Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận Vai trò của doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.38 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài: Vai trị của doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện
nay
Họ và tên: Lê Anh Thư
MSV: 2014815038
Lớp: Anh 13 – K59
Chuyên ngành: Kế toán kiểm toán
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Hoàng Văn Vinh

QUẢNG NINH – THÁNG 6 NĂM 2021


MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU
Trong 35 năm lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, trung thành, kế thừa và vận dụng
sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt
Nam thường xuyên đổi mới tư duy gắn với tổng kết thực tiễn và đưa ra chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân. Đại
hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng” của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; “Xóa
bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư
nhân.”


CHƯƠNG I – DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN LÀ GÌ?


1. Khái niệm doanh nghiệp tư nhân
Căn cứ vào điều 183 luật doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp tư nhân được hiểu
như sau:
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh
nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên cơng ty
hợp danh.
Doanh nghiệp tư nhân khơng được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần,
phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty
cổ phần.
2. Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân
a) Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân bỏ vốn ra và làm chủ
Doanh nghiệp tư nhân là một đơn vị kinh doanh do một cá nhân bỏ vốn ra
thành lập và làm chủ ( vừa có quyền quản lí tài sản, có quyền quản lí hoạt động
kinh doanh và tự chịu trách nhiệm). Tuy nhiên, về trách nhiệm thì khơng có sự
phân chia rủi ro cho bất cứ ai, cho dù trực tiếp quản lí doanh nghiệp hay gián
tiếp quản lí doanh nghiệp (thuê người khác quản lí).
Doanh nghiệp tư nhân khơng xuất hiện sự góp vốn giống như ở các công
ty nhiều chủ sở hữu, nguồn vốn của DN cũng chủ yếu xuất phát từ tài sản của
một cá nhân duy nhất.
b) Về quan hệ sở hữu vốn trong doanh nghiệp tư nhân
Nguồn vốn ban đầu của doanh nghiệp tư nhân xuất phát chủ yếu từ tài
sản của chủ doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp có
quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư, chỉ phải khai báo với Cơ quan đăng ký kinh
doanh trong trường hợp giảm vốn xuống dưới mức đã đăng kí. Vì vậy, khơng có
giới hạn nào giữa phần vốn và tài sản đưa vào kinh doanh của doanh nghiệp tư
nhân và phần còn lại thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là



không thể tách bạch tài sản của doanh nghiệp tư nhân và tài sản của chính
doanh nghiệp tư nhân đó.
c) Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ quản lí
Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ đầu tư duy nhất, vì vậy cá nhân có
quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Doanh
nghiệp tư nhân. Chủ Doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp tư nhân.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể là người Việt Nam hoặc người nước
ngoài chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp Việt Nam
d) Về phân phối lợi nhuận
Vấn đề phân chia lợi nhuận không đặt ra đối với doanh nghiệp tư nhân bởi
Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ sở hữu và toàn bộ lợi nhuận thu được từ
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ thuộc về một mình chủ doanh
nghiệp. Tuy nhiên điều đó cũng có nghĩa là cá nhân duy nhất đó sẽ có nghĩa vụ
chịu mọi rủi ro trong kinh doanh.
e) Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân
Một pháp nhân phải có tài sản riêng, tức phải có sự tách bạch giữa tài sản
của pháp nhân đó với những người tạo ra pháp nhân. doanh nghiệp tư
nhân khơng có sự độc lập về tài sản vì tài sản của doanh nghiệp tư nhân không
độc lập trong quan hệ với tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân.
f) Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn trước những khoản
nợ phát sinh trong q trình hoạt động
Do tính chất độc lập về tài sản khơng có nên chủ doanh nghiệp tư nhân –
người chịu trách nhiệm duy nhất trước mọi rủi ro của doanh nghiệp sẽ phải chịu
chế độ trách nhiệm vô hạn. Chủ doanh nghiệp tư nhân không chỉ chịu trách
nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong phạm vi phần vốn đầu
tư đã đăng kí mà phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản trong trường hợp
phần vốn đầu tư đã đăng kí khơng đủ.



3. Ưu điểm và nhược điểm của doanh nghiệp tư nhân
Ưu điểm:
• Chủ của doanh nghiệp tư nhân có tồn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan
đến doanh nghiệp do loại hình doanh nghiệp này chỉ có một chủ sở hữu duy
nhất.


Do chế độ trách nhiệm vơ hạn như một đảm bảo cho đối tác kinh doanh cũng

như các tổ chức tín dụng hợp tác với doanh nghiệp nên doanh nghiệp tư nhân ít
bị ràng buộc bởi quy định pháp luật


Chế độ trách nhiệm vơ hạn của doanh nghiệp tư nhân tạo ra sự tin tưởng cho

đối tác và khách hàng của doanh nghiệp.
• Cơ cấu tổ chức doanh nghiệp đơn giản, gọn nhẹ.
Nhược điểm:
• Chủ của doanh nghiệp tư nhân ln phải chịu rủi ro cao do có trách nhiệm vơ
hạn bằng tài sản của mình trong q trình hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.


Chủ của doanh nghiệp đầu tư vẫn phải chịu toàn bộ trách nhiệm trong quá

trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cho dù có thuê giám đốc quản lý
doanh nghiệp.
4. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân
4.1 Quyền của doanh nghiệp tư nhân

+ Quyền tự do và chủ động trong hoạt động kinh doanh: Chủ doanh nghiệp
tư nhân có thể thuê người quản lí, điểu hành doanh nghiệp tư nhân, sáp nhập
doanh nghiệp tư nhân hoặc có quyền tự nguyện giải thể, xây dựng q trình sản
xuất kinh doanh, có quyền quyết định nguồn vốn (tăng hoặc giảm), trả lương
lao động theo đúng quy định của pháp luật, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm,
kí kết hợp đồng kinh tế, liên doanh liên kết kinh doanh với các chủ thể doanh
nghiệp khác theo quy định của luật doanh nghiệp.
+ Quyền dối với tài sản và các quyền lợi ích hợp pháp khác: Chủ doanh
nghiệp tư nhân có thể bán doanh nghiệp mình, cho thuê doanh nghiệp (phải làm
đơn), việc thừa kế doanh nghiệp tư nhân cũng phải được đảm bảo nhưng không
được tặng cho doanh nghiệp tư nhân, được hưởng lợi nhuận...

4.1 Nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân


+
+
+
+
+
+

Khai báo đúng ngành nghề đầu tư, vốn đầu tư.
Kinh doanh đúng ngành nghề đã đăng kí.
Trả lương đúng quy định, ưu tiên người lao động trong nước.
Đảm bảo đúng tiêu chuẩn của sản phẩm đăng kí.
Thực hiện chế độ kế toán, thống kê theo quy định của pháp luật.
Phải nộp thuế và một số nghĩa vụ tài chính khác cho ngân hàng nhà nước.

Một số chú ý:

Doanh nghiệp tư nhân có quyền đặt chi nhánh kể cả nước ngồi nhưng
phải có ý kiến của chính phủ.
Do doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh
doanh nên cho dù doanh nghiệp tư nhân khơng cịn tồn tại nhưng người chủ
doanh nghiệp tư nhân vẫn cịn vì vậy các chủ nợ vẫn đòi lại được nợ của mình.
CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁT PHÁT TRIỂN DOANH
NGHIỆP TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng phát triển các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam
Nếu như các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trị là trụ cột, xương sống đối với
nền kinh tế của Việt Nam thì bộ phận doanh nghiệp tư nhân lại có ý nghĩa trong
việc ni dưỡng và mở rộng nền kinh tế, đóng góp quan trọng và chủ yếu vào
nguồn thu ngân sách nhà nước. Cụ thể là, trong nhóm 30 cổ phiếu có vốn hóa
vượt mức 1 tỉ USD thì đã có đến 13 mã cổ phiếu thuộc doanh nghiệp tư nhân
(chiếm đến 41,98% tổng vốn hóa của nhóm 30 mã). Bên cạnh đó, thực tế cũng
cho thấy là doanh nghiệp tư nhân đã và đang tham gia đầu tư xây dựng vào các
cơng trình lớn, góp phần thay đổi đáng kể diện mạo của đất nước, tiêu biểu như
Sungroup, Vingroup, Thaco, … Hay như sự xuất hiện của Vietjet Air, Bamboo
Airway đã phá vỡ thế độc quyền của Vietnam Airline và nâng cao tính cạnh
tranh hơn cho thị trường hàng khơng, đồng thời giúp người dân được được tiếp
cận hơn đến nhiều lợi ích.
Đặc biệt, đã có những doanh nghiệp tư nhân thực hiện đầu tư ra nước ngồi với
quy mơ vốn ngày càng tăng. Điển hình như Cơng ty cổ phần Tập đồn Hồng
Anh Gia Lai cùng với Cơng ty cổ phần ôtô Trường Hải (THACO) và Công ty cổ
phần Golf Long Thành, thực hiện đầu tư ra nước ngoài với vốn đăng ký vượt 1 tỉ
USD.


Tuy nhiên, một thực tế là, dù số lượng của doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam là
rất lớn (chiếm hơn 97%) nhưng giá trị đóng góp vẫn chủ yếu đến từ một số ít
các doanh nghiệp tư nhân lớn chứ vẫn chưa phải đến từ sự phát triển đống đều

của cả nhóm doanh nghiệp tư nhân. Điều này là do trong số 97% nói trên thì chỉ
có một số rất ít các doanh nghiệp tư nhân đủ lớn, cịn đa phần vẫn là các doanh
nghiệp nhỏ, chưa có đủ nguồn vốn cũng như năng lực để mở rộng.
Thậm chí, một cản trở nữa để nhóm doanh nghiệp tư nhân Việt Nam phát triển là
cịn đến từ chính tư duy kinh tế của chính bản thân doanh nghiệp. Theo số liệu
thống kê thì cho thấy, hơn 50% doanh nghiệp tư nhân vay vốn ngân hàng chủ
yếu để phục vụ cho mục đích trang trải hoạt động, chứ chưa chú trọng vào đầu
tư cho đổi mới sáng tạo, thiết bị máy móc hay cơng nghệ. Đồng thời, các doanh
nghiệp tư nhân cũng chưa chú trọng vào chất lượng nguồn nhân lực. Theo kết
quả điều tra cho thấy là thậm chí số chủ của doanh nghiệp tư nhân hiện nay vẫn
có gần 50% là có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, cịn lực lượng lao
động thì có tới 75% chưa qua đào tạo chun mơn kỹ thuật. Do đó, mà quy mô
của các doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam vẫn mãi cầm chừng, kết quả là số
lượng các doanh nghiệp tư nhân từ nhỏ vươn lên quy mô vừa và từ quy mô vừa
lên quy mô lớn là rất thấp.
Ngồi ra, mơi trường kinh doanh thiếu thuận lợi cũng là một yếu tố ảnh hưởng
nhiều đến sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam.
2. Giải pháp phát triển các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam
Để đưa ra được các giải pháp giúp doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam phát
triển thì phải xuất phát từ những nguyên nhân cản trở sự phát triển đó. Vì vậy
mà giải pháp đầu tiên là nhà nước cần đưa ra được một môi trường kinh doanh
thuận lợi hơn. Cụ thể là phải quản lý tốt các khâu hành chính trong q trình làm
việc với doạnh nghiệp tư nhân, tránh tình trạng làm phát sinh nhiều các chi phí
khơng chính thức, làm các doanh nghiệp e ngại khi phải thực hiện các thủ tục để
mở rộng quy mô. Đồng thời, nhà nước cũng cần phân phối hài hòa các nguồn tài
nguyên và phát triển cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện phát triển tốt nhất cho nhóm
doanh nghiệp tư nhân.


Bên cạnh đó nhà nước cũng cần đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới tư duy và nâng

cao nhận thức cho các doanh nghiệp tư nhân để có đường lối phát triển đúng
đắn.Cụ thể là định hướng phát triển nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo và
khởi nghiệp, đổi mới căn bản hệ thống giáo dục và đào tạo theo hướng gắn với
hoạt động thực tiễn, …
Giảm thiểu sự "lấn sân" và chi phối của các doanh nghiệp nhà nước đối với khu
vực tư nhân. Đồng thời có chính sách tăng cường sự liên kết giữa doanh nghiệp
tư nhân và các loại hình doanh nghiệp khác để đảm bảo sự phát triển hài hòa
chung trong nền kinh tế.
CHƯƠNG 3 – VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân
Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW năm 2017 đến nay, khu vực kinh
tế tư nhân Việt Nam có sự phát triển mạnh cả về chất, lượng và quy mơ, tiếp tục
là động lực chính trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Theo tính tốn, nếu đầu tư tư nhân (chưa tính đến hộ kinh doanh cá thể) tăng
1%, sẽ giúp GDP của Việt Nam năm 2020 tăng trưởng thêm khoảng 0,15 điểm
%. Trong số đó, rất nhiều doanh nghiệp tư nhân đã trở thành "những con sếu đầu
đàn", dẫn dắt trong đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học - công nghệ trong phát
triển kinh tế của đất nước.
Khảo sát trong 5 năm trở lại đây, kinh tế Việt Nam được thế giới biết đến qua
những tên tuổi các tập đoàn tư nhân như: Vingroup, Sun Group, T&T Group,
Thaco, Vietjet, TH True Milk, Masan... Nhiều doanh nghiệp tư nhân đạt kim
ngạch xuất khẩu hàng triệu USD, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng, thu
ngân sách và giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh, xã hội. Thống kê cho thấy,
29 doanh nghiệp Việt Nam đã có giá trị vốn hóa trên thị trường chứng khốn
vượt con số 1 tỷ USD.
Có thể khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân là “tấm đệm giảm sốc” cho nền kinh
tế, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế đang bị tác động bởi các yếu tố bất định
như dịch Covid-19; biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, mưa
đá...

Trong giai đoạn đại dịch Covid-19 vừa qua, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã
chung tay cùng các bộ, ngành và Chính phủ góp phần chống dịch hiệu quả, động


thái này thể hiện sự đồng hành hiệu quả 3 bên, giữa Chính phủ - Doanh nghiệp Người dân.
Nhằm hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân vượt qua khó khăn, thách thức, phục hồi
và phát triển sản xuất kinh doanh, Chính phủ đã kịp thời ban hành các chính
sách hỗ trợ trọng tâm như: (1) Hỗ trợ nền kinh tế, chia sẻ gánh nặng và khó khăn
với người dân, doanh nghiệp thơng qua các giải pháp về tài khóa, tiền tệ, tín
dụng, hướng tới đối tượng là các doanh nghiệp, người lao động bị mất việc làm,
góp phần tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội;
(2) Giảm chi phí và áp lực tài chính ngắn hạn cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh;
(3) Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; đẩy nhanh tiến độ dự án đầu tư quan
trọng quốc gia; (4) Cải cách thủ tục hành chính, cải thiện mơi trường kinh
doanh, huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển…
2.Kinh tế tư nhân - “lực kéo” quan trọng của nền kinh tế Việt Nam
Thời gian qua, đồng hành cùng các khu vực kinh tế khác, khu vực kinh tế tư
nhân tiếp tục phát huy sức mạnh nội tại và trở thành “lực kéo” quan trọng của
nền kinh tế nước ta, cụ thể như:
Thứ nhất, khu vực kinh tế tư nhân duy trì sự đóng góp đáng kể vào nguồn thu
ngân sách nhà nước. Cụ thể, lũy kế 9 tháng đầu năm 2020, khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh (bao gồm kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân) đã thể hiện được khả
năng chống chịu lớn nhất trong ba khu vực, mức thu ngân sách giảm 9,5% so
với thực hiện năm 2019, trong khi khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực
có vốn FDI tiếp tục là khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng, giảm lần lượt là
15,7% và 11,3%.
Điều này cho thấy, doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thể hiện vai trị là cơng cụ
điều tiết của Nhà nước khi nền kinh tế gặp khó khăn và khu vực kinh tế tư nhân
tiếp tục thể hiện được vai trò là động lực quan trọng như khẳng định tại Nghị
quyết số 10-NQ/TW.

Thứ hai, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục là
một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế, khi vốn
đầu tư khu vực kinh tế tư nhân trong quý III/2020 tăng gấp đôi quý II/2020 và
đạt 7,4% so với cùng kỳ năm 2019.
Tính trong 9 tháng năm 2020, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 4,8% bằng 1/2 tốc độ
tăng thấp nhất trong giai đoạn 2016-2019. Sự gia tăng vốn đầu tư toàn xã hội so
với cùng kỳ năm trước chủ yếu nhờ lực kéo của vốn đầu tư từ ngân sách, trái
phiếu chính phủ (tăng lần lượt 48,9% và 8,1%) và một phần không nhỏ của đầu
tư tư nhân (tăng 2,8%), trong khi nguồn vốn quan trọng là đầu tư nước ngoài suy
giảm (-2,5%).


Thứ ba, bất chấp những tác động tiêu cực do Covid-19 gây ra, 9 tháng đầu năm
2020, vẫn có gần 99 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, chỉ giảm 3,2% so với
cùng kỳ năm 2019; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động lại đạt tới 34,6 nghìn
doanh nghiệp, tăng 25,5% so với cùng kỳ; số doanh nghiệp tăng vốn là 29,5
nghìn doanh nghiệp. Nhờ vậy, 9 tháng đầu năm 2020, tổng số vốn đăng ký bổ
sung vào nền kinh tế đạt 3.601,9 nghìn tỷ đồng, tăng 19,2% so với cùng kỳ năm
2019.
Có thể thấy, các doanh nghiệp đã và đang nỗ lực vươn lên trong khó khăn với
trọng tâm là: (i) Cắt giảm chi phí, duy trì quan hệ hoặc tìm kiếm đối tác và thị
trường mới; (ii) Chuyển đổi mơ hình kinh doanh thơng qua ứng dụng cơng nghệ
thông tin; (iii) Chuyển đổi sản phẩm trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị trường
đối với các mặt hàng thiết yếu và gắn với xu thế tiêu dùng phù hợp với bối cảnh
đại dịch; (iv) Cập nhật thông tin về diễn biến dịch bệnh để tìm kiếm cơ hội kinh
doanh, tiếp cận thị trường khi dịch bệnh được đẩy lùi; (v) Tận dụng các chính
sách ưu đãi của Nhà nước để duy trì hoạt động, đầu tư phát triển hạ tầng sản
xuất kinh doanh…
3. Những khó khăn, thách thức
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, khu vực kinh tế tư nhân cũng phải đối mặt

với những khó khăn, thách thức bởi các vấn đề hạn chế, bất cập nội tại của nền
kinh tế nói chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng, cụ thể như:
Một là, khả năng chống chịu của các doanh nghiệp trước những khó khăn do
Covid-19 gây ra ngày càng suy giảm. Trong tháng 9/2020, mặc dù tâm lý của
người dân và cộng đồng doanh nghiệp đã dần ổn định trở lại sau khi dịch Covid19 tái xuất hiện, nhưng số lượng doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh để giải thể
còn lớn, lên tới 9.101 doanh nghiệp trong quý III/2020.
Tác động của đại dịch Covid-19 đến các ngành, các doanh nghiệp ngày càng
hiện hữu. Báo cáo khảo sát doanh nghiệp của Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế
tư nhân (9/2020) cho thấy, ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, có 20% doanh nghiệp
được khảo sát đã phải tạm dừng hoạt động; 76% doanh nghiệp không cân đối
được thu, chi; 2% doanh nghiệp đã giải thể; chỉ có 2% doanh nghiệp tạm thời
chưa bị ảnh hưởng bởi đại dịch.
Các khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp hiện nay và thời gian tiếp theo là: (i)
Khơng có khách hàng/đơn hàng/hợp đồng tiêu thụ sản phẩm; (ii) Khó khăn
trong đảm bảo trả lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, kinh phí cơng đồn; (iii) Khó khăn trả tiền vay ngân hàng (gốc và lãi);
(iv) Khó khăn trả tiền điện, nước và nguyên liệu đầu vào; khó khăn trả tiền thuê
kho bãi, nhà xưởng, văn phòng, thiết bị. Trong lĩnh vực du lịch, phần lớn doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (làm dịch vụ đại lý tour, bán vé) sa thải 100% lao động,
doanh nghiệp lữ hành quốc tế sa thải khoảng 80% lao động.


Đồng thời, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên
thị trường chứng khoán cũng cho thấy bức tranh khó khăn của các doanh nghiệp.
Theo thống kê, 9 tháng đầu năm 2020, chỉ có 4/18 ngành khơng bị ảnh hưởng
bởi dịch Covid-19 và có khả năng tiếp tục phát triển, bao gồm: Ngành Dịch vụ
tài chính có lợi nhuận sau thuế tăng 156,2% so với cùng kỳ năm 2019; ngành
Bảo hiểm (Lợi nhuận sau thuế tăng 61,1%); ngành Tài nguyên cơ bản (Lợi
nhuận sau thuế tăng 11,1%); ngành Thực phẩm và Đồ uống (Lợi nhuận sau thuế
tăng 8,9%). 10/18 ngành có lợi nhuận suy giảm, trong đó du lịch và giải trí bị

ảnh hưởng nặng nề nhất, với doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế giảm lần
lượt 67,2% và 376,8% so với cùng kỳ năm 2019. Tiếp đến là dầu khí với lợi
nhuận sau thuế giảm 130,1%.
Theo khảo sát của Fiingroup, chỉ trừ ngành Viễn Thông, các ngành khác đều cho
thấy số lượng doanh nghiệp thua lỗ phổ biến từ 15%-50%. Nhiều doanh nghiệp
ngay tại thời điểm giữa tháng 5/2020 khi dịch Covid-19 tạm thời được kiểm sốt
đều đặt mục tiêu có lợi nhuận, tỷ lệ số doanh nghiệp đang thua lỗ tin tưởng sẽ có
lãi trong cả năm 2020 khá cao ở tất cả các ngành. Tuy nhiên, sự bùng phát dịch
đợt 2 vào cuối tháng 7/2020 đã làm thay đổi đáng kể triển vọng trên của các
doanh nghiệp.
Hai là, các chính sách hỗ trợ chưa thực sự có hiệu quả. Trên thực tế, các giải
pháp hỗ trợ của Chính phủ cho tới nay mới chỉ thực hiện được một phần nhỏ,
chưa tạo ra động lực giúp doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn. Theo
Ngân hàng Thế giới, kết quả triển khai các chính sách hỗ trợ (gói 62 nghìn tỷ
đồng) đạt thấp hơn rất nhiều so với dự kiến, khoảng 12,75%, do tiêu chí điều
kiện nhận hỗ trợ phức tạp. Kết quả thực hiện các chính sách miễn, giảm, giãn
thuế, phí và lệ phí và tiền thuê đất chỉ đạt hơn 35% giá trị gói hỗ trợ.


Như vậy, nguồn lực dành cho gói hỗ trợ lần 1 chưa được khai thác triệt để. Gói
hỗ trợ càng chậm triển khai, hiệu quả và kỳ vọng đặt ra ban đầu càng giảm,
trong khi các doanh nghiệp, người lao động và người dân đang chịu tác động
nặng nề sau 2 đợt dịch Covid-19 bùng phát. Vì thế, các bộ, ban, ngành, địa
phương cần nhanh chóng tháo gỡ vướng mắc, nút thắt để khơi thơng dịng vốn,
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân bị tác động hiệu quả bởi dịch
Covid-19 có thể sớm tiếp cận các gói hỗ trợ.
Ba là, mục tiêu phát triển 1 triệu doanh nghiệp năm 2020 khó đạt được, khi số
lượng doanh nghiệp đang hoạt động tại thời điểm 30/9/2020 mới đạt 794.858
doanh nghiệp. Ngồi tác động của dịch Covid-19, cịn do các ngun nhân sau:
Nỗ lực đổi mới thể chế chậm được triển khai (Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công,

Luật Doanh nghiệp đều đến năm 2019 mới được sửa đổi và có hiệu lực vào năm
2020); chưa tạo được sự đột phá về cải thiện môi trường kinh doanh.
Đổi mới hoạt động của các đơn vị sự nghiệp cơng lập cịn chậm, tính tự chủ về
tổ chức cán bộ, tài chính và hoạt động chưa cao; chưa thực hiện được lộ trình
tính đầy đủ chi phí đề ra; đại dịch Covid-19 cũng làm cho nguồn thu sự nghiệp
của các đơn vị khó khăn hơn. Việc thực hiện tinh giản biên chế hưởng lương từ
ngân sách nhà nước, tăng mức tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập gặp
nhiều thách thức.
Bốn là, khu vực doanh nghiệp trong nước gia tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu
một số mặt hàng khơng có lợi thế cạnh tranh, điều này cần được đánh giá chính
xác để tránh các nhận định sai lầm. Nếu là năng lực xuất khẩu thực sự của các
doanh nghiệp trong nước thì đây là tín hiệu đáng mừng về sự phát triển của các
doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, nếu đây chỉ là hàng nhập khẩu từ một nước
thứ ba, sau đó núp bóng doanh nghiệp Việt Nam để xuất khẩu sang nước khác,
thì xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sẽ bị áp thuế lẩn tránh, điều này ảnh hưởng
tới hoạt động sản xuất kinh doanh về trung và dài hạn.
Năm là, giải ngân vốn đầu tư cơng cịn chậm so với kế hoạch, mặc dù Chính
phủ, Bộ Tài chính đã vào cuộc khá mạnh mẽ, quyết liệt ngay từ đầu năm 2020.
Điều này làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, tăng chi phí quản lý vốn vay, gây lãng
phí và trong bối cảnh đại dịch Covid-19, không mang lại hiệu ứng lan tỏa, cũng
như thúc đẩy sự tăng trưởng của các nguồn vốn khác, trong đó có vốn đầu tư tư
nhân.
Nguyên nhân là do chậm trễ thực hiện các quy định của các quan trung ương và
địa phương. Ngoài ra, hiệp định vay vốn ODA có thời gian xây dựng, đàm phán
dài, nay tình hình tiến độ thay đổi, song việc điều chỉnh hiệp định vẫn phải trải
qua nhiều thủ tục và mất nhiều thời gian.


4. Phát huy tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân
Trong dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2021-2030, các

chuyên gia tư vấn đã đặt ra các vấn đề cần giải quyết để kinh tế tư nhân thực sự
trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế Việt Nam.
Trong đó, xóa bỏ các rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới, sáng tạo, hiện đại hóa cơng nghệ
và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình
thành, phát triển những tập đồn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng
cạnh tranh trong khu vực và quốc tế; đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, có ít
nhất 2 triệu DN với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt
60%-70%.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nguồn lực hỗ trợ đang dần tiến đến giới hạn. Nếu kinh
tế thế giới tiếp tục diễn biến xấu, trước mắt Chính phủ cần xây dựng kịch bản
ứng phó mang tính dài hạn, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên hạn chế đổ vỡ
trong nước và không đẩy các giới hạn an tồn vĩ mơ q xa.
Đồng thời, đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công hỗ trợ trực tiếp (nhất là
nguồn tài chính thiết thực) cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
gặp khó khăn, doanh nghiệp đang tạm ngừng sản xuất kinh doanh để khôi phục
lại sản xuất kinh doanh; xây dựng các kịch bản hỗ trợ các doanh nghiệp lớn có
nguy cơ mất khả năng thanh toán; tiếp tục thúc đẩy các hoạt động xuất khẩu để
tận dụng đà xuất khẩu đang phục hồi.
Triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp căn cơ như: cải thiện môi trường
kinh doanh, thúc đẩy tiêu dùng trong nước, cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà
nước, khắc phục điểm nghẽn hạ tầng, chủ động thu hút các dự án đầu tư nước
ngoài trong xu hướng điều chỉnh chuỗi cung ứng toàn cầu. Các doanh nghiệp
cần đẩy mạnh kích cầu thị trường trong nước, nỗ lực xây dựng thương hiệu; chủ
động đẩy mạnh, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh
của các ngành và sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở đầu tư cơng nghệ, nguồn nhân
lực… Các hiệp hội cần tích cực đẩy mạnh các biện pháp nhằm nâng cao vị thế
của doanh nghiệp, kết nối các doanh nghiệp trong và ngoài nước…
Đặc biệt, để khu vực kinh tế tư nhân thực sự làm tốt vai trò lực đẩy, trong giai
đoạn 2021-2030, Nhà nước tiếp tục tạo không gian phát triển, tạo cơ hội cho

kinh tế tư nhân, đặc biệt doanh nghiệp tư nhân khai thác, sử dụng nguồn lực
quốc gia phân bổ lại từ khu vực kinh tế tư nhân cho phát triển. Đẩy mạnh cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp mà
Nhà nước không cần nắm giữ vốn, giảm tối đa mức nắm giữ cổ phần nhà nước.
Theo đó, tập trung vào các vấn đề cốt lõi: Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ
yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Đổi mới tư duy
và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc


Cách mạng cơng nghiệp 4.0 gắn với q trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền
kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh; Cải cách, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật
hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước.
Tình hình dịch bệnh vẫn cịn nhiều bất định và kinh tế thế giới có thể diễn biến
theo các chiều hướng khác nhau. Do đó, trong điều hành, các cơ quan Nhà nước
cũng cần bám sát diễn biến của dịch bệnh, tác động của thiên tai, biến đổi khí
hậu để kịp thời có các kịch bản điều hành, ứng phó phù hợp với tình hình thực
tiễn.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính, Báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước 9 tháng

đầu năm 2020
2. Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005
3. “Doanh nghiệp với vấn đề môi trường”, báo điện tử vnexpress.net
(3/3/2012)
4. Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam, Kỷ yếu Diễn đàn doanh
nghiệp “Lựa chọn nào thời hậu Covid?”, Tháng 7/2020“Điểm khác nhau

về bối cảnh
5. “Việt Nam chưa có tập đoàn kinh tế đúng nghĩa”, báo điện tử
dantri.com.vn (27/9/2007)
6. “Phát triển tập đoàn kinh tế Việt Nam – vẫn dò đi từng bước”, báo điện
tử doisongphapluat.com



×