Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

NHỮNG TƯ TƯỞNG, HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ MÀ HỒ CHÍ MINH ĐÃ TIẾP THU, VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.12 KB, 56 trang )

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO

Học phần: Lịch sử các học thuyết chính trị

ĐỀ TÀI:
NHỮNG TƯ TƯỞNG, HỌC THUYẾT
CHÍNH TRỊ MÀ HỒ CHÍ MINH ĐÃ TIẾP
THU, VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN
CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Hà Nội, tháng 6 năm 2021


MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU:...............................................................................3
B. NỘI DUNG.........................................................................................6
PHẦN LÝ LUẬN..................................................................................6
1. Tìm hiểu chung về Chủ tịch Hồ Chí Minh................................ 6
2. Tình hình thế giới tác động đến việc hình thành tư tưởng của
Hồ Chí Minh:........................................................................................8
3. Nội dung tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh.......................16
II. PHẦN 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN:...............................................19
1. Hồ Chí Minh đã áp dụng những tư tưởng đó vào tình hình xã
hội bấy giờ........................................................................................ 19
2. Liên hệ bản thân:....................................................................... 33
C. KẾT LUẬN:......................................................................................33
TƯ LIỆU THAM KHẢO..................................................................... 34

2




A. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Trong Từ điển Danh nhân văn hóa thế giới, trong lĩnh vực chính trị - xã
hội, đã ghi rằng: " Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngọn cờ đầu của giải phóng dân tộc.
Người đã dẫn dắt triệu triệu người Việt Nam cùng hàng ngàn triệu người nô lệ
hơn 100 nước trên thế giới vùng lên giành độc lập tự do, chống chủ nghĩa thực
dân cũ và mới. Người đã làm nên cuộc đảo lộn thế giới chưa từng có từ sau khi
chủ nghĩa tư bản lật đổ đế chế La Mã cổ xưa. Người đã vẽ lại bản đồ thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xứng đáng là Danh nhân văn hóa thế kỷ XX ". Chủ tịch
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ đời đời nhân dân ta tơn kính, là vị anh hùng đã đưa đất
nước ta có được những ngày tháng hịa bình như ngày hơm nay. Ngày 19/5/2021
vừa qua là ngày kỉ niệm 131 năm ngày sinh của Bác (19/5/1890- 19/5/1969).
Việt Nam đang trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, hướng tới hội nhập quốc
tế, phát triển nhằm sánh vai với các cường quốc năm châu, để được như ngày
hôm nay, không thể quên đi công lao vĩ đại của Hồ Chủ Tịch ngày ấy đã khơng
ngại gian khó mà tìm đường cứu nước.
Trong q trình tìm đường cứu nước cứu dân và định hình đường lối
chính trị giải phóng, giành độc lập dân tộc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
khơng chỉ hoạt động ở châu Âu, ở các nước phương Tây tư bản chủ nghĩa, mà
Người cịn hoạt động ở phương Đơng, châu Á, tìm hiểu thực tiễn các phong
trào đấu tranh ở Trung Quốc và Thái Lan. Những cứ liệu từ thực tiễn đó giúp
cho Người so sánh, phân tích, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong
các kết cấu kinh tế - xã hội, các mâu thuẫn giai cấp và dân tộc ở những khu vực
địa chính trị tiêu biểu, nơi diễn ra những phân hóa và mâu thuẫn giai cấp, dân


tộc rất khác nhau giữa phương Tây và phương Đông, giữa các nước tư bản
châu Âu với các



nước châu Á đang còn tồn tại rất nhiều tàn tích phong kiến và đang là đối tượng
khai thác, nơ dịch của chủ nghĩa thực dân. Từ những kiến thức Người thu nhận
được, Hồ Chủ tịch đã tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa phương Đơng,
phương Tây, khơng ngừng bồi bổ tri thức, đồng thời góp phần bổ sung, phát
triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hình thành tư tưởng khoa học, cách mạng, tiến bộ,
chân chính thuộc hệ tưởng giai cấp cơng nhân - tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, chi tiết các tư tưởng, học thuyết ấy thì nhiều người nói chung hay sinh
viên nói riêng có thể chưa biết hoặc chưa nắm vững. Để giải quyết khúc mắc ấy,
sinh viên đã quyết định chọn “Những tư tưởng, học thuyết chính trị mà Hồ
Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam” làm đề
tài cho tiểu luận kết thúc học phần của sinh viên,
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Góp phần cung cấp hiểu biết, kiến thức về những tư tưởng, học thuyết
chính trị mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam thời bấy giờ như vai trò của những học thuyết ấy cịn có giá trị
như thế nào đối với thời hiện đại ngày nay.
Để hồn thành mục đích như vậy, tiểu luận đã thực hiện các nhiệm vụ bao
gồm giới thiệu khái quát về Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu định nghĩa, phân tích
chi tiết các học thuyết, tư tưởng chính trị nổi bật từ phương Đơng đến phương
Tây mà Người đã học hỏi và tiếp thu cũng như vận dụng sáng tạo vào cách
mạng Việt Nam. Từ đó liên hệ tới vai trò, trách nhiệm của sinh viên hiện nay
trong việc gìn giữ những giá trị tốt đẹp, bài học kinh nghiệm quý giá Người đã
để lại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu xoay quanh các tư tưởng, học thuyết chính trị nổi bật của
của thế giới mà Hồ Chủ Tịch đã tiếp cận và tiếp thu, vận dụng. Cùng với đó là



những nội dung xoay quanh tư tưởng chính trị mà Hồ chủ tịch đã đúc kết ra và
vận dụng trong đời sống như thế nào.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu vấn đề dựa vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác –
Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chủ trương đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng
duy vật với các phương pháp như: thống nhất logic và lịch sử, phân tích, tổng
hợp, khái quát hóa và hệ thống hóa.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài giải quyết được vấn đề lý luận liên quan đến những tư tưởng tìm
ra nguyên nhân và cách thức tiếp cận của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với những
học thuyết ấy. Cùng với đó giúp mang đến kiến thức một cách chi tiết, hệ thống
hoá các chức năng và vai trị của các học thuyết chính trị trong lịch sử, nêu
được sự ảnh hưởng, tác động của chúng đến thực tiễn cách mạng Việt Nam
trong bối cảnh thời bấy giờ.

Sinh viên thực hiện


B.

NỘI DUNG:

PHẦN LÝ LUẬN

1. Tìm hiểu chung về Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học
lấy tên là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều hoạt động cách mạng lấy tên là
Nguyễn Ái Quốc. Người sinh ngày 19/5/1890 tại làng Kim Liên, xã Nam Liên,

huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 2/9/1969 ở Hà Nội.
Người vốn xuất thân trong một gia đình nhà Nho, có cha là Nguyễn Sinh
Sắc, một nhà Nho lớn và cũng là người thầy dạy đầu tiên của Người, mẹ là Hoàng
Thị Loan - một người phụ nữ khi còn trẻ đã nổi tiếng thông minh, thuỳ mị, nết na,
rất chăm chỉ làm việc đồng áng, đêm đến luôn miệt mài bên khung cửi se tơ, dệt
lụa. Từ lúc sinh ra đến khi năm tuổi, Người sống trong sự chăm sóc đầy tình
thương u của gia đình, đặc biệt là ơng bà ngoại. Sau này lớn lên, khi mẹ qua đời,
Người đã theo cha trở về Nghệ An, đổi tên sang Nguyễn Tất Thành, tích cực học
chữ Hán và cịn theo cha đi một số nơi, học thêm nhiều điều.
Trên hành trình tìm đường cứu nước của mình, Người đã có một số hoạt
động nổi bật như tháng 6/1919 đã gửi tới Hội nghị Vécxai Bản yêu sách của
nhân dân An Nam đòi quyền tự do, dân chủ, bình đẳng, quyền tự quyết cho dân
tộc Việt Nam. Năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
tại Quảng Châu (Trung Quốc) nhằm tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh,
đồng thời mở lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam, chủ yếu
để truyền


bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, giác ngộ và nâng cao ý thức chính trị
cho giai cấp công nhân, thúc đẩy phong trào công nhân đấu tranh tự phát thành
đấu tranh tự giác. Ngày 6/1/1930, Người triệu tập Hội nghị thành lập Đảng tại
Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) và thơng qua Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt,.. do Người soạn thảo. Đây là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, lãnh đạo sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Người đã sáng lập Đảng ta, sáng lập lực lượng vũ trang nhân dân, sáng lập
nước Việt Nam dân chủ cộng hồ và phấn đấu khơng mệt mỏi để góp phần tăng
cường đồn kết trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế.

Cùng với Trung ương Đảng, Hồ Chủ tịch đã lãnh đạo 2 cuộc cách mạng ở
nước ta: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa; lãnh
đạo hai cuộc kháng chiến lâu dài chống quân xâm lược: chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, lãnh đạo nhân dân ta xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội.
Đức độ cao quí của Người là trung với Đảng, hiếu với dân, cần kiệm liêm
chính, chí cơng vơ tư, chân thành, khiêm tốn, giản dị. Người thương yêu tha thiết
nhân dân lao động; gần gũi quần chúng và tin tưởng tuyệt đối vào khả năng và sức
mạnh của quần chúng nhân dân.
Như vậy, có thể thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của
cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính u của giai cấp cơng nhân và của cả dân
tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong
trào


cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc1

2. Tình hình thế giới tác động đến việc hình thành tư tưởng của
Hồ Chí Minh:
a. Q trình hình thành:
Vào những năm giữa thế kỉ XIX, phương thức sản suất tư bản chủ nghĩa đã
thống trị ở Anh, Pháp, Đức và một số nước Tây Âu. Trong xã hội mâu thuẫn cơ
bản giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt. dẫn đến cuộc đấu
tranh của giai cấp vơ sản nhằm xố bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa địi hỏi phải có lý
luận tiên phong chỉ đuờng, chủ nghĩa Mác đã ra đời “ tuyên ngôn của Đảng Cộng
Sản” đã khẳng định quy luật tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản để nhường
bước cho một xã hội mới, đồng thời chỉ rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển sang giai đoạn
chủ nghĩa đế quốc đã hoàn thành căn bản việc phân chia thế giới, nô dịch các dân

tộc thuộc địa, thế giới chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại, phản ánh xu thế
biến động đầy kịch tính của xã hội lồi người, đa số các quốc gia Phương Đông
các nước lạc hậu ở Châu Phi, Châu Mỹ Latinh đã bị xâm chiếm làm thuộc địa chỉ
một số ít nước là đế quốc Anh, Pháp, Bồ Đào Nha , Tây Ban Nha, Hà Lan, Mỹ ..
nơ dịch và bóc lột đa số nhân loại những mâu thuẫn lớn trong thời kỳ này ngày
càng gay gắt: mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước đế
quốc ; mâu thuẫn giữa các dân tộc với bè lũ thực dân; mâu thuẫn giữa quảng đại
quần chúng lao động chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, trước
hết là với triều đình phong kiến ở các nước thuộc địa ở phương đông; mâu thuẫn
giữa giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa với giai cấp tư sản bản xứ và với tư
sản thực dân ; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau vv… những mâu thuẫn
đó tích tụ lại tạo thành thời


1

Chính phủ Việt Nam 1945-1998, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1999.


kì bão táp cách mạng và chiến tranh ở những năm đầu thế kỉ 20. Mở đầu thời kì
bão táp là cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại năm 1917, trước đó phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa diễn ra liên tục và mạnh mẽ, nhất là ở các nước
thuộc địa phương Đông nơi tồn tại hàng nghìn năm của chế độ phong kiến. Tuy
nhiên các phong trào đó đều thất bại vì người lãnh đạo phần lớn là giai cấp địa chủ
phong kiến, số ít là lãnh tụ nơng dân và sau đó thuộc giai cấp tư sản dân tộc; vì
mục tiêu phong trào chỉ hướng vào mục tiêu dân tộc, ít nhắm vào mục tiêu dân chủ
và không nhằm mục tiêu giải phong triệt để nhân dân lao động; do dường lối
không đúng lên không thu hút được sức mạnh của cả dân tộc. Cách mạng tháng
mười Nga thành cơng vì cuộc cách mạng này do giai cấp vô sản lãnh đạo, đứng
đầu đảng cộng sản bơn-sê- vích nga

Và Lênin vĩ đại; vì mục tiêu của đó nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn
lớn nhấtt của thời đại ở nước Nga đế quốc lúc bấy giờ, giải phóng triệt để giai cấp
những người lao động, đưa nước Nga tiến lên chủ nghĩa xã hội
Sự thất bại của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc, cũng như sự thành công của cách mạng tháng mười Nga đã chỉ ra rằng : ở
những năm đầu thế kỉ 20, chỉ những phong trào cách mạng có mục tiêu giải quyết
đồng thời những mâu thuẫn lớn của thời đại ở nước mình thì mới có thể đi tới
thắng lợi. Một cuộc cách mạng như vậy chỉ có do giai cấp cơng nhân và đảng cộng
sản ở nước đó đứng ra lãnh đạo và tổ chức dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lê
nin. Cách mạng tháng mười Nga có sứ mệnh vạch ra con đường cách mạng đúng
đắn cho phong trào các mạng thế giới, tuy vậy dưới ánh sáng đó chưa phải một
sớm một chiều mà tới ngay được các nước thuộc địa phương Đơng. Điều này được
chủ tịch hồ chí minh giải thích rất rõ ở bài “ mấy ý nghĩ vấn đề thuộc địa “ của
người. như vậy ở các nước này phong trào giải phóng dân tộc hồn tồn bị bế tắc
về mặt đường lối, bế tắc về người lãnh đạo nó đang chờ một bàn tay chèo lái


Một mâu thuẫn mới của thời đại xuất hiện, đó là mâu thuẫn giữa các dân
tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Chính trong bối cảnh ấy, chủ nghĩa
Mác-Lênin đã xuất hiện tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác, vạch rõ đặc điểm của
chủ nghĩa đế quốc, đề ra lý luận cách mạng vơ sản có thể thành cơng trong một số
nước thậm chí trong một nước. Năm 1917, Lênin đã lãnh đạo cuộc cách mạng
tháng mười Nga thắng lợi, mở ra một thời đại mới trong lịch sử của loài người.
Lúc này, cuộc đấu tranh chống đế quốc ở các nước phương Đông đã diễn ra
mạnh mẽ ở Trung Quốc, Ấn Độ..
Năm 1858, thực dân pháp đưa quân xâm lựơc nước ta, chúng đã áp đặt chế độ
thống trị thuộc địa, biến nước ta từ một nước phong kiến trở thành một nước thuộc
địa nửa phong kiến, chúng đã thi hành các chính sách áp bức bóc lột , đàn áp dã
man nhân dân ta, nhân dân Việt Nam đã kiên quyết đấu tranh tới cùng để giành lại
quyền độc lập tự do cho dân tộc. Từ bắc chí nam trong cả nước dấy lên một làn

sóng cách mạng chống Pháp, nhưng tất cả các cuộc đấu tranh đều bị thất bại, ở
nước ta diễn ra nhiều khuynh hướng cứu nước khác nhau như phong trào Đông
Kinh Nghĩa Thục, khuynh hướng dân chủ tư sản, phong trào tôn giáo cứu thế,
nhưng tất cả đều không đáp ứng được nhiệm vụ của cách mạng việt nam lúc bấy
giờ. Trước sự bế tắc về con đường cứu nước cho dân tộc Hồ Chí Minh đã xuất
hiện, Người đã làm thay đổi vận mệnh của dân tạ việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc sinh tại làng sen , Nam Đàn - Nghệ An, mảnh đất có truyền
thống yêu nước chống ngoại xâm từ lâu đời, có truyền thống hiếu học, Người sinh
ra trong một gia đình nhà nho nghèo, yêu nước tiến bộ. Ngay từ lúc còn nhỏ Người
đã được hấp thụ truyền thống yêu nước, nhân ái của dân tộc. Người đã theo học
nho giáo, sau đó bắt đầu tiếp xúc với văn hoá phương Tây trong những ngày học ở
trường Quốc Học Huế.
Những năm tháng sống tại quê nhà và những buổi đi học ở trường Quốc Học
Huế, Người đã tận mắt được chứng kiến các phong trào đấu tranh như: những cuộc


đấu tranh chống cướp đất, chống sưu cao thuế nặng, chống bắt phu, bắt xâu… và
đã hun đúc lên lòng yêu nước và căm thù bọn bán nước và cướp nước, trong đó có
các phong trào nổi bật nhất đã ảnh hưởng đến người như phong trào Cần Vương
chống pháp của Tơn Thất Thuyết, của Phan Đình Phùng bùng lên rồi bị dập tắt
trong bể máu; phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, cũng như phong trào
Duy Tân của cụ Phan Chu Trinh đều thất bại: cuộc đấu tranh vũ trang của Hoàng
Hoa Thám ở Yên Thế bị đàn áp… với những sự kiện ấy đã đọng lại trong Người
những ấn tượng sâu sắc, đưa đến những suy nghĩ, phân tích về nguyên nhân thất
bại của các phong trào.
Trứơc sự bế tắc về con đường cứu nứơc cho dân tộc. Nguyễn Tất Thành đã
quyết chí rời Tổ Quốc ra đi tìm con đường cứu nước, cứu dân người không đi theo
con đuờng của các bậc tiền bối, mà lại đi sang các nước phương Tây, sang Pháp đi
đến hang ổ của kể xâm lược để “xem nước pháp và các nước khác làm ăn thế nào
rồi trở về giúp đồng bào ta”. Đây là một điều rất mới, rất quan trọng thể hiện bản

lĩnh độc lập và tư duy sáng tạo của Nguyễn Tất Thành.
Ngày 5/6/1911 trên con tàu “đô đốc La Touche Treville” người đã rờ khỏi q
hương thân u của mình đi ra nước ngồi với một tấm lịng u nước tha thiết, với
hồi bão nhất định phải tìm cho được con đường cứu nước cho dân tộc, với lịng
tin ở đơi bàn tay của mình, người đã bắt tay vào công việc làm phụ bếp trên tàu với
tên là Văn Ba.
Người đã đi qua các châu lục khác nhau như Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh,
Châu Âu, từ các nước tư bản phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, đến các nước thuộc
địa; Người đã tiếp xúc với mọi tầng lớp trong xã hội, nhất là những người lao động
cùng khổ. Và nhận ra rằng ở các nước thuộc địa cũng như ở Việt Nam đâu đâu
cũng thấy nỗi tủi nhục, khổ cực của nhân dân các dân tộc bị áp bức và sự dã mam
của bọn đế quốc thực dân , đâu đâu cũng thấy nổi lên khát vọng đứng lên tự giải


phóng. Cịn ở các nước tư bản chủ nghĩa , tự xưng là tiên tiến văn minh thì đâu đâu
cũng chia làm


hai loại người: loại người bóc lột và loại người bị bóc lột. Trong những năm tháng
sống ở Anh, Pháp nhất là khi Người sống ở Pari , Người đã tham gia thành lập và
hoạt động trong các tổ chức của nhưng người Việt Nam yêu nước, tham gia các
hoạt động trong các tổ chức chính trị xã hội, dự các buổi hội thảo tại các câu lạc bộ
của thanh niên , cơng nhân, trí thức, làm quen với các nhà văn hố , các nhà hoạt
động chính trị xã hội nổi tiếng ở Pháp lúc bấy giờ. Năm 1911 người tham gia vào
Đảng Xã Hội Pháp “ thế hệ lửa đạn” , trong bầu khơng khí chống chiến tranh,
chống chủ nghĩa đế quốc. Đầu năm 1919 thay mặt những người Việt Nam yêu
nước ở Pháp, Người đã gửi đến hội nghị Véc - Xây bản “ yêu sách của nhân dân
An Nam”
Những điều tai nghe mắt thấy đấy và những hoạt động chính trị, xã hội, trong
những năm đi khắp các nước, đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc từ tinh thần yêu nước

gắn một cách tự nhiên với tinh thần quốc tế ; từ tình cảm yêu thương , thông cảm
với những người cùng khổ, ý thức giai cấp từng bước được nảy nở và hình thành.
Đó chính là cơ sở tư tưởng để Người phấn khởi tiếp thu “bản sơ thảo luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và đến đại hội Tua vào năm 1920 thì
Người đã kiên quyết đứng về phía quốc tế cộng sản và tin theo Lênin. Đây là bước
ngoặt , một sự chuyển biến về chất trong tư tưởng và cuộc đời của Người. Nguyễn
Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập đảng cộng sản Pháp, và là
người yêu nước chân chính, người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Năm 1923 người rời Pháp sang Liên Xô tham dự đại hội quốc tế nông
dân, Người học tập và làm việc ở đó một thời gian đến cuối năm 1924, trở về
Quảng Châu Trung Quốc . người đã cho xuất bản các tác phẩm nỗi tiếng “ bản án
chế độ thực dân pháp” viết tác phẩm “đường cách mệnh” năm 1925 người thành
lập ra hội việt nam cách mạng thanh niên ra tờ báo thanh niên làm cơ quan ngôn
luận của hội.


Ngày 3/2/1930 theo chỉ thị của quốc tế cộng sản người đã hợp nhất các tổ
chức cộng sản ở việt Nam để thành lập đảng cộng sản Việt Nam, và hội nghị thành
lập đảng đã thơng qua chính cương vắn tắt sách lược vắn tắt do Người soạn thảo,


đuợc coi là cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng như vậy có thể nói với tác phẩm
“ bản án chế độ thực dân pháp”, “đường cách mệnh” và “cương lĩnh đầu tiên của
đảng” , tư tưởng Hồ Chí Minh đã hình thành về cơ bản.
Tuy nhiên tư tưởng của Hồ chí Minh về đường lối cách mạng Việt Nam lúc
này đã bị phê phán là có xu hướng dân tộc, và quốc tế cộng sản đã cử Trần Phú về
nước triệu tập hội nghị ban chấp hành trung ương đảng lần thứ nhất, quyết định đổi
tên đảng cộng sản Việt Nam thành đảng cộng sản Đông Dương. Lúc này người
phải tích cực học tập nghiên cứu hoạt động để bảo vệ quan điểm của mình, Người
đã nỗ lực hết mình để hoạt động bảo vệ quan điểm của mình, bằng sự minh chứng

là người đã cùng nhân dân làm lên cách mạng tháng 8/1945 lập ra nước Việt Nam
dân chủ cộng hồ. Trên đà thắng lợi đó người đã lãnh đạo nhân dân ta chống lại hai
kẻ thù xâm lược đó là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, qua thực tiễn đấu tranh tư
tưởng quan điểm của Người ngày càng thể hiện tính đúng đắn sáng suốt hơn.
Tư tưởng hồ chí minh đã hình thành và phát triển qua một thời kỳ rất dài
trong lịch sử hơn nữa thế kỷ, đã được đảng và nhà nước ta vận dụng trong quá
trình xây dựng đất nước, đảng ta khẳng định rằng “ đảng lấy chủ nghĩa Mác lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động”

b. Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ các yếu tố như sau:
Từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hun đúc
qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh kiên cường bất khuất, tự lực, tự cường. Ở
những thời điểm nước mất nhà tan thì trăm họ đều đứng lên, cố kết một lòng giành
lại bằng được quyền độc lập tự do. Chính tinh thần u nước thương dân, truyền
thống văn hố nhân ái, ý chí tự lực tự cường được khơi dậy trrong hoàn cảnh thực
dân Pháp đã đặt ách thống trị lên nhân dân ta, đã thúc đấy Nguyễn Tất Thành ra đi


tìm đường cứu nước, đó cũng chính là tư tưởng, tình cảm chi phối mọi suy nghĩ,
hành động của


người trong suốt cả cuộc đời mình; là cơ sở để người đến với chủ nghĩa Mác Lênin, vì vậy có thể nói chủ nghĩa yêu nước là một trong những tư tưởng cốt lõi
trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ chí Minh có nguồn gốc từ sự kế thừa có chọn lọc những tinh
hoa triết học và văn hố phương Đơng, phương Tây. Trước khi đến với chủ nghĩa
Mác
–Lênin, Người đã nhiều năm theo học Nho giáo, tinh thong “tứ thư” ngũ kinh” ,
người đã chuyển qua học chữ quốc ngữ và bắt đầu tiếp xúc với văn hố phương tây

với tư tưởng tự do bình đẳng bác ái” , người đã tiếp xức với nhiều nhà tri thức , nhà
chính trị nổi tiếng của Pháp và thế giới, từ đó tiếp thu những tư tưởng dân chủ của
thế kỷ ánh sáng và nền “văn hoá phục hưng”, của cuộc cách mạng tư sản Pháp,
cách mạng tư sản Mỹ, nhất là Pháp, những tư tưởng nhân ái trong nền văn học
Pháp, Nga, Anh..
Người tiếp thu nho giáo, những trên cơ sở chọn lọc lấy tinh hoa loại bỏ
những yếu tố thủ cựu tiêu cực của nho giáo, người tiếp thu triết lý của nhà phật,
của Lão giáo,
Những kiến thức phong phú ấy đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh kết
hợp được truyền thống và hiện đại, tinh hoa văn hố phương Đơng và phương Tây,
cũng như làm cho Người vừa giản dị vừa sâu sắc, vừa dân dã vừa bác học, rất Việt
Nam và rất nhân loại.
Nguồn gốc thứ ba là từ chủ nghĩa Mác – Lênin: người đã đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Đây là bước ngoặt cơ bản trong quá trình hình thành và phát
triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước đã gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vơ sản, làm cho tư
tưởng Hồ Chí Minh được định hình, quyết định bản chất của tư tưởng Hồ Chí
Minh là theo hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, mang tính cách mạng và khoa học.


Chính thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Chủ tịch Hồ Chí
Minh tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn của mình mà tìm ra con đường


cứu nước ảnh hưởng sâu sắc và quyết định ấy đã thể hiện trong câu nói của Người
“chủ nghĩa Lênin là cái cẩm nang thần kỳ” lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước
chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba.
Từng bước một trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin vừa làm
công tác thực tế, dần dần tơi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên

thế giới thốt khỏi ách nơ lệ” Người khẳng định “ bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin và chính vì do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin một
cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam mà chúng tôi đã chiến đấu và giành
được thắng lợi to lớn… ”.
Đó là nguồn gốc lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, ngồi ra tư tưởng
Hồ Chí Minh cịn bắt nguồn từ thực tiễn
Đó là thực tiễn mà người đã sống và hoạt động, từ một người dân mất
nước, qua tìm hiểu thực tiễn các nước khác nhau ở các châu lục khác nhau, đến
thực tiễn hoạt đông trong các tổ chức xã hội và cộng sản, thực tiễn tổ chức xây
dựng lực lượng cách mạng, xây dựng đảng cách mạng. Thực tiễn hoạt động cách
mạng, lãnh đạo cách mạng, chuẩn bị tổng khới nghĩa, lãnh đạo tổng khởi nghĩa,
giành và giữ chính quyền, vừa kháng chiến lâu dài, vừa xây dựng chế độ mới, con
người mới. Trên cương vị một thanh niên tri thức, một thầy giáo, một công nhân
làm nhiều nghề, một nhà báo, một trong những người sáng lập ra đảng cộng sản
Pháp, một cán bộ của quốc tế cộng sản, trở thành lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, lãnh tụ
của đảng và chủ tịch nước trong suốt 24 năm. Thực tiễn ấy là một nguồn gốc, một
cơ sở có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành và phát triển hồn thiện tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Nhân tố cuối cùng tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh đó là nhân cách của
Người, chính nhân cách đó đã sản sinh ra tưởng đó, bản lĩnh, phẩm chất, tình cảm


tư chất, tích cách, phong cách. Ngay từ thời buổi thiếu thời, Hồ Chí Minh đã tỏ
ra là một


người có hồi bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu tình cảm, nhân ái, yêu nước,
thương dân, tư chất thơng minh, tư duy độc lập và sáng tạo, tính ham hiểu biết và
nhạy bén với cái mới là những đức tính của Người. Người là một người hành động

ln có niền tin ở bản thân, ở bàn tay khối óc của mình, của con người, của mọi
người. Những phẩm chất ấy càng được rèn luyện phát huy trong suốt cuộc đời hoạt
động của người. Nhờ vậy, giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa vô vàn lý
thuyết học thuyết khác nhau, giữa biết bao nhiêu tình huống phức tạp,Người đã tìm
hiểu , phân tích, tổng kết, khái qt, tìm ra bản chất , quy luật hình thành những
luận điểm và có những quyết định đúng đắn sáng tạo.
Tóm lại tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa mác lênin, kế
thừa những tinh hoa nhân loại. Là một bước phát triển mới của chủ nghĩa mác
lênin nhằm giải đáp những vấn đề thực tiễn mới do đất nước và thời đại đặt ra.
3. Nội dung tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh
“Độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Độc lập – tự do là
quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc.”
“Khơng có gì q hơn độc lập tự do” là điểm xuất phát và là nội dung lớn
nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ 1919, trong “Bản yêu sách tám điểm” gửi đến Hội nghị Véc-xây, Hồ Chí
Minh cũng chính là người Việt Nam đầu tiên đã thống nhất hai nội dung Độc lập
dân tộc và Tự do của nhân dân trong lịch sử Việt Nam.
Người đã khẳng định: Cách mạng ở thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết
quả của cách mạng vơ sản ở chính quốc mà phải tiến hành song song với cách
mạng ở chính quốc, hơn nữa nó cần phải chủ động, sáng tạo và có thể giành thắng
lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc. Bằng thắng lợi của mình nó có thể đóng


góp vào sự nghiệp giải phóng anh em vơ sản ở phương Tây. Đây không chỉ là
một luận điểm


sáng tạo mà còn là sự phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Từ “Tun ngơn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” đến các lời
kêu gọi sau đó, nhất là các lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến, “Khơng có gì q
hơn độc lập tự do” là chân lý sáng ngời thời đại do Người vạch ra mãi soi sáng cho
cách mạng Việt Nam và cách mạng nhân loại.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi, bao
trùm và xuyên suốt của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nếu trong “Bản yêu sách tám điểm” gửi đến Hội nghị Véc-xây là sự thống
nhất giữa độc lập dân tộc với tự do của nhân dân, thì trong “Đường Kách mệnh” và
trong “Cương lĩnh đầu tiên của Đảng” là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc với
CNXH. Thì từ “Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa” đến
các “Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến” sau này, trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã
được bổ sung thêm quyết tâm cao nhất của dân tộc nhằm giữ vững mục tiêu cao cả
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là chủ nghĩa Mác-Lênin đã Việt Nam hóa bởi Hồ
Chí Minh.
Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Người là tổng
hợp những quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về
nhận thức và hành động của tồn Đảng, tồn dân ta trong tồn bộ tiến trình cách
mạng Việt Nam. Đây là một đóng góp về lý luận vào kho tàng của chủ nghĩa MácLênin, vào lý luận cách mạng xã hội nói chung và cách mạng xã hội chủ nghĩa nói
riêng trong thời đại ngày nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cợng sản Việt Nam, đặc biệt trong điều
kiện Đảng đã nắm chính quyền (Đảng Cợng sản Việt Nam cầm qùn), là mợt
đóng góp mới vào lý luận xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.


×