Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Tài liệu Tiểu luận:"Nguồn gốc dân tộc Miêu ở Trung Quốc" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.3 KB, 40 trang )

TRƯỜNG …………….
Khoa…………

ĐỀ ÁN
Nguồn gốc dân tộc
Miên ở Trung Quốc
1
MỤC LỤC
Lý do chọn đề tài 3
Lời mở đầu 4
Chương 1: Khái quát chung về dân tộc Miêu ở
Trung Quốc 5
Chương 2: Nguồn gốc của dân tộc Miêu ở Trung
Quốc 19
KẾT LUẬN 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39

2
Lý do chọn đề tài
Khi nhắc đến phương Đông thì không thể nào không nhắc đến Trung Quốc.
Trung Quốc là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại thuộc vào loại
lâu đời nhất và phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử thế giới cổ đại. Trung Quốc là
một quốc gia khổng lồ có diện tích khoảng 9,6 triệu km
2
( lớn thứ ba trên thế giới,
và rộng gần bằng diện tích Châu Âu), và có dân số trên 1,3 tỷ người ( nước đông
dân nhất thế giới) gồm 56 dân tộc, trong đó dân tộc Hán chiếm đa số, chiếm hơn
90% dân số cả nước. 55 dân tộc thiểu số còn lại chỉ chiếm chưa đầy 10%, nhưng
trong đó dân tộc Miêu là một dân tộc thiểu số có dân cư tương đối đông và có lịch
sử hình thành và phát triển rất lâu đời. Do đó, việc tìm hiểu nguồn gốc một dân tộc
thiểu số với lịch sử khoảng 4000 ngàn năm như dân tộc Miêu là một công việc rất


cần thiết và cũng không kém phần khó khăn đối với ngành Châu Á học.
3
Lời mở đầu
Để đảm bảo tính khoa học, việc xác định nguồn gốc một tộc người phải được
đặt trong mối tương quan của nhiều ngành khoa học có liên quan như sử học, khảo
cổ học, ngôn ngữ học, văn hóa học, nhân học, di truyền học, địa lý học Trong
quá trình nghiên cứu tìm hiểu vấn đề, những đặc điểm chung của vấn đề nghiên
cứu cần phải có tính thống nhất liên ngành. Trong trường hợp tộc người đang
nghiên cứu có địa vực cư trú rộng, vượt ra khỏi ranh giới quốc gia thì kết quả
nghiên cứu phải thể hiện tính thống nhất ở cả tầm liên quốc gia. Trường hợp người
Miêu tại Trung Quốc là một điển hình.

4
Chương 1: Khái quát chung về dân tộc Miêu ở Trung Quốc.
1.1: Dân số và địa bàn phân bố chủ yếu của dân tộc Miêu ở Trung Quốc:
Người Miêu là một trong những tộc người thiểu số có dân số đông dân nhất
Trung Quốc. Từ lâu, người Miêu đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan
tâm và nghiên cứu và được xếp chung vào với người Dao
(1)
, Xá
(2)
do có quan hệ
nguồn gốc, thuộc nhóm Miêu-Dao
(3)
, là tộc người có lịch sử hình thành và phát
triển lâu đời. Dân tộc Miêu có dân số hơn 9 triệu người, cư trú tập trung chủ yếu ở
các tỉnh như Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Hải Nam, Hồ
Bắc ( thuộc các vùng Hoa Nam và Tây Nam Trung Quốc)
5


Khu vực cư trú chủ yếu của người Miêu trên đất Trung Quốc
(1)
Người Dao có dân sồ 2.134.000, sống ở các tỉnh Quý Châu, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây, Quảng Đông vv
Ngoài ra, người Dao còn di cư đến Việt Nam, Lào v.v [www.guxiang.com]
(2)
Dân tộc Xá có dân số khoảng 634.700 người, hiện cư trú rải rác ở Phúc Kiến, Triết Giang, Giang Tây, Quảng
Đông, chủ yếu sinh sống ở vùng núi cao từ 500m-1000m [www.guxiang.com]
(3)

Nhóm Miêu-Dao bao gồm tiếng Miêu, Dao, Xá, Bunu, Ho và một số nhóm nhỏ khác [www.hndlink.org]
Tại Việt Nam, nhóm người Miêu di cư đến từ thế kỷ XVIII-XIX dưới tác động
của lịch sử, hiện đang sinh sống tại các vùng rẻo cao Tây Bắc và dải phía tây vùng
Thanh-Nghệ-Tĩnh. Ngoài Trung Quốc và vùng Đông Nam Á lục địa, người Miêu
còn di cư sang Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Úc, Pháp tình hình phân bố của người Miêu
trên thế giới được thể hiện qua bảng sau:
Trung
Quốc
Việt
Nam
Lào Thái
Lan
Bum
ar
Mỹ Pháp Guiana Canada New
Zealan
d
Úc Argenti
na
Tổng
cộng

7.900 630 450 95 60 300 15 1,8 0,64 0,15 1,5 0,25 9454,3
Bảng số liệu phân bố dân cư của dân tộc Miêu trên thế giới. Đơn vị: nghìn người.
Số liệu năm 2007. nguồn [hmongcc.org/…]
6
1.2: Danh pháp và tên gọi:
Người Miêu được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau. Họ tự gọi mình là Miêu Đen,
Miêu Đỏ, Miêu Trắng, Miêu Hoa. Ở Trung Hoa cũng có nhiều tên gọi khác nhau
như Cửu Lê, Tam Miêu, Vưu Miêu, Miêu Dân, Miêu Man, Miêu tộc. Người Trung
Hoa xưa phân biệt sắc tộc Hmong ra làm hai loại: loại đã thuần (shu) và loại
hoang (sheng). Loại Hmong thuần là nhóm đã được đồng hóa với người Hoa, còn
loại hoang là nhóm sống biệt lập trong rừng, thoát ngoài vòng kiềm tỏa của chính
quyền. Những nhà truyền giáo Tây phương lần đầu tiếp xúc với nhóm Hmong
sống hoang dã ở vùng Tứ Xuyên, Vân Nam vào thế kỷ XVII rất lấy làm ngạc
nhiên là họ không có nét thuần Á châu mà lại phảng phất giống Caucasian, nhiều
người lại có màu tóc hung hoặc bạch kim, và vài người lại có mắt xanh. Có thể là
vì thế mà người Hoa gọi họ là Miêu, hay Mèo chăng? Ở Việt Nam, thì có tên là
Hmông, Mông, Mèo. Theo Giáo sư Mạc Đường: người Miêu tự gọi mình là Mống
và cũng có 5 ngành chính là Mèo Trắng, Mèo Hoa, Mèo Đen, Mèo Đỏ và Mèo
Sua. Ở Lào, Thái Lan, Myanma thì có tên gọi Hmong. Hmông và Mông là một.
Theo Trần Trí Dõi thì người Hmông không đồng ý gọi mình là Hmông mà thay
vào đó là Mông. Nhưng tên gọi phổ biến là Miêu.
1.3: Lịch sử hình thành, phát triển và quá trình thiên di của dân tộc Miêu
Nhiều nhà sử học đồng ý rằng trong thời cổ đại giống Hmong-Miêu xuất phát từ
châu Âu, di dân dần đến vùng đồng khô Siberia (Tây Bá Lợi Á), rồi mới đến định
cư ở lưu vực sông Hoàng Hà vài ngàn năm trước. Huyền thoại của dân tộc Miêu
còn lưu truyền vẫn nhắc đến tổ tiên của họ vốn đã sống ở một vùng quanh năm
tuyết phủ, băng giá, ngày và đêm kéo dài đến cả 6 tháng. Với người Miêu sống ở
vùng nhiệt đới Đông Nam Á, chẳng hề thấy tuyết cho nên ngôn từ họ dùng để kể
chuyện là "nước cứng" và "cát trắng mịn".
7

Số phận dân tộc Miêu bắt đầu gắn liền với sử Trung Quốc có thể vào khoảng từ
3000 trước Công Nguyên đến 1200 trước Công Nguyên.
Khoảng 2700 trước Công Nguyên, những di dân từ Siberia đã đi dần xuống vùng
trung thổ qua khu vực mà ngày nay gọi là Manchuria, Hà Bắc khi khí hậu ấm áp
hơn cho phép, và người Miêu đã định cư tại lưu vực sông Hoàng Hà ở vùng
thượng Hà Nam. Lúc bấy giờ đã có bộ tộc Hoa Yangshao chiếm cứ vùng Thiểm
Tây, Sơn Tây và Hà Nam cả ngàn năm trước. Bộ tộc này chỉ là bộ lạc miền núi
chuyên về phá rừng du canh. Về sau bộ tộc Hoa Yangshao này hòa nhập với bộ
tộc Hoa Lungshan chuyên về ruộng nước ở Sơn Đông.
Nhiều truyền thuyết nói đến sự hùng mạnh của Miêu tộc ở vào thời tiền sử của
Trung Hoa, đưa đến chỗ xung đột không thể tránh khỏi giữa các thế lực lúc bấy
giờ. Theo người Hoa thì Hiên Viên (Huan-yuan) sau khi thống lĩnh các thị tộc
người Hoa (khoảng 2697 trước Công Nguyên), liền tìm cách tiêu diệt luôn Si Vưu
là tù trưởng của Miêu tộc để chiếm miền lưu vực Hoàng Hà mà vào bản bộ của
Trung Quốc. Sau khi toàn thắng, Hiên Viên lên ngôi xưng là Hoàng đế mở đầu
thời Ngũ đế, đồng thời với Họ Hồng Bàng của Việt sử. Người ta lại gán cho thời
Hoàng đế kéo dài đúng 100 năm, và dưới thời này người Hoa đã phát minh ra
được thuyền bè, xe kéo, cung tên, áo giáp, nông cụ bằng đá, đồ dùng bằng gỗ và
đất nung, biết xây nhà cửa to lớn, biết làm lịch chia ra 12 giáp, chu kỳ 60 năm để
đoán ngày tháng gieo trồng vv Hẳn nhiên Hoàng Đế chỉ là một nhân vật huyền
thoại của người trung Quốc, bởi cho đến nay các cuộc khảo sát vẫn không tìm ra
được bằng chứng gì về triều đại này. Tuy nhiên huyền thoại này đã nói lên được
sự xung đột giữa 2 dân tộc Hoa - Miêu đã xảy ra rất sớm, và từ đó cứ kéo dài mãi
suốt lịch sử Trung Quốc.
Năm 1576 trước Công Nguyên, vua Thang, thực ra chỉ là một tù trưởng thuộc bộ
lạc tộc Thương, lôi kéo được các bộ lạc khác diệt được vua Kiệt của nhà Hạ (Xia
8
hay Hsia), lập ra Nhà Thương (Shang hay Yin) (1576 - 1059 trước Công Nguyên),
thống lĩnh một dãi đất thuộc tỉnh Hà Nam và Sơn Tây bây giờ. Đến đời vua thứ 8
là Bàn Canh dời đô về đất Ân, nên còn gọi là đời Ân. Dưới đời này thị tộc phụ hệ,

định canh, mục súc, tằm tang và chế độ tư hữu bắt đầu phát triển. Bộ tộc Ân rất
hiếu chiến, giao tranh luôn với các bộ tộc khác để chiếm thêm đất đai. Quân địch
bại trận bị bắt làm nô lệ, và còn dùng làm vật hy sinh để tế thần nữa.Vào năm
1930, trong một cuộc đào xới khảo sát tại nhiều cổ mộ ở đất Ân (Anyang), kinh đô
đời nhà Thương, người ta tìm thấy có nhiều hài cốt của tộc phi Mông Cổ (có
nghĩa là gốc caucasian) lẫn lộn.
Đến đời Chu (Chou hay Zhou: 1059 - 221 trước Công Nguyên) thì ngay sau khi
diệt được vua Trụ của nhà Thương, Vũ vương liền đày một số tộc Miêu lên vùng
biên cương Cam Túc, tịch thu hết ruộng đất của họ. Nhà Chu còn bắt họ canh tác
dưới sự kiểm soát của các đội biên phòng, nhưng người Miêu, quen sống tự do bỏ
trốn vào rừng và bắt đầu cuộc sống kham khổ của miền núi. Đến thế kỷ thứ 7
trước Công Nguyên, Miêu tộc kết hợp với các rợ khác như Tây Nhung, Khuyển
Nhung, Rong và Di ở lưu vực sông Vị nổi lên đánh phá các trú phòng của quân
nhà Chu. Nhánh tộc Miêu này về sau không còn nghe nói đến trong sử Trung
quốc. Có truyền thuyết cho rằng một phần đã bị đồng hóa trước Công Nguyên, và
một phần theo giòng sông Vệ vào vùng Tứ Xuyên, rồi trốn vào Tây Tạng yên sống
trong chốn thâm sơn cùng cốc.
Số tộc Miêu ở nội địa cũng bị đàn áp không kém bởi quan lại nhà Chu, do đó mà
họ luôn nổi dậy. Năm 826 trước Công Nguyên, Miêu tộc bị thảm bại phải tẩu táng
khắp phương; một số chạy đến bờ biển theo thuyền xuôi vào biển Nam, một số
đến Quảng Tây, Hồ Nam; số lớn di tản vào vùng thượng du Tứ Xuyên và Quý
Châu, xa khỏi vùng kiềm chế của nhà Chu.
9
Ấy vậy mà năm 770 trước Công Nguyên, U-vương (vợ là Bao Tự) đã bị rợ
Khuyển Nhung tấn công vào kinh đô giết chết. Con là Bình Vương phải dời đô từ
Cảo Kinh (Tây đô) về Lạc Dương (tức Đông Đô), nên sử gọi là Đông Chu.
Tiếp sau đó, nước Trung Quốc bị loạn lạc Xuân Thu (Chun-Qiu: 722 - 481 trước
Công Nguyên), rồi Chiến quốc (453 - 221 trước Công Nguyên.), số phận Miêu tộc
không nghe nhắc đến trong giai đoạn này của sử Trung Quốc. Cùng thời, ở nước
Văn Lang khoảng 275 trước Công Nguyên, Thục Phán dành được ngôi từ Hùng

Vương thứ 18 và xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, xây thành
Cổ Loa.
Mãi đến đời Tần (Ch'in hay Qin: 221 - 206 trước Công Nguyên), sau khi nhất
thống Trung Quốc Tần Thủy Hoàng dời đô về Hàm Dương, quyết tâm đè bẹp các
cuộc nổi loạn, rồi xây Vạn Lý Trường Thành để ngăn cản sự xâm lăng của rợ
phương Bắc. Tần Thủy Hoàng đã ra lệnh cho tướng Đồ Thư đánh chiếm các xứ
Bách Việt ở phương Nam (khoảng các tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông và Quảng Tây
bây giờ), rồi cho di dân hơn 50 vạn người đến khai khẩn, đặt quan úy quận Nam
Hải là Triệu Đà cai quản. An Dương Vương xin thần phục nhà Tần.
Khi Trung Quốc lâm cảnh loạn lạc với Lưu Bang (Hán) và Hạng Võ (Sở) tranh
hùng thì năm 208 trước Công Nguyên, Triệu Đà đánh chiếm nước Âu lạc, lập ra
nước Nam Việt (gồm Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận).
Khi nhà Hán tiếp ngôi (206 trước CN - 220 Công Nguyên), nhờ yên ổn với các
rợ, họ đã chú tâm mở rộng bờ cõi thêm. Đời Vũ Đế (134 - 88 trước Công
Nguyên), quân Hán đã đánh chiếm Triều Tiên và chia ra làm 4 quận. Năm 111
trước Công Nguyên lại sai Lộ Bác Đức chiếm nước Nam Việt, đổi thành Giao Chỉ
bộ chia ra làm 9 quận. Quân Hán còn chiếm các đất của rợ Di, phía Tây Nam như
Vân Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên bây giờ, trong đó có Miêu tộc ở Quảng Tây.
Năm 41 vua Quang Vũ nhà Đông Hán lại sai tướng Mã Viện (Ma-yuan) sang đánh
10
dẹp cuộc nổi loạn của Hai Bà Trưng ở quận Giao Chỉ, rồi dựng cột đồng ở biên
giới. Hai mươi hai năm sau, quân Hán mở thêm một trận càn quét cuộc nổi loạn
của Miêu tộc ở phía nam Hồ Nam, và tướng già Mã Viện đã chết cùng với trên 2
vạn quân vì bệnh ôn dịch trong khi hành quân.
Nhà Đông Hán đã trả thù rất khốc liệt bằng cách tàn sát mọi dân lành, cướp bóc
và đốt phá các làng mạc người Miêu trong vùng liên tục tròn 3 năm cho đến đời
Chiêu Đế mới nới lỏng, nhưng đã không tiêu diệt được tinh thần tự cường của dân
tộc Miêu.
Đến thời Tam Quốc (Ngụy-Thục-Ngô) thì người Miêu lại lớn mạnh và làm chủ
phần lớn đất Hồ Nam và Quý Châu, lại còn có ảnh hưởng đến tận mạn Nam của

Hồ Bắc, rồi theo sông Hán đến tận mạn bắc. Họ còn cố quay về chốn cũ ở Hà
Nam, Sơn Tây và lan đến phía đông An Huy.
Sau đời Tấn (Chin hay Jin: 265 - 316) thì nước Trung Quốc suy yếu, rơi vào hỗn
loạn của thời Nam Bắc triều (Nan Bei) (hay còn gọi là Lục triều: 317 - 589) thì
khoảng từ 403 đến 561 đã có đến hơn 40 lần người Miêu nổi dậy để đòi độc lập,
cùng với những sắc tộc khác ở khắp nơi mà sử Trung Quốc gọi là Loạn Ngũ Hồ
(Hung Nô, Yết, Tiên Ti, Chi, Khương).
Đến giữa thế kỷ thứ 6, người Miêu đã thiết lập được một vương quốc tạm bợ khá
rộng ở phía Tây Trung Quốc kéo dài từ Hà Nam, qua Hồ Bắc, Hồ Nam xuống đến
Quảng Tây, có thể lẫn lộn biên cương giữa các nước Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc
Chu hoặc Bắc Tề luôn thay đổi. Họ được các thế lực tranh giành giữa Nam và Bắc
triều mua chuộc, lôi kéo, nên một số danh sĩ được tiến cử vào các triều. Nhưng
thời gian vui hưởng này không kéo dài được lâu vì đến khi Lý Uyên thiết lập nhà
Đường (Tang: 618 - 907) sau khi dẹp nhà Tùy (Sui: 589 - 618), thì bắt đầu đánh
dẹp và thu hồi đất đai đã mất vào tay các rợ, trong đó có dân tộc Miêu. Đổi lại,
nhà Đường cho các vùng ấy được tự trị và phải đóng thuế cho triều đình.
11
Đến năm 907, Trung Quốc lại bị loạn lạc với thời kỳ Ngũ đại (Lương, Đường,
Tấn, Hán, Chu) và Thập quốc (907 - 960), nhà Hậu Chu cố đánh lấy vương quốc
Miêu. Đến khi nhà Tống tái thống nhất Trung quốc (Sung: 960-1279), lại cử binh
giành lại các đất vùng Hồ Bắc và Hồ Nam. Trong các cuộc giao tranh toàn bộ
vương triều của Miêu bị tiêu diệt, và đây cũng là bước ngoặc lịch sử chấm dứt thời
vàng son của bộ tộc Miêu.
Truyền kỳ còn được kể lại giữa người Miêu về những ngày bi thảm đó như sau:
Hang Tchu là vua của Miêu tộc lúc bấy giờ, đã già và mệt mỏi vì chiến trận, giàn
quân kháng cự quân Tống. Con gái duy nhất của Hang Tchu là Ngao Shing cũng
cùng xông pha trận tuyến với cha. Nàng không những xinh đẹp mà còn học được
phép lạ với lá cờ thần bí, khi phất lên là bảo tố kéo đến phá tan quân Tống.
Tướng nhà Tống là Tỷ Thanh (Ty Ching) cầu hòa với điều kiện là Miêu tộc phải
trao lá cờ phép cho họ. Triều thần người Miêu họp bàn và sợ rằng người Hoa bày

quỉ kế, nên trao một lá cờ giả. Tỷ Thanh vội dâng lá cờ cho vua Tống, nhưng khi
thử với lửa thì biết là không phải lá cờ thật. Tỷ Thanh liền bị bỏ ngục và kết án tử
hình nhưng nhờ triều thần can gián cho đoái công chuộc tội. Y liền quay lại đất Hồ
giả làm môi giới để cầu hôn Ngao Shing cho thái tử nhà Tống. Vua Miêu chấp
thuận nhưng Ngao Shing thì nhất định cự tuyệt, liền bị vua cha bạc đãi đến chết.
Nàng qua đời thì cờ phép cũng trở nên vô hiệu cho nên Tỷ Thanh mới có thể tiêu
diệt được triều thần Hang Tchu.
Người Miêu lại phải chạy trốn vào vùng Quý Châu và Tứ Xuyên, số khác lại tẩu
tán xuống Quảng Đông và Quảng Tây, trở thành những bộ lạc thiểu số. Quan cai
trị người Hoa lại còn chia rẽ họ bằng cách phân nhóm và buộc họ phải ăn mặc y
phục có màu khác nhau, và từ đó mà ta biết đến nhóm Miêu đen, trắng, hoa, đỏ và
xanh. Mỗi nhóm lại cử lên một tộc trưởng, một chức vụ như là tiểu vương
(kiatong). Tuy vậy họ vẫn luôn tìm cách liên kết với nhau khi cần chống lại kẻ thù
chung là Hoa tộc.
12
Có một bài phóng sự trong nước mới đây mô tả về trang phục của phụ nữ Mông-
Miêu một cách khá thơ mộng, xin được trích dẫn nguyên văn như sau: "Họ cư trú
trên các thung lũng của miền núi phía Bắc (Việt Nam). Leo ngược lên các triền núi
dốc, ở độ cao một ngàn ta bắt gặp những bản làng của người Miêu, bốn mùa mây
mù, sương phủ. Bao quanh những bản làng là những vạt rừng thưa, những trảng
cỏ, những dãy đồi trọc trơ sỏi đá, với những con đường mòn vừa đủ cho người địu
gùi, cho ngựa thồ nằm vắt mình qua các triền núi cheo leo.Giữa khung cảnh tịch
mịch hoang vu ấy, du khách bắt gặp những cô gái, chàng trai người Miêu đi chợ,
bộ trang phục nữ với váy, áo, khăn, vòng, ô sặc sở, lóng lánh vòng khuyên, nổi bật
lên giữa cái thâm u của rừng núi, làm cho cảnh sắc thiên nhiên bỗng sinh động và
ấm áp. Hay giữa các phiên chợ vùng cao, bên cạnh các cô gái Thái, Tày, Nùng,
Dao vẫn nổi bật sắc mầu của các cô gái Miêu: Đây là cô gái Miêu Trắng mặc
váy trắng tuyền, tay áo ghép nhiều mầu, yếm hoa phô sau gáy, kia là các cô gái
Miêu Hoa, váy xếp nếp xòa đủ 12 màu, áo cài khuy nách, có nẹp hoa ở vai, ở
ngực, còn mang trên mình khăn và túi. Rồi phải kể đến cô gái Miêu Đen quấn

vành khăn nhiều nếp nhô cao, váy hoa xúng xính, khuyên tai, vành bạc đủ bộ, làm
mỗi bước đi rung lên thành nhạc, còn cô gái Miêu Lai trong tiết rời se lạnh sặc sỡ
một mầu đỏ thắm của y phục truyền thống."
Trở lại câu chuyện gốc gác người Miêu ở Trung Quốc thì sau khi bị phân tán
vào các vùng cao nguyên và rừng rậm, người Miêu tạm sống yên ổn bởi nhà Tống
bận rộn trong việc chấn hưng nền kinh tế và giao thương của Trung Quốc mà xao
lãng quân sự đưa đến việc rợ Khế-đơn (Kitans) lập nên nước Liêu (Liao) ở mạn
Tây bắc và rợ Tiên Ti (Tartars) lập nên nước Tây Hạ (Western Xia) ở vùng Giang
Bắc, Ninh Hạ và Cam Túc. Từ đó nước Trung Quốc lại can qua giữa 3 nước.
Những năm về sau ở nước Liêu, Mãn tộc bắt đầu hưng thịnh tách ra lập ra nước
Đại Kim (Juchen Chin hay Kin: 1115 - 1234). Tống Hy Tông liên kết với Đại Kim
để diệt Liêu, rồi nhà Tống quá suy yếu lại phải triều cống vua Kim. Trong khi ấy,
giống Mông Cổ phát triển hùng mạnh với Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan) khởi
13
binh chiếm nữa phía bắc nước Kim vào năm 1215 rồi quay sang chiếm trọn Trung
Á và tàn phá vùng Nga-la-tư. Khi quay về đông phương lại diệt luôn nước Tây Hạ
vào năm 1224, chọn Yên Kinh (Yenkin: về sau trở thành Bắc Kinh ngày nay) làm
kinh đô, xưng làm Nguyên Thái Tổ.
Sau khi Thành Cát Tư Hãn mất năm 1227, thì con là Oa Khoát Đài hay Ogadai
thôn tính trọn nước Kim năm 1234 và khủng bố đến tận vùng Trung Âu. Sau khi
Oa Khoát Đài mất, Mông Kha (Mongke) lên ngôi một mặt tiếp tục tàn phá châu
Âu và mặt khác sai cháu cuả Oa Khoát Đài là Hố Tất Liệt (Kublai Khan) cử binh
đánh và diệt nước Đại Lý, hậu thân của nưuớc Nam chiếu (ở vùng Vân Nam bây
giờ) vào năm 1253, rồi tiến đánh nhà Nam Tống và nước An Nam. Khi Hốt Tất
Liệt đánh vào Quý Châu, Tứ Xuyên, quân Mông Cổ đã không tiến sâu vào vùng
cao nguyên cho nên Miêu tộc không bị sát hại nhiều.
Khoảng từ năm 1267 đến 1279 Hốt Tất Liệt, diệt được nhà Tống vừa khi Mông
Kha mất, liền lên ngôi xưng hiệu là Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà Nguyên (Yuan:
1279 - 1368) ở Trung Quốc. Vua Tống Cung Đế và các đại thần phải nhảy xuống
biển tự vận.

Đến năm 1368 Châu Nguyên Chương (Zhu Yuanzhang), vốn là một nhà sư nổi
lên đánh đuổi được quân Mông Cổ lập nên nhà Minh (Ming: 1368 - 1644). Nhà
Minh lại nhắm vào Miến Điện như là cửa ngõ buôn bán với vùng Đông Nam Á,
nên quyết bình định vùng Vân Nam. Trước tiên họ đặt ra hệ thống thổ ty (Tu Si
system) và ưu đãi nhóm người Lô-lô mà đàn áp người Miêu đẫn đến việc người
Miêu thường xuyên nổi dậy. Năm 1459 quan quân nhà Minh đã thiết lập hơn 2
ngàn đồn biên phòng tại Quý Châu, Tứ Xuyên, để từ đó liên tục mở các cuộc hành
quân đánh phá làng mạc và căn cứ địa của người Miêu, và tàn sát đến hơn 40 ngàn
người.
14
Từ đó cho đến cuối thế kỷ thứ 16, không năm nào mà người Miêu không vùng
lên đòi độc lập, và tung hoành một cõi từ Quý Châu đến tận Hồ Nam. Để ngăn
chân họ, nhà Minh cho xây một trường thành nhỏ giống Vạn Lý Trường Thành
gọi là Miêu Thành cao 8 bộ và kéo dài hằng trăm dặm ở biên giới Hồ Nam và Quý
Châu.
Năm 1616, người Mãn Châu là hậu duệ của nước Kim lại bắt đầu cường thịnh,
Nỗ Nhỉ Cáp Xích quật khởi ở miền Liêu Ninh xưng là Thái Tổ và đặt tên nước là
Hậu Kim, đặt đô ở Thẩm Dương chống lại nhà Minh. Năm 1636, Hoàng Thái Cực
kế vị vua cha, đổi tên nước là Đại Thanh đi chinh phục Triều Tiên, Nội Mông Cổ
và miền Đông Bắc của Minh triều và đến năm 1644 thì Thuận Trị dứt được nhà
Minh, thiết lập Thanh triều ở Trung Quốc (Ch'ing hay Qing: 1644 - 1911).
Tàn quân nhà Minh kéo nhau tị nạn sang Nhật Bản và Việt Nam. Một số khác do
Hoàng Minh và Mã Báo bỏ Quảng Tây trốn vào Quý Châu cốt tìm đường sang
Vân Nam. Để đền ơn cưu mang của Miêu tộc, Hoàng Minh giao lại cho họ toàn bộ
vũ khí và còn bày cho cách chế tạo súng hỏa mai mà ngày nay người Miêu vẫn
còn sử dụng.
Sự kiện này đã làm cho nhà Thanh thêm lo ngại, nên năm 1727, Thân vương Oa-
đài (Ortai), thống đốc Quý Châu mở chiến dịch càn quét, sai tướng Dương Quang
Sĩ (Zhang Kwang Si) tấn công vào Quí Dương (Guiyang) là thủ phủ rồi vào Liễu-
Bình. Quân Miêu đông đến hơn 10 ngàn người trang bị đầy đủ vũ khí với súng hỏa

mai và đại bác nghênh chiến. Tổn thất hai bên rất cao, nhưng cuối cùng quân
Thanh thắng thế, tịch thu tất cả vũ khí của người Miêu đúc thành một trụ tượng kỷ
niệm chiến thắng bằng sắt cao 11 bộ dựng ở một hòn đảo trên sông Liên, cửa vào
Quí Dương.
Để trả thù, quân Miêu kéo từ núi xuống tàn sát dân ở 4 thị trấn ven sông. Nhà
Thanh phải đem viện binh từ các tỉnh lân cận đến tấn công vào cứ điểm của người
Miêu từ ba mặt. Quân Miêu vỡ, số thua trận đầu hàng đều bị giết sạch. Điều này
15
làm cho các bộ lạc Miêu rút vào rừng sâu và liên kết dựng những hỏa đài báo hiệu
sự tiến công của quân Thanh trên các sườn núi. Di tích của những hỏa đài này hiện
vẩn còn. Quân Miêu nổi loạn cắt máu ăn thề kháng cự đến chết. Họ còn giết hết vợ
con để khỏi phải bận tâm luyến ái. Họ phản công điên cuồng chẹn các đèo vào núi,
làm cho cả Bắc Kinh lo lắng.
Dương Quang Sĩ được cử thay Oa-đài ra sức giải tỏa hết các chốt và cắt đường
tiếp tế của quân nổi dậy làm cho họ đói khát phải mở đường máu. Hai mươi ngàn
quân Miêu bị giết trên chiến trường. Khoảng hai mươi bảy ngàn khác bị bắt và
một nửa số bị sát hại sau đó. Tổng số súng dài tịch thu lên đến gần 50 ngàn khẩu.
Dương Quang Sĩ còn khủng bố dân lành, cướp phá hơn 20 ngàn làng mạc của
người Miêu, tước đoạt đất đai của họ. Dân Miêu lại phải trốn chạy vào các vùng
lân cận để thoát thân, một số vượt biên giới vào miền bắc Việt Nam, định cư ở
Đông Quan và núi Hoàng Su Phi. Tuy vậy số người Miêu còn ở lại vẫn chưa chịu
hoàn toàn khuất phục, thỉnh thoảng vẫn tìm cách nổi dậy.
Đến năm 1740, đời Ung Chính, nhà Thanh ra lệnh dẹp bỏ hệ thống thổ ty mà
đặt quan trực tiếp cai trị vùng Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây cốt để
đồng hóa họ và khai thác các quặng than, bạc và đồng cũng như lâm sản trong
vùng. Nhà Thanh cũng gia tăng thuế má làm cho nhiều nông dân người Miêu điêu
đứng, khiến họ nổi dậy không ngừng.
Năm 1796 người Miêu lại tập hợp đủ mạnh dưới sự lãnh đạo của 2 tù trưởng là
Thỉ Sanh Báo và Thỉ Liêu Đăng (Shih San-Pao và Shih Liu-teng) ở biên giới Quý
Châu, Hồ Nam để khủng bố nông dân người Hoa vốn do Thanh triều di dân đến

dưới mỹ danh là "khách trú" và được quân đội bảo vệ. Bắc Kinh phải vội tăng viện
để dập tắt cuộc bạo loạn, và chiến dịch kéo dài đến 13 năm mới xong. Quân Thanh
tái thiết bức Miêu Thành từ lâu đã bị bỏ hoang và tăng cường thêm quân bố phòng
để kiểm soát chặt chẽ những hoạt động của người Miêu và quyết tâm đồng hóa họ.
16
Người Thanh còn bắt trẻ con Miêu phải theo học chữ Hán và Hoa tộc được quyền
cưới phụ nữ Miêu.
Nhiều nhóm Miêu không chịu đựng được sự áp bức đành phải trốn sâu hơn vào
rừng ở những tỉnh lân cận. Vài nhóm Miêu đen kéo xuống vùng nam của Hồ Nam
và bắc của Quảng Tây, Miêu Trắng dời về phía bắc vào vùng Tứ Xuyên, và Miêu
Hoa trốn về phía Tây vào vùng Vân Nam.
Lúc bấy giờ ở vùng Vân Nam, vốn xưa là nước Đại Lý đã có giống người Hản
(Haw) cư ngụ. Họ là người theo đạo Hồi có liên hệ với người Panthay ở Miến
Điện, chuyên về buôn bán thương mãi. Họ thường bị quan lại nhà Thanh khinh
miệt và kỳ thị cho nên cũng đã nổi dậy nhiều lần đòi độc lập, như vào các năm
1818, 1826 và 1834 nhưng lần nào cũng bị đàn áp tàn bạo. Nhưng từ năm 1855
cho đến 1873 người Hản vùng dậy và làm chủ được toàn vùng dưới sự lãnh đạo
của Trịnh Chiếu (Tu Wen-hsiu) vì nhà Thanh còn bận đương đầu với loạn Thái
Bình (Taiping) ở trung thổ. Trịnh Chiếu tuyên bố Vân Nam là một nước Hồi giáo
độc lập cho đến khi nhà Thanh rảnh tay quay lại tái chiếm. Người Miêu cùng tham
gia với người Hản nổi dậy nên cũng chịu chung số phận bị tàn sát dã man. Người
ta ước tính có đến cả triệu người Vân Nam thiệt mạng sau khi quân Thanh trở lại.
Thế là người Hản và người Miêu lại kéo nhau tràn vào Miến Điện và Đông Dương
lánh nạn. Nhóm đến Việt Nam lần này đông khoảng 6 ngàn người kéo vào Đồng
Văn ở gần biên giới.
Trước đấy từ năm 1815 đến 1818 đã có người Miêu chạy thoát đến cư ngụ ở
Đồng Văn. Sau đó một nhóm tách ra di dân đến vùng bắc của ngọn núi Fan Si
Pan, rồi bỗng dưng vài năm sau không ai tìm thấy dấu vết của họ đâu nữa, làng
mạc bị bỏ hoang.
Câu chuyện thật ra rất ly kỳ có liên quan đến một tay buôn nha phiến người

Trung Quốc tên là Tôn Mã. Nhân một chuyến ghé qua Fan Si Pan để thu mua
thuốc phiện, y kể cho dân làng nghe về một vùng đất hoang mầu mỡ ở dãy núi
17
Xieng Khoảng phía đông nước Lào. Thực ra thì y chỉ muốn thủ lợi riêng bởi vì
người Miêu lúc bấy giờ chuyên trồng cây nha phiến để bán lại. Trong chuyến buôn
kế tiếp y hướng dẫn một nhóm người Miêu tiên phong được "tiểu vương"
(kiatong) Lo See Pa giao cho Kue-Vue cầm đầu, tìm đến vùng gần Nong Het. Khu
đất rừng thật là phì nhiêu, thế là trong vòng vài năm, họ di dân đến đấy và thiết lập
làng mạc xung quanh Nong Het và để tri ân kẻ chỉ đường, họ đặt tên con sông
chảy qua là Tôn Mã.
Họ sống yên ổn ở vùng đất mới được vài năm thì Lo See Pa bị bọn cướp người
Hoa giết chết trong một trận tấn công vào làng không thành cốt để đoạt nha phiến.
Kẻ kế vị là Lo Sue Xia vẫn thuộc giòng họ Lo. Truyền thống này vẫn được duy trì
vài thập niên mãi đến khoảng 1850 có vài sự kiện gây xáo trộn: Nhóm họ Lý và
nhóm họ Moua xuất hiện.
Nhóm người Miêu họ Lý, lãnh đạo bởi Lý Nghia Vue vốn ở nước Đại Lý xưa
kia bị quân Thanh truy kích trong vụ nổi dậy cùng với người Hán, kéo nhau đến
Nong Het lánh nạn cùng với nhóm họ Moua cầm đầu bởi Moua Kai Chong. Dĩ
nhiên là họ không chịu thần phục giòng họ Lo, và vẫn giữ nguyên tiểu vương của
họ.Tuy vậy Lo Sue Xia vẫn được kính trọng hơn nữa.Cùng đợt tị nạn từ khi vùng
Vân Nam bị thất thủ vào năm 1860 và loạn Thái Bình bị đập tan vào năm 1863,
một khối lượng đông đảo người từ Trung Quốc tràn xuống Việt Nam, trong đó có
cả Miêu tộc.

18
Chương 2: Nguồn gốc của dân tộc Miêu ở Trung Quốc.
Vấn đề xác định nguồn gốc của tộc người Miêu vốn đã được nhiều tác giả khắp
nơi trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Người nghiên cứu về người Miêu sớm nhất
là Joseph Amiot, nhà truyền giáo Kitô người Pháp vào năm 1778. Sau đó, vào các
thập niên 1830, 1840 đến cuối thế kỷ 19, một số tác giả phương Tây đã xuất bản

một số tác phẩm khác về người Miêu, tiêu biểu trong các tác giả đó là W.S.
Williams- nhà nghiên cứu dân tộc học và Deka- nhà nghiên cứu, nhà truyền giáo.
Sang đến đầu thế kỷ 20, nhiều công trình có quy mô lớn hơn đã ra đời. Cụ thể,
19
thập niên 1920 có hai nhà nghiên cứu David Crotkett Graham và Laufer Berthold;
thập niên 1930- 1950 có William Hudspeth. Đến những năm 1950-1975 thì phong
trào Miêu học lại phát triển rầm rộ ở phương Tây. Đa số các tác giả là người Kitô
giáo. Công tác nghiên cứu của họ đa phần là phục vụ công tác truyền giáo Kitô ở
cộng đồng người Miêu. Nổi bật trong số đó có Linwood Barney, William Smalley,
Yin Fu Ruey, Thomas Lyman, William Geddes, Jacque Lemonie, Wiens v.v. Có
thể thấy rằng, phạm vi ngiên cứu trong thời gian này đã mở rộng, vượt ra khỏi
biên giới nước Trung Quốc đến các quốc gia Đông Nam Á lục địa như Việt Nam,
Lào, Thái Lan, Myanma. Sau năm 1975, việc nghiên cứu về người Miêu và nguồn
gốc của họ đã đến cao trào. Thời gian này, ngoài các tác giả phương Tây còn có
các tác giả người Trung Hoa (Hán) và các tác giả người gốc Miêu. Các tác giả
người Hán nổi tiếng gồm có Văn Nhất Đa, Zhang Xiao, Trương Khâu Kì, Từ Diệc
Đình, Thạch Tông Nhân, Trần Tịnh, Lý Đình Quý v.v. Trong số các tác giả này,
một số tác giả có khuynh hướng lồng ghép lý do chính trị và quan điểm vị chủng
trong quá trình nghiên cứu. Các tác giả người gốc Miêu có thể kể như Chua Va
Lo, T. Vang, Yang Dao, Gary Yia Lee v.v. hiện đang tiếp tục nghiên cứu nguồn
gốc văn hóa dân tộc mình dưới sự bảo trợ của các nước Âu Mỹ và Australia.
Chính ở cao trào này, nhiều vấn đề sâu xa mang tính học thuật về nguồn gốc người
Miêu đã được phân tích theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Quá trình tranh luận,
phê bình giữa các nhà nghiên cứu, các tác giả diễn ra sôi nổi. Nhìn chung ta có thể
căn cứ vào nội dung, mục đích và tính chất nghiên cứu nghiên cứu để phân các tác
giả ra làm hai nhóm chính: 1) nhóm các nhà khoa học thuộc các ngành nhân chủng
học, văn hóa học tại các trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu đặt
trọng tâm mục tiêu nghiên cứu vào phục vụ khoa học ( chiếm đa số); 2) nhóm số ít
các tác giả là thuộc dòng Kitô giáo ( đa phần thuộc các nước phương Tây), những
người đặt mối quan tâm nghiên cứu nhằm phục vụ cho công tác tuyên truyền và

quản lý giáo dân người Miêu ( chủ yếu ở Âu Mỹ). Nếu phân theo đặc trưng của
các ngành khoa học cụ thể thì có thể nhận diện các nhóm ngôn ngữ học, di truyền
học, văn hóa dân gian, sử học v.v.
20
2.1: Các giả thuyết về nguồn gốc người Miêu
Hiện nay trên thế giới có 4 giả thuyết chính về nguồn gốc của người Miêu được
nhiều tác giả quan tâm.
- Giả thuyết thứ nhất cho người Miêu có nguồn gốc phương Nam. Nhiều
nhà nghiên cứu thể hiện quan điểm theo khuynh hướng này, chẳng hạn
Eickstedt, S.E Jakhontov, Phạm Đức Dương, Nguyễn Văn Lợi, Trần
Hữu Sơn, Trần Ngọc Thêm và một số tác giả người Trung Quốc. Theo
giả thuyết này, người Miêu vốn cư trú ở vùng Tây Nam Trung Hoa và
Đông Bắc Myanma, sau đó trong quá trình sinh tồn người Miêu đã thiên
di lên phía Bắc Trung Quốc.
- Giả thuyết thứ hai cho rằng người Miêu có nguồn gốc từ Bắc Trung
Hoa. Theo giả thuyết này, nhà sử học Geddes cho rằng người Miêu đã
có mặt trên đất Trung Hoa ( hạ nguồn sông Hoàng Hà) từ trước khi
người Hoa Hạ đặt chân đến ( khoảng thế kỷ 27 trước Công Nguyên).
Cũng theo tác giả này, người Miêu xảy ra mâu thuẫn với người Hoa Hạ,
vì thế sau này họ đã di chuyển về phía Nam ( khoảng 2700 đến 2300
trước công nguyên). Giả thuyết này đã được một số chuyên gia sử học
ủng hộ.
- Giả thuyết thứ ba cho rằng người Miêu thời tối cổ có nguồn gốc từ vùng
Lưỡng Hà ( Mesopotamia). Người đề xuất giả thuyết này là một nhà
nghiên cứu và cũng là nhà truyền giáo Miêu tên là Savina ( người
Pháp). Theo Savina, người Miêu thuộc nhóm Turanian, tổ tiên của họ đã
cùng xuất phát với người với người Aryan di chuyển về phía Đông Bắc,
qua Turkestan, Siberia, Mông Cổ, Mãn Châu rồi đến lưu vực Hoàng Hà.
Về sau, tổ tiên của họ tiếp tục thiên di về phía Nam để tránh người Hoa
Hạ.

- Giả thuyết thứ tư xem tổ tiên người Miêu xuất phát từ Nga. Larteguy là
người đề xuất quan điểm này từ thập niên 1950. Theo ông, người Miêu
21
đã từng cư trú rải rác trên vùng Siberia và xung quanh hồ Baikal trước
khi kéo xuống định cư ở lưu vực sông Hoàng Hà. Tuy nhiên, khuynh
hướng giả thuyết này về sau ít được các nhà nghiên cứu quan tâm đến.
Nhìn chung , tuy các giả thuyết trên có khuynh hướng khác nhau nhưng có chung
một quan điểm là người Miêu đã từng sinh sống ở dải đất Bắc sông Hoàng Hà và
đã từng có những mâu thuẫn với các bộ lạc xung quanh ở phương Bắc, đặc biệt là
sự xung đột với người Hoa Hạ. Trong số 4 giả thuyết kể trên đây, thì giả thuyết
người Miêu có nguồn gốc từ phương Nam là có nhiều chứng cứ hơn cả.
2.2: Nguồn gốc dân tộc Miêu ở Trung Quốc
Quá trình xác định nguồn gốc của tộc người Miêu phải bao quát nhiều lĩnh vực
có liên quan trực tiếp như ngôn ngữ học, truyền thuyết, lịch sử, di truyền, dân tộc
học, khảo cổ học Xin chọn ra 3 phương diện : văn hóa truyền thống, ngôn ngữ
và di truyền để làm cơ sở căn cứ cho việc xác định nguồn gốc dân tộc Miêu ở
Trung Quốc.
a) Về phương diện văn hóa truyền thống (truyền thuyết- lịch sử- văn hóa
dân gian)
Kết quả nghiên cứu trên phương diện văn hóa truyền thống của người Miêu
cũng vô cùng phức tạp, cho thấy nhiều bằng chứng của văn hóa phương Nam lẫn
phương Bắc, trong đó các yếu tố phương Nam nổi trội hơn nhiều.
Theo nhiều ghi nhận của dân gian và sử liệu, tổ tiên của người Miêu là người
Cửu Lê hay người Tam Miêu. Theo Kim Định, Cửu Lê cũng chính là Tam Miêu,
đó là số 3 trong Tam Miêu nhân với chính nó là thành 9- tức Cửu Lê. Sách quốc
ngữ, chương Chu ngữ có viết “Lê, Cửu Lê; Miêu, Tam Miêu dã”. Cũng tại quyển
sách này, chương Sở Ngữ hạ lại viết “ Cập Thiếu Hạo suy dã, Cửu Lê loạn đức
kì hậu, Tam Miêu phục Cửu Lê chi Đức ”. Cả hai đều cho thấy Tam Miêu và
Cửu Lê có quan hệ nguồn gốc, có thể Tam Miêu chính là di duệ của Cửu Lê. Sách
Thượng Thư ( chương Lữ Hình), sách Thượng thư ( chương Đại Hoảng Bắc Kinh)

có ghi rằng bộ tộc Cửu Lê ( Tam Miêu) cư trú ở khu vực rộng lớn phía Đông so
22
với tộc Hoa Hạ. Theo các sử liệu và truyền thuyết dân gian, cả người Miêu và
người Hán, thì từ khoảng 2000-3000 năm trước Công nguyên, bộ lạc người Tam
Miêu đã sinh sống rải rác khắp vùng trung, hạ lưu ngạn Bắc và Nam sông Hoàng
Hà, thế nhưng các quyển sách này không đề cập đến vùng đất Nam Trường Giang,
liệu ở đó có hay không có người Miêu cư trú. Song song đó, nhiều sử liệu Trung
Quốc cho rằng Tam Miêu là một trong nhóm dân tộc vốn có nguồn gốc phương
Nam di cư lên. Chẳng hạn trong Thượng Thư, Sử Ký, Tả Truyện, Chiến Quốc
Sách, Hoài Nam Tử, Sơn Hải Kinh, Bác Vật Chí đều có chi tiết miêu tả về Tam
Miêu và xếp Tam Miêu làm một nhánh của các dân tộc Nam Man.
Một số tác giả khác như Thạch Tông Nhân, Văn Nhất Đa cũng cho rằng Tam
Miêu chính là hậu duệ của Viêm Đế (thần Nông thị -神农氏). Trong kho tàng dân
ca người Miêu ngày nay có không ít các bài hát ca tụng hình ảnh Viêm Đế- Thần
Nông. Chẳng hạn như, trong bài Chủng thực ca ( bài ca trồng trọt) có chi tiết Thần
Nông sai chó mèo đi về phía Đông lấy hạt giống, còn dạy người Miêu đang sinh
sống rải rác giữa vùng Hoàng Hà và Trường Giang đem hạt giống ra để gieo trồng
trên những vùng bình nguyên bao la. Nhờ vậy người Miêu có cái ăn và không sợ
đói rét. Còn trong lễ hội truyền thống, hằng năm người Miêu thường tổ chức các lễ
hội Cản thu tiết và Khiêu hương tiết nhằm tế bái và ca ngợi công đức của Thần
Nông. Ngày này, ở một số vùng còn tổ chức lễ hội đua trâu và lễ hội đâm trâu. Về
mặt khoa học không ít các nhà nghiên cứu như Needham, Vũ Ngọc Khách, Trần
Ngọc Thêm và cả các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã chứng minh rằng Viêm Đế
( Thần Nông) có xuất xứ từ phương Nam nông nghiệp ( Viêm Đế : vua xứ nóng).
Qua các phân tích trên, bằng suy luận chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra rằng
quan niệm coi Viêm Đế, Tam Miêu là các thị tộc ( bộ lạc) nông nghiệp có xuất xứ
phương Nam.
23
Nguồn gốc phương Nam của Tam Miêu tộc còn được thể hiện trong truyền
thuyết dân gian về hình tượng Si Vưu- thủ lĩnh Tam Miêu. Người Miêu ngày nay

gọi Si Vưu là Cách Vưu Công hay Cách Si Vưu Lão, Bàng Hương Vưu hay Bồi
Vưu là những cách gọi trân trọng. Tương truyền, Si Vưu có thân người, chân trâu,
thân có lông chim, tai nhọn, đầu đội hai sừng trâu, tay cầm chiếc búa thần. Chi tiết
chân trâu và đầu đội hai sừng trâu chính là biểu hiện tín ngưỡng tô tem sùng bái
trâu nước có từ rất sớm trong lịch sử Tam Miêu, đồng thời cho thấy người Tam
Miêu đã sớm biết trồng lúa nước. Nhiều sử liệu cho thấy, người Tam Miêu đã biết
trồng lúa nước từ thời rất xa xưa. Sách Quản Trọng ( đời Tần-Hán) có ghi lại rằng
do vì người Tam Miêu sớm đã sống trên vùng bình nguyên lưu vực sông nên đã
sớm biết trồng lúa. Chính vì thế mà người Hán đã đặt chữ viết 苗 ( Miao) để gọi
người Miêu. Chữ bao gồm bộ thảo bên trên bộ điền, chỉ dân tộc sống trên bình
nguyên làm nghề trồng trọt. Một chứng minh nữa cho nguồn gốc nông nghiệp của
người Tam Miêu thể hiện trong câu chuyện dân gian của người Miêu vùng Quý
Châu ngày nay. Truyện kể rằng Si Vưu trong một đêm nằm mơ thấy có một cô gái
xinh đẹp đến gõ cửa và tặng cho các hạt giống lúa, khi tỉnh dậy Si Vưu thấy xuất
hiện một con chó thiêng, trên thân mang nhiều loại hạt giống. Si Vưu lấy hạt giống
phân phát cho dân và dạy dân dùng trâu làm sức kéo. Một dị bản khác thay hình
ảnh cô gái và con chó bằng hình ảnh ông già tóc bạc ( tức Thần Nông). Trong cách
trang phục của phụ nữ Miêu ngày nay, vào dịp lễ hội người Miêu thường đội một
cái mũ bằng kim loại, trên có sừng trâu – biểu tượng của văn hóa truyền thống:
sùng bái trâu nước.
24

Phụ nữ Miêu với trang sức hình sừng trâu
Trong thần thoại Si Vưu của người Miêu Quý Châu, Si Vưu chính là tộc
trưởng tộc Cửu Lê ( Tam Miêu). Theo Long Ngư Hà Đồ thì Si Vưu có 81 người
anh em ( Hoàng Đế chi sơ, Si Vưu hữu bát thập nhất huynh đệ ). Còn trong thần
thoại Si Vưu thì viết “ Si Vưu lệnh cho 9 đại soái và 72 tướng bao vây tiến đánh
Hoàng Đế. Theo các thông tin trên ta có thể thấy 9 đại soái chính là 9 thủ lĩnh của
Cửu Lê, 72 hoặc 81 người anh em này chính là 72 hoặc 81 nhóm bộ lạc họp thành
Cửu Lê ( Tam Miêu). Một quan điểm khác cho rằng Si Vưu là thủ lĩnh bộ lạc, sinh

9 người con làm thủ lĩnh các nhóm nhỏ hơn gọi là Cửu Lê. Đến lượt mình, 9
người con của Si Vưu mỗi người lại sinh 9 người con nữa, nên tổng cộng có 81
người cháu ( 81 anh em). Đây cũng là lý do vì sao Kim Định cho rằng không có
một nhân vật Si Vưu cụ thể nào mà chỉ có sự tổng hợp của cả tập thể. Còn nói về
nguồn gốc vạn vật trong truyền thuyết người Miêu, bậc sáng thế của vạn vật là Hồ
25

×