại châu Âu và phát triển trong lòng xã
hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xax
hội tại Hà Lan và Anh ở thế kỷ XVII. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ
XVIII, hình thái chính trị của “nhà nước tư bản chủ nghĩa “dần dần chiếm
ưu thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ
phong kiến, q tộc. Và sau này hình thái chính trị - kinh tế - xã hội tư bản
chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới.

Nguồn gốc, của lợi nhuận
Các quan điểm trước Mác về lợi nhuận.
Quan điểm của trường phái trọng thương

Trường phái này ra đời từ giữa thể kỷ 15 đến giữa thế kỷ 17 trong điều kiện chế
độ phong kiến bị tan rã và chủ nghĩa tư bản thực hiện tích lũy ngun thủy của
tư bản. Nó được đặc trưng bởi sự gắn bó giữa lợi ích kinh doanh quốc gia với
lợi ích của nhà nước và chủ nghĩa đế quốc, và do đó, bộ máy nhà nước được sử
dụng để thúc đẩy lợi ích kinh doanh quốc gia ở nước ngoài.
Chủ nghĩa trọng thương đã được thúc đẩy bởi niềm tin rằng sự giàu có của một
quốc gia được tăng lên thông qua một sự cân bằng tích cực của thương mại với
các quốc gia khác, nó tương ứng với giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa đơi
khi được gọi là sự tích lũy vốn nguyên thủy.
Họ là những nhà kinh tế học đầu tiên đi tìm nguồn gốc, đi tìm lợi nhuận trong
lưu thơng. Vì tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lưu thơng nên khơng
thấy làm lạ gì họ chỉ chú ý đến lưu thông. Theo họ lợi nhuận thương nghiệp là
kết quả do lưu thông, mua bán trao đổi sinh ra, là kết quả của việc mua rẻ bán
đắt mà có.
5


b.


Quan điểm của trường phái trọng nông

Chủ nghĩa trọng nông hay trường phái trọng nông là một trong những trường
phái kinh tế tiêu biểu, cho rằng nguồn gốc thuần túy của sự giàu có của mỗi
quốc gia là từ sản xuất nông nghiệp hay các dạng phát triển đất đai khác.
Trường phái trọng nông đã chuyển việc nghiên cứu các hiện tượng kinh tế từ
lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Đây là một bước tiến bộ so với trọng
thương. Trong phái trọng nông là các nhà kinh tế học Pháp thế kỷ 18 nhưng họ
vẫn nêu ra được một lý luận đúng đắn về lợi nhuận. Tư tưởng của họ là: sản
phẩm thặng dư, do đó cả lợi nhuận nữa cũng được tạo ra trong nông nghiệp. Vì
vậy họ chỉ coi lao động trong nơng nghiệp là lao động sản xuất, cịn mọi lao
động khác, khơng những không trong thương nghiệp mà cả trong nông nghiệp
đều bị họ coi là lao động không sinh lợi.
c.

Quan điểm của trường phái cổ điển Anh

Cùng với sự vận động và phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa, học thuyết
kinh tế của những người trọng thương trở thành phiến diện lỗi thời địi hỏi phải
có lý luận mới và trên cơ sở đó kinh tế chính trị học cổ điển Anh ra đời. Trường
phái cổ điển cho răng lợi nhuận được sinh ra do lĩnh vực sản xuất vật chất bằng
cách bóc lột lao động sản xuất những người làm thuê. Giai cấp tư sản lúc này đã
nhận thức được: “Muốn giàu phải bóc lột lao động, lao động làm thuê của
những người nghèo là nguồn gốc làm giàu vơ tận cho những người giàu”. Các
nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh như Adam Smith và David Ricardo đều phân
tích lý luận về lao động. Trên thực tế họ coi lợi nhuận là kết quả của lao động
thặng dư. Nhưng họ khơng trình bày ngun lý đó một cách rõ ràng, chưa nêu
ra được một lý luận hoàn chỉnh về lợi nhuận.
Nhìn chung, các nhà kinh tế cổ điển đã chuyể việc nghiên cứu các hiện tượng

kinh tế từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất nên họ đã xây dựng khoa
kinh tế chính trị học với tư cách là một môn khoa học. Do không hiểu được đặc
điểm của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nên họ không thể giải quyết cả vấn đề
tư bản lẫn vấn đề lợi nhuận. Chỉ có Mác, sau khi nghiên cứu nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa như là sự thống nhất giữa hai giai đoạn sản xuất tư bản chủ nghĩa
và giai đoạn lưu thông tư bản chủ nghĩa mới quy được lợi nhuận thành giá trị
thặng dư tức là nghiên cứu lợi nhuận dưới hình thành chung nhất của nó.
6


2.
a.

Học thuyết giá trị thặng dư (m) và lợi nhuận (P) của Các Mác.
Học thuyết giá trị thặng dư:
Sự tạo ra giá trị thặng dư (m): C.Mác là người đầu tiên đưa ra học thuyết m
một cách rõ ràng, sâu sắc, khoa học với mơn kinh tế chính trị học. m là phần
giá trị mà người công nhân sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Để
thấy rõ điều đó ta đưa ra bài tốn.
Giả định để sản xuất 10kg sợi cần 10kg boog, giá trị 10kg bông là 10.000đ.
Để biến số bông thành sợi, một người công nhân phải lao động trong 6h và
hao mịn máy móc là 2.000đ, giá trị lao động 1 ngày của công nhân là
6.000đ, trong 1h công nhân tạo ra giá trị là 1.000đ. cuối cùng ta giả định
tồn bộ bơng đã chuyển thành sợi. Nếu người công nhân làm việc trong 6h
thì khơng tạo ra được thặng dư. Trên thực tế nhà tư bản bắt công nhân phải
làm việc hơn 6h, giả sử là 9h
Tư bản ứng trước
Gía trị của sản phẩm (15kg)
Tiền mua bơng
15.000 Gía trị bơng chuyển thành sợi

15000đ
Hao mịn máy móc
3.000đ Gía trị máy móc chuyển vào sợi
3000đ
Tiền mua sức lao động 6.000đ Gía trị do cơng nhân tạo ra 1000x9= 9000đ

b.

24.000đ
27.000đ
Vậy khi bán sản phẩm nhà tư bản sẽ thu được: 27.000đ – 24.000đ = 3000đ.
Số tiền này gọi là lợi nhuận, ở đây C.Mác đã vạch trần bộ mặt bóc lột của
chủ nghĩa tư bản, đã chứng minh thặng dư là do công nhân tạo ra và bị như
tư bản chiếm không và thời gian lao động của cơng nhân càng nhiều thì m
tạo ra càng cao. Nếu như cơng nhân khơng tạo ra m thì như tư bàn khơng
được gì, vì vậy nhà tư bản không muốn mở rộng sản xuất làm cho nền kinh
tế không phát triển và ngược lại công nhân tạo ra càng nhiều giá trị thặng dư
thì nhà tư bản tích cực mở rộng sản xuất. Ngồi ra C. Mác cịn đưa ra phạm
trù thặng dư tương đối và m siêu ngạch (thặng dư tương đối dựa trên nâng
cao ngân sách lao động tương đối còn thặng dư siêu ngạch dựa trên nâng cao
ngân sách lao động cá biệt).
Lợi nhuận (P)
Cơ sở hình thành và lợi nhuận: Trong quá trình sản xuất giữa giá trị hình
thành và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa ln có sự chênh lệch, cho nên tư
bản khi bán hàng hóa, nhà tư bản khơng những bù đắp đủ số đã ứng ra, mà
còn thu được một số tiền lời ngang bằng với m. Vậy giá trị thặng dư được so
với toàn bộ tư bản ứng trước, sẽ mang hình thái chuyển hóa thành lợi nhuận.
7



gt = c + v +m = k + m = k + P
Tuy nhiên giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư khơng phải là hồn tồn đồng
nhất, giữa chúng có sự khác nhau.
Về mặt lượng: nếu hàng bán đúng giá thì m = P. Giữa m và P giống nhau đó
là có chung nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm
thuê.
Về mặt chất: giá trị thặng dư phản ánh nguồn gốc sinh ra từ tư bản lưu động,
còn lợi nhuận được xem là tồn bộ tư bản ứng trước đẻ ra. Do đó lợi nhuận
đã che dấu quan hệ bóc lột của chủ nghĩa tư bản, che đậy nguồn gốc thật của
nó. Điều đó thể hiện:
+ Một là: Sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xóa nhịa sự
khác nhau giữa tư bản cố định và tư bản lưu động, nên lợi nhuận sinh ra
trong quá trình sản xuất nhờ bộ phận tư bản lưu động thay thế bằng sức lao
động, bây giờ lại trở thành con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước.
+ Hai là: Do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa ln nhỏ hơn chi phí sản xuất
thực tế, cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hóa cao hơn chi phí sản xuất tư
bản chủ nghĩa và có thể thấp hơn giá trị hàng hóa (chi phí thực tế) là đã có
lãi. Chính sự khơng nhất trí về lượng giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư đã
che dấu bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Tỉ suất lợi nhuận: nhà tư bản không thể cam chịu với việc bỏ ra một khoản
tư bản lớn mà lại thu được lợi nhuận thấp. Trên thực tế, nhà tư bản không chỉ
quan tâm đến lợi nhuận là tỉ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và
toàn bộ tư bản ứng trước.
Tỉ suất lợi nhuận cho biết nhà tư bản đầu tư vào đâu là có lợi, cho biết “đứa
con đẻ của tư bản ứng trước” lớn hay không, tỉ suất lợi nhuận chỉ rõ mức độ
lời lãi của việc đầu tư tư bản. Mức lợi nhuận cao thì lợi nhuận cao và tỉ suất
lợi nhuận cao. Do đó nó là động lực của nền sản xuất tư bản, là yếu tố của sự
cạnh tranh, là sự thèm khát vô hạn của nhà tư bản.
-


Sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân:
Chúng ta đã biết rằng, trong các đơn vị sản xuất khác nhau do điều kiện sản
xuất (điều kiện kĩ thuật, tổ chức sản xuất, trình độ tay nghề tư nhân...) khác
nhau, cho nên hàng hóa có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường
các hàng hóa đều phải bán theo một giá trị thống nhất, bán theo giá trị thị
trường. Do đó lợi nhuận thu được đem lại cũng khác nhau nhưng thực ra
trong quá trình sản xuất, các nhà tư bản khơng dễ đứng nhìn các nhà tư bản
8


3.
-

-

khác thu được lợi nhuận cao hơn mình, mà họ sẽ di chuyển tư bản của mình
vào các ngành khác để tìm kiếm lợi nhuận và vơ tình các nhà tư bản đã cạnh
tranh nhau để giành giật nhau phần lợi nhuận. Q trình cạnh tranh đó đã
làm cho tỉ suất lợi nhuận được chia đều (bình qn hóa tỉ suất lợi nhuận), và
giá trị hàng hóa đã chuyển hóa thành giá trị sản xuất.
Như chúng ta đã biết, do các xí nghiệp trong nội bộ từng ngành, cũng như
các ngành có cấu tạo hữu cơ của tư bản khơng giống nhau, cho nên để thu
được nhiều lợi nhuận thì các nhà tư bản phải chọn những ngành nào có tỉ
suất lợi nhuận cao để đầu tư vốn.
Vậy tỉ suất lợi nhuận bình quân là tỉ suất theo phần trăm giữa tổng giá trị
thặng dư trong xã hội tư bản và tổng tư bản xã hội đã đầu tư vào tất cả các
lĩnh vực các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa:
P’ = ∑m . 100%
∑ (c + v)
Trong đó: P’: tỉ suất lợi nhuận bình qn

∑m: tổng giá trị thặng dư trong xã hội tư bản
∑ (c + v): tổng tư bản xã hội đã đầu tư
C. Mác viết: “Những tỉ suất lợi nhuận hình thành trong những ngành sản
xuất khác nhau, lúc đầu rất khác nhau. Do ảnh hưởng của cạnh tranh những
tỉ lệ lợi nhuận khác nhau đó được cân bằng thành tỉ suất lợi nhuận chung, đó
là con số trung bình của tất cả các loại tỉ suất lợi nhuận khác nhau. Lợi
nhuận của một tư bản có một lượng nhất định thu được, căn cứ theo tỉ suất
lợi nhuận chung đó, khơng kể cấu tạo hữu cơ của nó như thế nào, gọi là lợi
nhuận bình quân”.
Lý luận lợi nhuận bình quân cho thấy, một mặt mọi sự cố gắng của các nhà
tư bản đều đem lại lợi ích chung cho giai cấp tư sản, mặt khác các nhà tư bản
cạnh tranh nhau để phân chia giá trị thặng dư. C. Mác nói: “Các nhà tư bản
nhìn nhai bằng hai con mắt, một con mắt thiện cảm, một con mắt ác cảm”.
Sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhận bình qn đã che dấu
hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Các hình thức của lợi nhuận
Lợi nhuận là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm nhờ đầu tư sau khi đã trừ
đi các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả chi phí cơ hội, là phần
chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí.
Như ta đã biết giá trị thặng dư và lợi nhuận khơng hồn tồn đồng nhất
nhưng giữa chúng đều có chung nguồn gốc là từ lao động thặng dư lại là các
9


nhà tư bản. Giá trị thặng dư rất rõ ràng nhưng nó được che đậy bởi lợi nhuận
và nó tồn tại trong xã hội tư bản bởi các hình thái sau:
a. Lợi nhuận công nghiệp
Về bản chất: là phần giá trị do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm
không và phần giá trị này bán trên thị trường thu được một số tiền lời sau
khi trừ đi chi phí sản xuất. Ngày lao động của cơng nhân được chia làm

hai phần: một phần làm ra giá trị tương ứng với tiền lương và chi phí sản
xuất, phần cịn lại tìm ra giá trị thặng dư. Vì thèm muốn lợi nhuận nên
nhà tư bản ln tìm mọi cách tăng phần lao động thặng dư (tăng thời gian
lao động, tăng năng suất lao động). Thời gian lao động càng nhiều thì nhà
tư bản thu được lợi nhuận càng lớn và lợi nhuận cơng nghiệp là hình thái
gần nhất, dễ thấy nhất với giá trị thặng dư và lợi nhuận cơng nghiệp là
hình thức chung, lớn nhất của các loại lợi nhuận. Vì vậy lợi nhuận cơng
nghiệp được xem là động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản xuất.
b. Lợi nhuận thương nghiệp
Trong lưu thông, trao đổi không tạo ra giá trị nhưng nhà tư bản thương
nghiệp làm nhiệm vụ lưu thơng hàng hóa một trong những khâu quan
trọng của sản xuất hàng hóa. Chính vì vậy họ phải thu được lợi nhuận.
Nhìn bề ngồi dường như lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị
thặng dư mà nhà tư bản chủ nghĩa nhường cho nhà tư bản chủ nghĩa. Nhà
tư bản chủ nghĩa phải nhường cho nhà tư bản chủ nghĩa một phần giá trị
thặng dư của mình vì nó đảm đương một khâu q trình sản xuất nó tiêu
thụ được một khối lượng hàng hóa lớn của tư bản chủ nghĩa, làm cho nhà
tư bản chủ nghĩa rảnh tay sản xuất tức là tư bản chủ nghĩa kinh doanh
hàng hóa cho nên nó phải có lợi nhuận. Vậy nhà tư bản nhường cho nhà
tư bản chủ nghĩa bằng cách nào? Đó là nhà tư bản chủ nghĩa mua lại hàng
hóa của nhà tư bản chủ nghĩa với giá thấp hơn giá trị và bán lại trên thị
trường bằng giá trị, nghĩa là tư bản chủ nghĩa đã có lợi nhuận. Về thực
chất đây là sự phân chia giá trị thặng dư giữa tư bản chủ nghĩa – tư bản
chủ nghĩa theo tỉ suất lợi nhuận bình quân, nghĩa là nhà tư bản chủ nghĩa
hay tư bản trọng nông chỉ hưởng một phần lợi nhuận theo tỉ suất lợi
nhuận bình quân.
c. Lợi nhuận ngân hàng
Ngân hàng là cơ quan kinh doanh tiền tệ, là người môi giới giữa người đi
vay và người cho vay. Do đó tư bản ngân hàng là tư bản kinh doanh tiền
10



d.

e.

tệ, tư bản ngân hàng cũng tham gia vào quá trình sản xuất. Vì vậy lợi
nhuận ngân hàng là lợi nhuận thu được do hoạt động và nó chính là lợi
nhuận bình quân. Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi trừ
đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng, cộng với khoản
thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng.
Tư bản cho vay và lợi tức
Tư bản cho vay đã xuất hiện từ lâu, sớm hơn cả tư bản chủ nghĩa, đó là tư
bản cho vay nặng lãi nhưng tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản khác
với tư bản cho vay nặng lãi bởi vì tư bản cho vay là một bộ phận của tư
bản chủ nghĩa được tách ra. Bởi vì trong quá trình sản xuất thì ln có
một lượng tiền nhàn rỗi chưa được sử dụng và tư bản cho vay đảm đương
vụ huy động số tiền này để các nhà tư bản khác cần tiền hơn vay, thực
hiện để sản xuất và họ thu được lợi nhuận gọi là lợi tức cho vay. Lợi tức
là một phần lợi nhuận bình quân, mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà
tư bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà tư bản cho vay đưa cho nhà
tư bản đi vay sử dụng và sự thỏa thuận của hai bên. Về nguofn gốc lợi tức
là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản
xuất, do đó lợi tức cũng hoạt động theo quy định tỉ suất lợi tức. Về đặc
điểm quá trình cho vay đó là người sử dụng có quyền sở hữu và quyền sử
dụng tách rời nhau.
Địa tô
Tư bản không chỉ thống trị trong lĩnh vực cơng nghiệp mà cịn thấp trị cả
lĩnh vực nơng nghiệp. Bởi vì tiếng gọi của lợi nhuận làm cho nhà tư bản
có mặt ở khắp mọi nơi, mọi lĩnh vực. Xét về bản chất nhà tư bản kinh

doanh những thuế ruộng đất của địa chủ nó cũng thu được lợi nhuận bình
quân phải trả cho địa chủ dưới hình thái địa tơ tư bản. Vậy địa tô tư bản
xét về bản chất là một phần giá trị thặng dư siêu ngạch ngồi lợi nhuận
bình qn phải trả cho địa chủ dưới hình thái địa tơ tư bản.
Vậy địa tô tư bản xét về bản chất là một phần giá trị thặng dư siêu ngạch
ngoài lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất trả cho
địa chủ dưới hình thái địa tơ. Phần giá trị thặng dư siêu ngạch này tương
đối ổn định lâu dài nó khơng được bình qn hóa và độc quyền kinh
doanh ruộng đất mà lợi nhuận siêu ngạch phải chuyển hóa thành địa tơ tư
bản.

11


Khi đi sâu vào phân tích địa tơ tư bản C. Mác đã chia thành: địa tô chênh
lệch I, địa tô chênh lệch II và địa tô tuyệt đối.
Theo C. Mác: địa tô chênh lệch I là địa tô thu được trên những ruộng đất
màu mỡ và tốt ruộng gần thị trường. Địa tô chênh lệch II là địa tô do
thâm canh mà cịn có địa tơ tuyệt đối là phần m siêu ngạch do cấu tạo
hữu cơ trong nông nghiệp cịn thấp hơn trong cơng nghiệp.
III.

Bản chất của lợi nhuận
Như ta đã biết giá trị thặng dư và lợi nhuận khơng hồn tồn đồng nhất
nhưng giữa chúng đều có nguồn gốc từ lao động thặng dư. Giá trị thặng
dư là phần lao động không công của công nhân và bị nhà tư bản chiếm
đoạt còn lợi nhuận là số tiền ra khi bán sản phẩm trên thị trường so với
tiền bỏ vào sản xuất. Đứng về khía cạnh nào đó thì chính giá trị thặng dư
tạo ra lợi nhuận nó biểu hiện sự bóc lột và chứng minh mâu thuẫn của
chủ nghĩa tư bản một cách khá chính xác, khoa học. Trước Mác các nhà

kinh tế đã hình dung ra giá trị thặng dư nhưng họ chưa có đủ lý luận để
diễn đạt. Nhưng đến C. Mác ông đã xây dựng tương đối hoàn chỉnh về
phạm trù giá trị thặng dư và tìm ra nguồn gốc thực sự của lợi nhuận. Mặc
dù tồn tại ở hình thái nào thì lợi nhuận vẫn cần phản ánh quan hệ bóc lột
của chủ nghĩa tư bản và được sinh ra từ trong quá trình sản xuất.

KẾT LUẬN
Như vậy qua đề án này em đã trình bày một cách có hệ thống các quan điểm
của Mác về lợi nhuận. Học thuyết về lợi nhuận của Mác với đầy đủ các yếu
tố trong phạm trù giá trị thặng dư: nguồn gốc, bản chất, các hình thức biểu
hiện trong chủ nghĩa tư bản. Vậy thì lợi nhuận là gì? Nguồn gốc, bản chất lợi
của nhuận? Những câu hỏi này không phải đến bây giờ mới được đặt ra mà
từ rất lâu rồi con người đã có nhiều những quan điểm khác nhau về lợi
nhuận. Từ những quan điểm của các trường phái lý luận trước Mác cho đến
12


những trường phái lý luận ngày nay, mỗi trường phái đều có những luận
điểm, học thuyết của mình để trả lời những câu hỏi đó. Trong số những quan
điểm đó, học thuyết của chủ nghĩa Mác được xây dựng trên nền tảng lý luận
giá trị thặng dư đã giải thích được một cách đầy đủ, chính xác và khoa học
nhất về nguồn gốc bản chất và vai trò của lợi nhuận. Chính vì vậy học thuyết
giá trị thặng dư nói chung và quan điểm về lợi nhuận của Mác nói riêng sẽ
rất có ích đối với một sinh viên trường kinh tế như em.
Toàn bộ đề án đã một phần làm rõ được bản chất và nguồn gốc của các
khoản thu nhập cơ bản trong xã hội tư bản chủ nghĩa cũng như bản chất của
chúng trong nền kinh tế thị trường. Chúng ta thấy rằng việc theo đuổi các
khoản thu nhập ấy là một điều tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế vì nó
là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên thực chất của vấn đề nảy
sinh và tiêu cực trong văn hóa, xã hội, lối sống của người dân trong cơ chế

mới, cũng như sự tăng lên về vấn đề ô nhiễm môi trường. Những vấn đề trên
đặt ra một yêu cầu là tất cả chúng ta phải cùng cố gắng để góp phần đưa nền
kinh tế phát triển, xã hội lành mạnh văn minh. Đặc biệt là những nhà kinh tế
tương lai, chúng ta khơng thể đứng nhìn những mâu thuẫn nảy sinh trong
quá trình chuyển đổi mà chúng ta hãy nỗ lực hơn nữa trong học tập và lao
động để có thể góp phần nhỏ bé của mình vào cơng cuộc xây dựng đất nước.
Chúng ta mong đợi và tin tưởng rằng quá trình phát triển của đất nước sẽ đi
đến thắng lợi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

2.
3.

Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận trong xã hội tư bản chủ nghĩa />Khái niệm lợi nhuận - />%A3i_nhu%E1%BA%ADn
Quan điểm của trường phái cổ điển Anh về lợi nhuận />13


4.
5.
6.

7.
8.

9.

Chủ nghĩa trọng nông - />%A7_ngh%C4%A9a_tr%E1%BB%8Dng_n%C3%B4ng
Xã hội tư bản chủ nghĩa - />%A7_ngh%C4%A9a_t%C6%B0_b%E1%BA%A3n

Nguồn gốc các khoản thu nhập cơ bản trong xã hội tư bản chủ nghĩa />Chủ nghĩa trọng thương - />%A7_ngh%C4%A9a_tr%E1%BB%8Dng_th%C6%B0%C6%A1ng
Nguồn gốc, bản chất và sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp />Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận, các hình thức biểu hiện của giá trị
thặng dư - />
14



×