Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kỳ Lê Nguyễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 37 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
MƠN: VĂN HĨA XÃ HỘI TRUNG QUỐC

Đề tài:

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Quỳnh Chi
Sinh viên: Tô Phương Uyên
MSSV: 1856110148
Lớp: Trung Quốc học K18

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 01 năm 2021


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................. 3
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 4
3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................................ 4
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................. 4
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn .............................................................................. 4
6. Tổng quan tình hình nghiên cứu........................................................................................ 5
7. Bố cục............................................................................................................................... 7
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HỌC THUYẾT TRƯỜNG PHÁI NHO GIÁO VÀ


KHÁI QUÁT SỰ DU NHẬP CỦA TRƯỜNG PHÁI HỌC THUYẾT NÀY VÀO XÃ
HỘI VIỆT NAM ................................................................................................................... 8
I. Khái quát về nho giáo .................................................................................................... 8
II.

Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam ................................................................... 10

CHƯƠNG 2: DẤU ẤN CỦA TƯ TƯỞNG NHO GIÁO TRONG XÂY DỰNG CÁC
MỐI QUAN HỆ GIA ĐÌNH ............................................................................................... 13
I. Gia đình trong quan niệm các nước phương Đơng ....................................................... 13
II.

Gia đình trong quan niệm của Nho giáo .................................................................... 14

III. Ảnh hưởng của Nho giáo đến việc xây dựng các mối quan hệ gia đình qua tư tưởng
của một số trí thức Nho sĩ Việt Nam ................................................................................. 16
1.1. Quan hệ cha – con .................................................................................................... 17
1.2. Mối quan hệ anh – em............................................................................................... 20
1.3. Mối quan hệ chồng – vợ............................................................................................ 23
1.4. Những bài học từ quan niệm của các nhà Nho Việt Nam trong quan hệ gia đình ..... 26
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN VỀ VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY NHO
GIÁO TRONG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY ..... 29
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 37
2


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một trong những quốc gia Đông Nam Á nằm trong vùng tiếp xúc và chịu ảnh
hưởng sâu rộng của văn minh Trung Hoa (Văn hóa Hán) và chịu ảnh hưởng lâu dài của Nho giáo trong
lịch sử. Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam từ hơn 2000 năm trước và đã thực sự bám rễ, phát triển
tại Việt Nam hàng trăm năm nay. Cùng với Phật giáo và Đạo giáo, Nho giáo là một trong những hệ tư
tưởng có ảnh hưởng rộng lớn và đậm nét tới mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam trong quá khứ.
Ngồi việc đóng vai trị là ý thức hệ chính thống của triều đại phong kiến Việt Nam, Nho giáo còn là
một trong những nền tảng để xây dựng đường lối trị nước, cách thức đào tạo nhân tài, xác lập các quy
phạm đạo đức, nuôi dưỡng đời sống nghệ thuật và tinh thần,… có khơng ít các nhà chính trị, văn hóa,
nhà tư tưởng tiêu biểu của Việt Nam, các nhân vật lích sử lớn của Việt Nam là những nhà Nho chịu
ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo.
Nho giáo từ khi ra đời đến nay, có lúc thịnh, lúc suy, có lúc ngự trị trên đỉnh cao của hệ tư tưởng
thống trị và ngược lại cũng có lúc bị phê phán không thương tiếc và bị coi là thứ “rác bẩn” cần phải
loại bỏ. Nhưng dù bị phê phán, một số tư tưởng của Nho giáo vẫn còn tồn tại tới ngày nay. Sự tồn tại
đó đã chứng tỏ, ở Nho giáo có những yếu tố hợp lí nhất là nó được xây dựng trên cơ sở của nhận thức:
đời sống của mỗi cá nhân không thể tách rời các mối quan hệ xã hội. Có thể khẳng định rằng, Nho giáo
vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực. Vấn đề là ở chỗ, phải biết hạn chế tác hại do mặt tiêu cực của
Nho giáo gây ra, đồng thời phải biết kế thừa và phát huy mặt tiêu cực của nó.
Nho giáo tuy xuất phát từ Trung Quốc sau đó truyền bá tới Việt Nam, song Nho giáo của Việt
Nam có những điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt so với tơn giáo bản địa của nó.
Làm rõ những điểm tương đồng này, chúng ta càng có thêm cơ sở để chia sẻ những nét văn hóa chung
của nhau. Hơn nữa đây còn là cơ hội để khám phá những nét đặc thù dân tộc, bản sắc văn hóa của mỗi
nước. Nho giáo khơng chỉ có vai trị trong q khứ của Việt Nam, mà hiện nay nó cịn có nhiều ảnh
hưởng tới các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực đạo đức, đời sống tinh thần,
phong tục tập quán, lối sống, nếp nghĩ của người dân. Đề tài này sẽ phân tích sự ảnh hưởng và tác động
của Nho giáo Trung Quốc thông qua tư tưởng của một số Nho sĩ nổi tiếng Việt Nam, cụ thể là Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Ngô Thì Nhậm – những nhà Nho tiêu biểu thấm nhuần sâu sắc tư tưởng
Nho giáo. Hơn nữa đề tài làm rõ được những mặt tích cực của Nho giáo để phát huy và tiếp thu cũng
như tìm ra những hạn chế của nó để khắc phục cho các vấn đề bức thiết của xã hội hiện nay. Chúng ta

3


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

tin tưởng rằng, Nho giáo nói riêng và truyền thống văn hóa Việt Nam nói chung khơng chỉ là những
bài học lịch sử, mà còn là sự gợi mở mang tính trí tuệ cho chúng ta soi sáng và con đường phía trước.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung khai thác các nội dung liên quan đến việc xây dựng gia đình theo kiểu cũ và các
mối quan hệ chính trong gia đình như cha – con, chồng – vợ, anh – em trong quan niệm của Nho giáo
chính thống, từ đó phân tích các mối quan hệ trên trong tư tưởng của các Nho sĩ Việt Nam. Từ đề tài,
có thể thấy đối tượng nghiên cứu bao gồm chủ thể là ba mối quan hệ chính trong gia đình là cha - con,
chồng – vợ, anh – em và khách thể là tư tưởng Nho giáo trong văn hóa nhận thức của người Trung Hoa
và văn hóa nhận thức của người Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là Trung Hoa, Việt Nam và thời gian nghiên cứu của đề tài là
thời Lê – Nguyễn và thời hiện đại.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nhằm mục đích đưa đến cho người đọc một cái nhìn chi tiết, rõ ràng và đúng đắn hơn
về những ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo đến việc xây dựng các mối quan hệ gia đình trong tư
tưởng của một số nhà Nho Việt Nam. Từ đó xem xét vai trị ảnh hưởng của nó đến việc xây dựng và
hoàn thiện các mối quan hệ trong gia đình Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, phương pháp tổng hợp tài liệu là phương pháp chính được sử dụng. Tơi
đã tham khảo tài liệu, sách vở, các cơng trình nghiên cứu tư tưởng Nho giáo ở Việt Nam và Nho giáo ở
Trung Hoa của các tác giả đi trước, trên cơ sở đó kế thừa và trích dẫn nội dung cần thiết, từ đó hình thành
cơ sở luận làm nền tảng cho q trình nghiên cứu. Ngồi ra, đề tài cịn được thực hiện dựa trên phương
pháp lịch sử: tìm hiểu, xem xét vấn đề một cách cụ thể, các sự kiện diễn ra trong một bối cảnh, cụ thể là
bối cảnh xã hội Việt Nam thời kì phong kiến và phương pháp phân tích logic: đi sâu phân tích, tổng hợp
để tìm ra bản chất, quy luật nằm nằm ẩn giấu trong hiện tượng đó để đưa ra những tác động của nó đến

xã hội thời hiện đại. các phương pháp được dùng chủ yếu trong phần nội dung.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
*Về ý nghĩa khoa học
4


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Đề tài tìm hiểu về những tác động của hệ thống học thuyết Nho giáo đến tư tưởng của con người
Việt Nam, trước tiên là tầng lớp trí thức Nho sĩ thời phong kiến, sau là quần chúng nhân dân trong xã
hội, lưu giữ và phát huy những nét văn hóa độc đáo, góp phần giữ gìn và bảo tồn giá trị văn hóa nhận
thức của hệ thống học thuyết này.
* Về ý nghĩa thực tiễn
Từ kết quả của đề tài này, tơi hy vọng có thể làm rõ được mặt tích cực và mặt hạn chế của hệ
thống học thuyết Nho giáo trong vấn đề xây dựng các mối quan hệ gia đình trong xã hội, đưa đến cho
người đọc một cá nhìn đúng đắn và tổng quan hơn về những nét văn hóa nhận thức này, đồng thời đề tài
này có thể góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu nghiên cứu về ảnh hưởng của quan niệm Nho
giáo Trung Hoa cho các ngành văn học và ngơn ngữ, văn hóa và xã hội.
6. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hệ thống học thuyết xã hội của Nho giáo nói chung và quan niệm của Nho giáo trong việc xây
dựng các mối quan hệ gia đình cũng như trách nhiệm cá nhân đối với gia đình – xã hội nói riêng, đã
được khá nhiều học giả, nhà khoa học xã hội đề cập nghiên cứu. Trong quá trình tìm hiểu, tơi đã tham
khảo một số cơng trình sau:
-

Phạm Văn Đức – Hwang Eui Dong – Kim Sea Jeong (Đồng chủ biên), Trách nhiệm xã hội của
Nho giáo trong lịch sử Việt Nam và Hàn Quốc, NXB Khoa học Xã hội, năm 2015.
Tài liệu đã đưa ra một cách chi tiết và sâu sắc những vấn đề trách nhiệm xã hội và một số vấn đề


lý luận chung của Nho giáo Việt Nam, sự ảnh hưởng của Nho giáo bản địa Trung Hoa đến tư tưởng của
các học giả thời kì phong kiến và một vài suy nghĩ về ảnh hưởng của Nho giáo trong xã hội Việt Nam
hiện nay.
-

Quang Đạm, Nho giáo xưa và nay, NXB Văn hóa, năm 1994.
Tài liệu đã phân tích khá chi tiết những tư tưởng cơ bản của trường phái triết học Nho giáo và sự

ảnh hưởng của nó tới Việt Nam.
5

Nguyễn Tài Thư, Nho học và Nho học ở Việt Nam, NXb Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1977


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Tài liệu đã khái quát những nội dung cơ bản của Nho học, vai trị của nó trong lịch sử và hiện tại
ở Trung Quốc và Việt Nam. Tác giả nêu rõ cần phải phát huy truyền thống Nho học để xây dựng con
người trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
-

Phan Đại Doãn, Một số vấn đề Nho giáo ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 1998.
Tài liệu đã phân tích rõ sự tồn tại và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam từ thế kỉ XV tới thế kỉ

XIX đồng thời đưa ra những yếu tối hợp lí của nó cần được khai thác, phát huy trong quá trình đổi mới.
-

Vũ Khiêu (chủ nhiệm), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Chương trình khoa học và công nghệ
cấp nhà nước, năm 1995.

Tài liệu đã đưa ra những vấn đề như Nho giáo trong lịch sử hình thành và phát triển, ý kiến chủ

quan của tác giả về việc đánh giá lại Khổng Tử và việc vận dụng Nho giáo vào xã hội hiện đại ngày nay
cùng với đó là Nho giáo trong sự phát triển cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam ngày nay. Trong
đó tác giả đưa ra các vấn đề để phát triển và xây dựng gia đình, từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng đất
nước.
-

Lý Tùng Hiếu, Ảnh hưởng của Nho giáo trong văn hóa Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam (số 4 - 2015)
Tài liệu đã đưa ra một cách khái quát các vấn đề ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa tới các mặt

chính trị, xã hội, tư tưởng, phong tục tập quán, kinh tế, giáo dục,… đồng thời chỉ ra những mặt tích cực
và tiêu cực của nó trong việc phát triển xã hội Việt Nam thời kì phong kiến và hiện đại
-

PGS.TS Dỗn Chính (chủ biên), Tư tưởng Việt Nam từ TK XV đến thế kỉ XIX, NXB Chính trị
Quốc gia
Tài liệu đã đưa ra ý kiến của tác giả thông qua việc phân tích các học thuyết triết lý Nho, Đạo,

Phật đã làm nên cả một thời "Đại Việt". Các thế hệ tiếp theo, sau một thời gian độc tôn Nho giáo, góp
phần làm nên tư tưởng Việt Nam về ý thức độc lập dân tộc, trách nhiệm công dân trước quốc gia, hồi
bão lập cơng, ý chí tu thân, lập nghiệp của Nho sĩ trở nên rõ ràng, sâu sắc, cụ thể hơn.
Có thể nói những tác phẩm này là nguồn dữ liệu quý giá cho bài nghiên cứu về dấu ấn của học
thuyết Nho giáo trong việc xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn và thời
6


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


hiện đại. Mỗi tác phẩm cho người đọc một góc nhìn khác nhau về văn hóa nhận thức, văn hóa tư tưởng
trong Nho giáo Trung Hoa. Các tác phẩm đã có đóng góp khơng nhỏ trong cơng trình nghiên cứu
chung về văn hóa nhận thức Trung Hoa và sự ảnh hưởng đến văn hóa nhận thức Việt Nam.
7. Bố cục
Bố cục đề tài được chia làm ba phần:
-

Chương 1: Khái quát về học thuyết trường phái Nho giáo và khái quát sự du nhập của
trường phái học thuyết này vào xã hội Việt Nam
Trong chương 1, đề tài tập trung khai thác các vấn đề lịch sử như sự ra đời của Nho giáo ở

Trung Hoa, khái quát cơ bản các tư tưởng của học thuyết. Phân tích nguyên nhân dẫn đến sự du nhập,
phát triển của Nho giáo ở Việt Nam từ thế kỉ XV, đặc biệt là sự cực thịnh của tư tưởng này vào thời
nhà Lê – Nguyễn.
-

Chương 2: Dấu ấn của tư tưởng Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình
Chương 2 là chương có nội dung chính, làm rõ và phân tích sự ảnh hưởng và tác động của học

thuyết trường phái Nho giáo Trung Hoa đến tư tưởng của các trí thức Nho sĩ Việt Nam tiêu biểu thời
Lê và thời Nguyễn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngơ Thì Nhậm. Thơng qua việc phân tích
ấy có thể tìm ra những điểm giống và khác giữa Nho giáo Việt Nam so với Nho giáo bản địa, đồng thời
là những bài học tích cực mà Nho giáo để lại để có thể áp dụng vào việc xây dựng gia đình Việt Nam
hiện nay.
-

Chương 3: Quan điểm cá nhân về việc kế thừa và phát huy Nho giáo trong giá trị đạo đức
gia đình xã hội Việt Nam hiện nay.
Với phần này, tơi sẽ trình bày quan điểm của mình về những mặt tích cực của Nho giáo, thơng


qua đó kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của một gia đình theo kiểu Nho giáo. Đồng thời
chỉ ra những mặt hạn chế của tư tưởng Nho giáo bản địa để từ đó có thể khắc phục, xây dựng một xã hội
văn minh, công bằng

7


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HỌC THUYẾT TRƯỜNG PHÁI NHO GIÁO VÀ KHÁI QUÁT
SỰ DU NHẬP CỦA TRƯỜNG PHÁI HỌC THUYẾT NÀY VÀO XÃ HỘI VIỆT NAM
I.

Khái quát về nho giáo
Nho giáo là một học thuyết triết học và chính trị - xã hội, tơn giáo. Vào xã hội thời Đông Chu (thế

kỷ thứ VI TCN), lúc này sự thống trị của nhà Chu đã suy yếu, các nước chư hầu đua nhau tranh bá đồ
vương, chiến tranh xảy ra liên miên, người dân bị lâm vào cảnh chết chóc, khốn cùng. Tình hình đó
khiến các nhà tư tưởng đương thời đề ra các đường lối trị quốc khác nhau, mong lặp lại trật tự xã hội.
Mỗi nhà tư tưởng do đó tiếp cận vấn đề xã hội khác nhau, họ có lập trường chính trị khác nhau và đề ra
các hệ thống quan điểm khác nhau hình thành nên các hệ thống học thuyết khác nhau như Nho gia, Mặc
gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm dương gia,… Các học thuyết đó đấu tranh với nhau, nhằm phủ định đối
phương và khẳng định mình. Sử học gọi cục diện đó là hiện tượng “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”.
Đạo Nho là do Khổng Tử (551 – 479 TCN) sáng lập. Tiền đề tư tưởng của ông là tư tưởng của
Chu Công Đán (? – 1095 TCN). Chu Cơng Đán là nhà chính trị, nhà tư tưởng đầu đời Chu, đã xây dựng
nên một hệ thống tư tưởng gồm ba bộ phận kết hợp chặt chẽ với nhau đó là tơn giáo, chính trị, đạo đức.
Chu Cơng Đán tin rằng có một ơng trời chi phối việc người, việc xã hội, có thể thưởng thiện phạt ác, tùy

theo con người đó, xã hội đó là có đức hay khơng có đức, có đức thì được thưởng khơng có đức thì phải
phạt. Chính tư tưởng có tính chất tơn giáo này đã ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng của Khổng Tử
sau này. So với Chu Cơng Đán thì Khổng Tử đã có một bước tiến về mặt thế giới quan. Ông coi trời là
giới tự nhiên, ông chỉ chú ý việc của người sống, việc của thế giới trần gian, không đề cập tới việc của
người chết, việc của thế giới bên kia. Ông chủ trương xa lánh quỷ thần, cho rằng “Tế như tại, tế thần như
thần tại”, đối với quỷ thần cần phải xa lánh. Ơng vẫn cịn tin ở mệnh trời như là một lực lượng siêu nhiên
thần bí chi phối con người và xã hội. Khổng Tử cảm thấy đau lòng trước sự suy thoái của xã hội đương
thời. Suốt đời ông đã phấn đấu để ngăn chặn những cảnh xấu xa tàn bạo đang diễn ra trước mắt và mong
làm thế nào để xã hội trở lại cuộc sống thanh bình như trước. Ơng hết lời ca ngợi các triều đại Hạ,
Thương, Chu. Trước tình hình nội bộ các nước chư hầu chém giết lẫn nhau, Khổng Tử muốn nêu lên
những tấm gương của thời xưa để răn dạy người đời bằng cách dành nhiều công phu thu thập tài liệu lịch
sử và di sản tư tưởng của người xưa. Ông đã chép lại và soạn lại Kinh thi, Kinh thư, Kinh dịch, Kinh lễ,
8


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Kinh Xuân thu. Dựa vào những tư liệu ấy tạo nên học thuyết Nho giáo. Học thuyết của ông hướng vào
việc làm như thế nào chấm dứt được tình trạng hỗn loạn của xã hội, sự suy thoái về đạo đức, sự khốn
khổ của nhân dân trong chiến tranh và đói rét. Từ thời nhà Hán, Nho giáo được tái sinh và phát triển và
sau đó là nhà Đường làm cho học thuyết trở nên phát triển và tạo ra sự bền vững trên nhiều mặt của xã
hội Trung Hoa. Qua thời gian học thuyết Nho giáo vừa được hồi sức, vừa được bổ sung nhiều nhân tố
của đạo Phật và đạo Lão. Xã hội phong kiến vẫn tiếp tục kéo dài qua nhà Minh, Thanh với một ông
Khổng Tử già cỗi. Đến thời kì này, học thuyết Nho giáo chia sẻ sự suy tàn của xã hội phong kiến Trung
Hoa ngày càng trở nên lỗi thời và phản động. Thế kỷ XIX nổi lên với sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc
vào các nước phương Đông. Trước tình hình đế quốc bị đe dọa, các học giả Trung Quốc lại đặt lại vấn
đề Khổng Tử và học thuyết của ơng. Tiếp đó là phong trào ngũ tứ đã mở ra cuộc cách mạng văn hóa,
phê phán chủ nghĩa bảo thủ, đòi hỏi sự đổi mới về mặt nhận thức và tư tưởng. Lỗ Tấn – người chủ soái
trên mặt trận tư tưởng này đã phê phán Khổng Tử một cách mạnh mẽ và sâu cay. Ông chỉ trích tư tưởng

phục cổ của Khổng Tử, sự nơ dịch tư tưởng đối với nhân dân, sự khinh rẻ lao động và phụ nữ. Trận đánh
cuối cùng đối với Khổng Tử là “phê Lâm phê Khổng” của Mao Trạch Đông, gắn Khổng Tử với một vị
tướng (Lâm Bưu) được coi như phản động. Gần đây việc đánh giá lại Khổng Tử ở Trung Quốc và việc
nghiên cứu lại Khổng Tử ở nhiều nước đã mở ra một thời kì mới để xem xét lại công lao của Khổng Tử
một cách công bằng và khoa học.

Khổng Tử (551 – 479 TCN) - người sáng lập Đạo Nho
9


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Trong giai đoạn đầu, giai đoạn của Khổng Tử, Mạnh Tử, Tn Tử, Nho chưa mang tính chất tơn
giáo. Nó chỉ mang tính chất tơn giáo khi chế độ phong kiến trung ương tập quyền Trung Quốc xác lập,
khi nhà Hán phải dựa vào thần quyền để củng cố địa vị thống trị của mình. Đổng Trọng Thư (197 – 104
TCN), nhà tư tưởng của thời Hán Vũ Đế, đã đưa lại cho đạo Nho tính chất tơn giáo, thần học. Ông đề
xướng thuyết “Thiên nhân cảm ứng”, cho rằng trời là “ông tổ của vạn vật”, là “vua của trăm vị thần”,
trời căn cứ vào hình dáng của mình và sinh ra lồi người. Hình thần của một con người và phẩm chất
đạo đức của họ đều là bản phụ của trời, cho rằng quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, nói chung là cương
thường của người đều là theo ý của trời. Từ thời Hán về sau, Nho giáo ở Trung Quốc ngồi tính chất
triết học và chính trị xã hội ra cịn mang tính chất tôn giáo.
II.

Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Trung Quốc là quê hương của Nho học, nhưng các nước láng giềng của Trung Quốc cũng tiếp

nhận Nho học. Học thuyết này đã chi phối đời sống chính trị, tư tưởng, văn hóa và tơn giáo của một số
nước Viễn Đơng. Xã hội của các nước trên có những nét giống xã hội của Trung Quốc nên dễ dàng du
nhập và bản địa hóa Nho học. Ở đó cũng có hiện tượng tơn giáo hóa Nho học. Nho học cũng được gọi

là Nho giáo.
Nho học truyền vào Việt Nam trong một hoàn cảnh đặc biệt. Người Hán xâm lược Việt Nam và
đưa Nho học vào. Lúc đầu Nho học là cái xa lạ với tư tưởng tập tục truyền thống Việt Nam, về sau nó
được bản địa hóa và trở thành nhu cầu tinh thần của người Việt Nam. Dưới thời kì Bắc thuộc, Nho học
ở Việt Nam mới là hiện tượng có mặt ở các trị sở của người phương Bắc. Về sau khi giành được độc lập,
các triều đại phong kiến Việt Nam ý thức được vai trò quan trọng của đạo Nho nên đã ra sức truyền bá
đạo này. Ngay từ đầu giai cấp phong kiến thống trị Việt Nam nhìn nhận Nho học với hai tính chất: Học
thuyết chính trị - đạo đức và tơn giáo.
Nho học – Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng hai ngàn năm nhưng nó có vị trí chi phối
cao nhất là từ giữa thế kỉ XV về sau. Chúng ta đều biết rằng: Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo được du
nhập vào Việt Nam từ lâu và đã có vai trị đáng kể trong hoạt động tư tưởng và văn hóa của nhân dân.
Thời Bắc thuộc, Phật giáo đã có ưu thế hơn Nho giáo. Trong khi Nho giáo chỉ dừng lại ở những tầng lớp
trên thì Phật giáo đã thâm nhập vào các tầng lớp nhân dân. Qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần (Từ thế
kỉ X đến thế kỉ XIV) các vua chúa Việt Nam là những người sùng đạo Phật. Trước đó vào thời Trần, ảnh
hưởng của Nho giáo chưa sâu đậm. Có thể có một bộ phận quan chức cao cấp cịn áp dụng ít nhiều lễ
10


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

giáo Nho giáo, còn trong dân gian và kể cả quan chức cấp thấp thì ảnh hưởng của Nho giáo chưa đáng
kể. Tuy nhiên trong quá trình củng cố trật tự và phát triển đất nước, tầng lớp thống trị Việt Nam cảm
thấy không thể chỉ dựa riêng vào Phật giáo mà cịn phải có một học thuyết tích cực hơn, do đó Nho giáo
đã đáp ứng được yêu cầu đó từ thời nhà Lê, cho đến nhà Nguyễn thì phát triển rất mạnh mẽ.

Ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam – Nguồn Tạp chí KHXH
Sang đời Lê Thánh Tông (1460 – 1497) Nho học và Nho giáo được đẩy lên cực thịnh về các mặt
như tổ chức nhà nước, pháp luật và các chính sách, giáo dục khoa cử Nho học. Và cũng từ đấy về sau,
Nho giáo mới qua hệ thống giáo dục, pháp luật, chính quyền mà thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày

càng sâu đậm trên nhiều lĩnh vực tư tưởng, thơ văn, phong tục tập quán… Cho đến đầu thế kỉ XX, năm
1919 khoa cử Nho học mới bị bãi bỏ, nhưng giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài
đến đầu thập kỉ bốn mươi. Như vậy trong thời Lê Nguyễn liên tục gần sáu trăm năm Nho học – Nho giáo
không thể không thấm vào các tầng lớp xã hội. Giai cấp phong kiến Việt Nam thượng tơn Nho giáo bởi
sự thần bí hóa vương quyền, sự thiêng liêng hóa quan hệ quân thần, những chuẩn mực và nội dung đào
tạo quan lại thích hợp để nối dài cánh tay quyền lực của nhà vua. Thời Hậu Lê, Nho giáo vươn lên chiếm
địa vị độc tơn trong văn hóa cung đình, đẩy Phật giáo và Đạo giáo xuống hàng tôn giáo dân gian. Nhưng
Nho giáo có vị trí hàng “Quốc giáo” thật sự ở triều Nguyễn, một triều đại tập quyền tuyệt đối và triệt để
khai thác đạo lý tam cương, ngũ luân của Nho giáo để bảo vệ tôn ti quân thần và quyền thống trị vĩnh
viễn của tông tộc nhà vua. Trên đỉnh cao quyền lực, Nho giáo đã phát tác tối đa sức mạnh kìm hãm của
nó, trở thành ngun nhân sâu xa của tình trạng loạn lạc và trì trệ kéo dài suốt thế kỷ XIX cho đến khi
11


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

mất nước về tay Pháp. Nó được thường xuyên tái lập và trở thành một trong những yếu tố văn hóa truyền
thống Việt Nam khá sâu đậm. Các nhà Nho Việt Nam thời Lê - Nguyễn cho đến đầu thế kỉ này chỉ lấy
các sách của Khổng Mạnh, Trình Chu làm kinh điển. Trong xã hội tiểu nông tự cấp tự túc truyền thống
thời Lê – Nguyễn với hai giai cấp chủ yếu là nông dân và địa chủ mà nông dân là tuyệt đại bộ phận trong
nhân dân, trên địa bàn là nơng thơn thì sự tiếp nhận những ảnh hưởng của Nho giáo dưới những lý thuyết
triết lý phức tạp thật không dễ dàng. Người nông dân khơng hiểu nhiều những khái niệm “Thiên mệnh”,
“Tính lý” nhưng họ tiếp nhận ảnh hưởng Nho giáo qua những quan niệm “hiếu, trung”, “lễ, nghĩa”, ý
thức về củng cố gia đình, họ tộc và cộng đồng qua những hoạt động có tính tơn giáo.
Từ chỗ khơng được ưa thích các tầng lớp nhân dân, Nho giáo dần dần giữ một vị trí ngày càng
tăng trong việc đề cao uy quyền của nhà vua, xây dựng một hệ thống quan liêu từ trên xuống dưới, bảo
đảm mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước và nhân dân. Nho giáo được du nhập vào Việt Nam khơng cịn
giữ ngun trạng thái ngun sơ của nó nữa. Nó đã được Việt Nam hóa vì lợi ích bảo vệ và xây dựng tổ
quốc, đã khai thác những quan điểm tích cực của Nho giáo để khẳng định những giá trị truyền thống của

dân tộc. Với Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho giáo đã có những đóng góp đáng kể vào việc
củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên thành những tư tưởng ổn định, thúc đẩy sự
phát triển của đất nước, tạo nên một sức mạnh to lớn để suốt một ngàn năm giữ vững độc lập và chiến
thắng của dân tộc. Đối với văn hóa tinh thần, Nho giáo góp phần làm hình thành dịng văn hóa quan
phương chính thống, bên cạnh dịng văn hóa dân gian gắn với ý thức tộc người, làm nên cốt lõi của văn
hóa tộc người Nhưng tấm huân chương cũng có mặt trái của nó, Nho giáo dù được Việt Nam hóa và đưa
vào những nhân tố tích cực nhưng mặt tiêu cực của nó cũng rất trầm trọng.. Nho giáo làm cho văn hóa
tinh thần của Việt Nam thời trung đại bị Hán hóa một phần đáng kể, đồng thời kìm hãm, gây hại cho nền
văn hóa truyền thống của Việt Nam, cả trong lĩnh vực văn hóa tinh thần lẫn văn hóa vật chất. Nho giáo
càng đạt tới tột đỉnh quyền uy thì đất nước Việt Nam càng suy yếu, văn hóa Việt Nam càng suy thối.
Và cuối cùng, trước nạn vong quốc cuối thế kỷ XIX, Nho giáo đã bất lực và tàn lụi. Từ đầu thế kỷ XX,
cùng với sự suy tàn của nhà nước phong kiến và giai cấp phong kiến, Nho giáo đã khơng cịn là ý thức
hệ chính thống và cũng khơng cịn đóng vai trị một tơn giáo chính thống điều chỉnh hành vi và đạo đức
như trước nữa. Sự đột khởi của phong trào Duy Tân - Đông Du (1905 - 1908) đã đóng cây đinh cuối
cùng vào Nho giáo ở Việt Nam.

12


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

CHƯƠNG 2: DẤU ẤN CỦA TƯ TƯỞNG NHO GIÁO TRONG XÂY DỰNG CÁC MỐI QUAN
HỆ GIA ĐÌNH
I.

Gia đình trong quan niệm các nước phương Đông
Ở một số nước phương Đơng, cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa lại diễn ra với nhiều nét khác biệt

so với phương Tây. Nếu các nhà khoa học phương Tây đã nhấn mạnh tính chất nơng nghiệp của gia

đình kiểu cũ thì ở phương Đơng tính chất nơng nghiệp này lại cịn sâu sắc hơn và kéo dài suốt mấy
ngàn năm của phương thức sản xuất châu Á. Giai cấp phong kiến ở phương Đông đã lợi dụng những
mối quan hệ giữa uy quyền tuyệt đối của người gia trưởng với sự phục tùng tuyệt đối từ phía vợ con
của họ. Người gia trưởng là chủ gia đình và ơng vua là chủ đất nước. Nếu như con cái phục tùng
tuyệt đối người gia trưởng thì tồn thể nhân dân phải phục tùng tuyệt đối nhà vua. Vì lợi ích của bản
thân mình các vua chúa phong kiến cố gắng đồng nhất mối quan hệ trong gia đình với mối quan hệ
trong nước. Họ biết rằng: Khi quan hệ giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị trong xã hội
cũng chặt chẽ như quan hệ tình cảm giữa người gia trưởng với vợ con của họ thì vị trí của một ông
vua trong nước cũng vững vàng như vị trí của người gia trưởng trong gia đình. Chính vì thế mà Nho
giáo – hệ tư tưởng thống trị ở nhiều nước châu Á đã gắn liền với chữ Hiếu và chữ Trung. Người con
có hiếu phải phục tùng tuyệt đối người đứng đầu trong gia đình, phải sẵn sàng hi sinh cả bản thân
mình để phục vụ cha mẹ. Nếu ơng vua là người chủ trong đại gia đình là tổ quốc, thì mọi người trong
nước khơng chỉ phục tùng nhà vua mà phải hết lòng yêu quý vua như yêu quý cha của họ. Chữ Trung
tóm lại là chữ Hiếu trong gia đình được chuyển ra xã hội, trở thành quan hệ giữa nhân dân với nhà
vua. Vì lợi ích của bản thân và của chế độ phong kiến, nhà vua ln ln củng cố những quan hệ gia
đình, ln luôn giáo dục chữ Hiếu trong mọi người. Làm như thế khơng phải vì lợi ích gia đình mà
chính là vì lợi ích của nhà vua, chính là điều kiện hàng đầu để bảo vệ chế độ phong kiến.

13


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Gia đình Việt Nam – nguồn trithuctre.com.vn
Ở nhiều nước phương Đông, cuộc cách mạng tư sản đã không diễn ra từ dưới lên mà diễn ra từ
trên xuống. Nghĩa là giai cấp phong kiến được tư sản hóa, nên họ đã khơng gặp khó khăn khi duy trì
gia đình kiểu gia trưởng và sử dụng hình thức ấy trong xí nghiệp, trong nơng trang cũng như trong
mọi quan hệ xã hội. Người chủ xí nghiệp, chủ nơng trang cũng như những người đứng đầu nhà nước
đòi hỏi sự phục tùng có tính chất quan hệ gia đình của mọi người đối với họ. Nho giáo thường tuyệt

đối hóa uy quyền của nhà vua và của người cha, nên chỉ thường nhắc tới bổn phận đơn phương của
bề tôi đối với vua, của người con đối với cha mà thôi, từ đó tạo nên những thái độ trung hiếu một
cách mù qng và vơ lý. Cha có thể là khơng Từ nhưng con khơng thể khơng Hiếu. Vua có thể bất
nhân nhưng bề tôi không thể không Trung. Nho giáo ngày càng tuyệt đối hóa đạo trung hiếu đến mức
quá đáng: “Vua khiến bề tôi chết mà bề tôi không chết là bề tôi bất trung, cha khiến con chết mà con
khơng chết là bất hiếu” (Hậu Nho)
II.

Gia đình trong quan niệm của Nho giáo

Trong học thuyết Nho giáo, gia đình là một phạm trù lớn, chứa đựng nhiều nội dung thâm thúy, ý
nghĩa sâu xa có ảnh hưởng đến những phạm trù khác về đạo đức và cuộc sống con người. Theo Khổng
Tử thì tình cảm giữa cha mẹ và con cái, giữa chồng và vợ là tình cảm tự nhiên trong bản tính của con
người. Khổng Tử coi gia đình là cơ sở của xã hội, cho rằng “Thiên hạ chi bản quốc, quốc chi bản tại
gia” (gốc của thiên hạ là nước, gốc của nước là nhà). Nho giáo có chủ đích rõ ràng trong việc xây dựng
những quan hệ chặt chẽ trong gia đình và phát triển chúng thành những quan hệ trong toàn xã hội, trong
việc xây dựng tình cảm và đức tính tốt trong gia đình từ đó vun đắp chúng trở thành những tình cảm và
14


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đức tính tốt trong việc thờ vua trị nước. Nho giáo vì thế rất coi trọng việc giáo dục trong gia đình vì đó
là trường học đầu tiên giáo dục con người đi vào xã hội. “Thân thân nhi nhân dân” (Thân u cha mẹ
mình, kể từ đó mà đối xử có nhân với người đời, Mạnh Tử - Tận tâm, Thượng, 45) “Lão ngô lão dĩ cập
nhân chi lão, ấu ngơ ấu dĩ cập nhân chi ấu” (Kính cha anh của mình từ đó kính cha anh của người, u
con trẻ của mình từ đó u con trẻ của người, Mạnh Tử - Lương Huệ Vương, Thượng, 7).
Tam cương, nền tảng của tư tưởng đạo đức Nho giáo. Người ta thường nói đến Đạo đức Nho giáo
trong việc xây dựng các mối quan hệ gia đình. Đạo chính là năm mối quan hệ cơ bản của con người

gọi là Ngũ luân: Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn. Trong năm mối quan hệ đó thì vua tôi,
cha con, chồng vợ là quan trọng nhất được gọi là Tam cương. Đó là ba sợi dây ràng buộc con người
vào trách nhiệm lớn nhất của họ. Đức là Trí, Nhân, Dũng, là ba phẩm chất quan trọng nhất mà con
người cần phải có để thực hiện tốt hết năm mối quan hệ cơ bản nói trên, được mở rộng thành Ngũ
thường bao gồm Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín kết hợp Tam cương với Ngũ thường gọi là Cương Thường.
Nho giáo tập trung mọi quan hệ xã hội của con người vào Tam cương mở rộng ra là Ngũ luân. Ngoài
ra các mối quan hệ khác là thứ yếu và không đáng kể. Vượt ra khỏi những quan hệ ấy để yêu thương
mọi người như Mặc Địch hoặc khơng quan tâm đến những quan hệ đó chỉ biết cho bản thân mình như
Dương Chu thì đều bị Nho giáo lên án là “vơ qn vơ phụ” (Khơng có vua, khơng có cha), Mạnh Tử
coi họ như cầm thú.
Nho giáo xây dựng nên những mối quan hệ trong gia đình rất chặt chẽ: “Cha ra cha, con ra con, anh
ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, thế là Nho gia đạo chính” (Kinh dịch). Trong ba mối quan
hệ cha con, chồng vợ, anh em làm nên cái gọi là “Gia đạo chính” thì quan hệ cha con, anh em tiêu biểu
bằng chữ Hiếu và chữ Đễ, đã được Nho giáo tôn lên rất cao, đặt vào một vị trí đặc biệt quan trọng, trở
thành cốt lõi của các quan hệ trong toàn xã hội.
Cũng từ quan điểm huyết thống, Nho giáo đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa những thành viên trong
gia đình, dịng họ. Nho giáo kêu gọi họ yêu thương đùm bọc lẫn nhau, khuyến khích nhau giữ gìn danh
dự và phát huy truyền thống của gia đình. Những nghi thức ứng xử hằng ngày và những lời răn dạy của
cha ông, gia ngữ được lưu truyền đến đời con cháu. Coi trọng việc thờ cúng ông bà tổ tiên, xây dựng nhà
thờ, sửa sang mồ mả, sưu tầm ghi chép gia phả,… Đã góp phần làm khăng khít thêm mối quan hệ trong
gia đình. Đã có nhiều biểu hiện tốt đẹp của tình người được nảy sinh từ đó. Tuy nhiên trên một bình diện
khác, khi những quan hệ trên bị chi phối bởi những quan điểm lệch lạc về huyết thống, bởi lòng tham
15


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

lam và ích kỉ và nhất là bởi sự tranh giành về lợi ích kinh tế, về địa vị chính trị xã hội, về vai vế trong
làng xã,… thì đã có khơng ít những tiêu cực xảy ra. Sự u thương đùm bọc trong gia đình biến dạng

thành tính vị kỉ gia đình, bao che vum vén, bênh vực lẫn nhau bất chấp công lý: “Phụ vị tử ẩn, tử vị phụ
ẩn, trực tại trung hỹ” (Một người con thấy cha ăn trộm con dê, đã đứng ra làm chứng khai thật, Khổng
Tử không cho đấy là ngay thẳng mà là ngược lại, Luận Ngữ - Tử Lộ, 8).
Do cách cầm quyền ở những nước như Việt Nam và Hàn Quốc, Nhật Bản đã biết khai thác học thuyết
Nho giáo nhằm củng cố trật tự gia đình và xã hội. Từ đó, họ đã đạo đức hóa những quan hệ cố hữu giữa
bốc lột và bị bốc lột, giữa chủ đất và nơng dân, giữa xí nghiệp và cơng nhân.
III.

Ảnh hưởng của Nho giáo đến việc xây dựng các mối quan hệ gia đình qua tư tưởng của một
số trí thức Nho sĩ Việt Nam

Trong các học thuyết có ảnh hưởng đến tư tưởng và văn hóa nhận thức của người Việt Nam, Nho
giáo là học thuyết chính trị - xã hội quan tâm đến trách nhiệm và trách nhiệm xã hội. Nhà Nho bao giờ
cũng đặt cho mình yêu cầu “tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ”. Thực hiện những u cầu đó,
thực chất trách nhiệm đó thể hiện trong các mối quan hệ giữa người với người, đó là quan hệ giữa cá
nhân với cá nhân nói chung (kỷ - nhân: bản thân – người khác); quan hệ giữa cá nhân và các nhân trong
gia đình (phụ- tử: cha – con, phu – phụ: chồng – vợ, huynh - đệ: anh – em); quan hệ giữa cá nhân với
các nhân trong xã hội (quân – thần: vua – tôi, trưởng – thiếu: người lớn – người nhỏ, bằng hữu: bạn bè,
sư phụ - đệ tử: thầy – trò); quan hệ giữa cá nhân và xã hội (thân- gia- quốc- thiên hạ: bản thân – nhà –
nước – thiên hạ);… Trong từng mối quan hệ nói trên, Nho giáo đều đưa ra những nguyên tắc đối xử nhất
định, mỗi đối tượng đều phải tuân theo, thể hiện trách nhiệm của bản thân trong từng mối quan hệ. Khi
Nho giáo truyền vào nước ta, theo thời gian, những nguyên tắc đối xử và trách nhiệm giữa người với
người trên quan điểm Nho giáo cũng dần dần tác động vào xã hội, trước hết được các nhà Nho tiếp nhận
và vận dụng. Tuy nhiên tùy vào mỗi thời đại, dựa trên những điều kiện kinh tế, chính trị- xã hội nhất
định, quan niệm về từng mối quan hệ xã hội cũng có những điểm khác biệt.
Đề tài đề cập chủ yếu đến các vấn đề quan niệm của Nho giáo trong xây dựng quan hệ gia đình (tập
trung vào quan hệ cha - con, chồng – vợ, anh – em) qua việc tìm hiểu vấn đề trách nhiệm xã hội trong
Nho giáo, thể hiện qua tư tưởng của một số nhà Nho tiểu biểu của Việt Nam thời Lê – Nguyễn. Nho giáo
vào gia đoạn nhà Lê và nhà Nguyễn đã đạt đến sự phát triển cực thịnh, chiếm vị trí thượng tơn trong tư
tưởng các nho sĩ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Ngơ Thì Nhậm.

16


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

1.1.

Quan hệ cha – con

Đối với Nho gia, quan hệ cha con là một trong những quan hệ cơ bản của xã hội, thuộc “Tam cương”
hay “Ngũ luân”. Từ cơ sở kinh tế của nền sản xuất nông nghiệp địi hỏi cần có sức khỏe lao động nên
người đàn ông trong gia đình được xác định là trụ cột. Nếu như ở trong một nước, uy quyền tuyệt đối
của nhà vua được xác lập bởi lẽ “Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ” (dưới gầm trời khơng có chỗ nào
khơng phải đất của vua) thì ở trong một nhà, uy quyền tuyệt đối thuộc về người cha, là người sở hữu
toàn bộ ruộng đất tài sản của gia đình. Ưu thế tuyệt đối về kinh tế qui định một cách khách quan vị trí
đứng đầu trong một nước hay trong một nhà. Vị trí ấy càng được Nho giáo suy tôn và củng cố bền vững
bằng những thuyết giáo về mặt tình cảm, huyết thống và bằng sự nối liền hai chữ Hiếu Trung. Nho gia
cổ vũ vai trị đó của người cha và dần dần quan hệ gia trưởng được hình thành, duy trì trong xã hội phong
kiến. Người cha trong xã hội phong kiến có vai trò và trách nhiệm to lớn trong việc xác định chí hướng
và tạo dựng sự nghiệp cho người con. Nho giáo có lúc đề ra “Vua ra vua, tơi ra tôi, cha ra cha, con ra
con” với ngụ ý: vua có nên vua thì mới có thể địi hỏi tơi phải ra tơi, cha có ra cha thì mới có thể đòi hỏi
con phải ra con.
Các nhà Nho Việt Nam cũng tiếp nhận những tư tưởng của Nho giáo Khổng – Mạnh để xác định
trách nhiệm trong quan hệ cha – con. Đối với người cha, phẩm chất quan trọng cần có là mẫu mực, hiền
từ, ln có tinh thần tu dưỡng đạo đức, nhân cách để làm gương cho con cháu. Về trách nhiệm của người
cha đối với con, Nguyễn Trãi nêu “Lịng hãy cho bền đạo Khổng mơn,/Tích đức cho con hơn tích
của/…Nhi tơn đã có phúc nhi tôn” (Quốc âm thi tập, “Tự thán”, bài 41). Nguyễn Bỉnh Khiêm xác định
cha – con là tình thân tột độ (phụ tử thân chi chí) và cho rằng cha mẹ phải có trách nhiệm “trồng cây đức
để con ăn”, phải “tích đức cho con”. Ngơ Thì Nhậm quan niệm các bậc cha mẹ phải làm gương cho con

cháu, điều cốt yếu là “đức hạnh để lại cho con cháu”. Những quan niệm đó của các ơng rất gần với quan
niệm truyền thống về trách nhiệm của cha mẹ: “phúc đức tại mẫu”, “tu nhân tích đức”,…Ngơ Thì Nhậm
cịn có một cách nhìn khác so với Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm về vai trị trách nhiệm của người
cha. Ơng cho rằng, trách nhiệm của người làm cha phải có sự hiểu biết để định hướng cho con. Ông cũng
lý giải điều đó: “người làm cha làm anh, khơng hiểu biết ý nghĩa của việc ứng xử trong lúc biến, tất cả
sẽ đưa con em mình đến chỗ lỗi lầm”. Theo ơng tình cảm, trách nhiệm mà cha mẹ dành cho con phải là
mãi mãi chứ không chỉ chăm lo cho đến độ trưởng thành. Điều này càng chỉ rõ trách nhiệm định hướng
ý chí, phương cách hành xử, sự miệt mài tạo dựng và chăm lo của các bậc cha mẹ đối với đời sống của

17


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

con cái. Đối với Nhà Nho, trách nhiệm xây dựng và đường hướng cho con được xác định là mục đích tự
thân, bởi chỉ có như vậy Nho gia mới thực hiện được quan niệm cha truyền con nối, kế nghiệp thi thư.
Xuất phát từ quan hệ tự nhiên, Ngơ Thì Nhậm cịn lý giải quan hệ tình cảm và phương cách ứng xử
của người cha, đồng thời cảnh báo hậu quả của người thiếu sáng suốt trong việc thực thi trách nhiệm làm
cha. Ông viết : “Cha con là quan hệ thân mật theo tính thiên nhiên. Nhưng rồi vì thiên lệch mà mất sáng
suốt, mất sáng suốt sinh ra nghi ngờ. Nghi ngờ sinh ra ghét bỏ. Ghét bỏ sinh ra tàn nhẫn”. Nếu “Người
làm cha nghe lời gièm pha mà khơng suy xét, cố nhiên có thể tổn thương đến ân tình. Những nghe người
khác nói lời li gián mà khơng biết phân tích nhận xét, bị những lời khen ngợi che lấp mà không biết rõ
mặt xấu, sẽ xảy ra những biến cố từ nơi khủy nách trong gia đình”. Ơng đi đến quan niệm rằng, chính
những biến cố gây tổn thương trong gia đình là: “ Điều đáng lo ngại nhất của việc đứng đầu nhà nước”.
Bởi vì theo nguyên lý Nho giáo: “Tiên tề gia, hậu trị quốc”. Ông chủ trương cần phải ngăn cấm bạo
loạn từ trong gia đình thì mới ngăn chặn sâu xa bạo loạn xã hội. Coi đạo nhà là gốc của đạo nước. Ông
cũng tán thành quan điểm của Kinh Dịch khi nói về nghĩa cha con: “Cha phải đạo cha, con phải đạo
con, … Đạo trong nhà ngay thẳng thì thiên hạ bình trị.”
Như thế các nhà Nho Việt Nam đã nhấn mạnh đến hai phương diện trách nhiệm của người cha với

con. Thứ nhất người cha có trách nhiệm phải là tấm gương mẫu mực về nhân cách và đối xử với con
theo nghĩa “phụ tử tình thâm”. Sự gương mẫu trong cuộc sống của người cha chính là tinh thần và là
nguồn sống ni dưỡng ý chí và nghị lực của người con. Bởi thế quan niệm tích đức, trồng phúc có ý
nghĩa tạo dựng đời sống tinh thần và tạo dựng những giá trị cao đẹp trong tình cha con. Thứ hai, người
cha cịn có trách nhiệm đường hướng, nâng đỡ và dẫn dắt cho con trong từng bước trưởng thành. Quan
điểm tiến bộ có giá trị sâu sắc của Ngơ Thì Nhậm là ở chỗ: người cha có trách nhiệm đối với con trên cơ
sở của sự hiểu biết chứ không dựa trên tình cảm tự nhiên thuần khiết, khơng xuất phát từ ý muốn chủ
quan mù quáng. Sự hiểu biết sáng suốt và cách ứng xử khôn ngoan của người cha chẳng những là sự mở
đường tiến bộ mà còn giúp cho người con tránh được những sai lầm trong cuộc sống. Trong gia đình
Nho giáo ở nước ta trước đây, vai trị của người cha có tính chất quyết định mọi bước đường của người
con và chi phối tất cả các mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của các thành viên. Sự suy sụp về
cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần của gia đình, gia tộc hầu hết bắt nguồn từ việc đánh mất vị trí
trụ cột của người cha. Trong xã hội Việt Nam ngày nay, vai trò làm cha mẹ thể hiện ở trách nhiệm nuôi
dạy con cái và đường hướng, dẫn dắt cho con cái vẫn được coi là cơ sở, nền tảng thành công của mỗi cá
nhân trong cộng đồng.
18


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nho giáo đặt vấn đề: “Có được Hiếu Đễ thì có được các đức khác. Hiếu Đễ là cái gốc mà người
quân tử phải nắm lấy, vì cái gốc được vững tốt, tự nhiên đạo lý từ đó mà sinh ra”. Người con hiếu có ý
thức đầy đủ về tình cảm và bổn phận của mình đối với cha mẹ. Đó là sự biết ơn “Ai ai phu mẫu, sinh
ngã cù lao” (Cha sinh ta, mẹ nuôi ta, thương thay cha mẹ). Đó là “xuyết thúc, ẩm thủy, tận kì hoan, tư
chi vị hiếu” (Làm sao để cha mẹ ln được vui sướng, dù mình có phải ăn gạo xấu, uống nước lã cũng
thỏa lịng, Lễ Ký). Đó là “Đại hiếu chung thân mộ phu mẫu. Ngũ thập chi mộ giả, dư ư Đại Thuấn kiến
chi hỷ” (Suốt đời yêu mến cha mẹ, noi gương vua Thuấn, đến năm mươi tuổi mà vẫn luyến mộ cha mẹ
như lúc còn nhỏ, Mạnh Tử, Vạn chương – Thượng, 1).
Đối với người con, các nhà Nho Việt Nam đều có chung quan điểm và trách nhiệm và bổn phận thể

hiện ở việc thực hiện sự hiếu kính đối với cha mẹ. Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều cho rằng,
bổn phận làm con phải lấy hiếu kính hết lịng báo đáp cơng ơn cha mẹ, coi đó là điều tốt đẹp làm “của
báu ở đời”. Thông qua triết lý nhân gian, các ông truyền tải tinh thần hiếu thuận một cách rất gần gũi:
“Ni con mới biết lịng cha mẹ”. Cịn Ngơ Thì Nhậm quan niệm “hiếu” đứng đầu các tiêu chí để đánh
giá phẩm chất đạo đức con người. Ông khẳng định: “Một chữ hiếu tạo vị trí đứng đầu mỗi giường thứ
bậc” (Nhất hiếu lập cương trù chi quan niệm). Chủ trương thực hiện đạo làm người được ông xác lập là:
“Hiếu kính trị gia đình; trang nghiêm đối quyến thuộc”. Ơng coi đạo hiếu có giá trị giáo dục lâu dài, có
tác dụng “giữ đạo người”. Các nhà Nho Việt Nam thường gắn trách nhiệm gia đình “hiếu” với trách
nhiệm xã hội “trung” cho nên hay nói đến “nghĩa quân thân”, “niềm trung hiếu” với một tinh thần thể
hiện rõ trách nhiệm cá nhân đến mối quan hệ huyết thống và quan hệ xã hội trên cơ sở nghĩa vụ và bổn
phận của người làm con, làm bề tôi với cha mẹ, với nhà vua.
Về cách thức thể hiện trách nhiệm của người con đối với cha mẹ thông qua việc thực hiện đạo hiếu,
các nhà Nho Việt Nam đều có những quan điểm tương đồng. Theo Nguyễn Trãi, đạo làm con phải biết
nghe lời cha mẹ, phải quan tâm biết lo chỗ ăn nghỉ yên ấm và biết săn sóc, phụng dưỡng, lo toan cho sức
khỏe của cha mẹ, phải có nghĩa vụ giữ gìn, tiếp nối được lối sống hịa hợp của ơng cha để lại,… Nguyễn
Bỉnh Khiêm, trong bài Tử sự phụ mẫu đã nêu rõ đạo làm con phải trọn đạo với cha mẹ, cụ thể là cung
kính tận tâm phụng dưỡng cha mẹ, sớm tối siêng năng chăm sóc, tận tình thăm hỏi, dù cho cha mẹ có
giận hờn vẫn “càng kính thuận”, khi được sai khiến công việc chớ nên phàn nàn về sự vất vả của bản
thân. Có thể ở đây, ơng đã tiếp thu tư tưởng của Khổng Tử khi đặt nặng trách nhiệm của người con đối
với cha mẹ, buộc họ phải thuận theo trong mọi trường hợp. Trong bài Khuyến hôn sự công cô (Khuyên
nàng dâu thờ cha mẹ chồng), dấu ấn Nho gia phong kiến vẫn còn đậm nét khi ông yêu cầu người con
19


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

dâu vẫn phải nhất nhất chấp hành mọi việc làm, thói quen của nhà chồng, trong mọi trường hợp điều
phải “Càng gìn lễ phép”, khơng được suy nghĩ khác ngay cả khi bị giận hờn, mắng, thương, lúc nào cũng
phải nơm nớp đón ý của mọi người trong gia đình để lựa theo cho vừa lịng.

Ngơ Thì Nhậm đi từ quan niệm người cha phải vạch đường hướng cho con để chỉ rõ trách nhiệm của
người con: “Phận làm con phải chăm chỉ, gắng tiến bước, xứng với lòng cha, lo lắng việc nhà”. Trách
nhiệm đó cịn thể hiện ở những điều cụ thể: “Ghi nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ, giữ gìn thân thể
do cha mẹ sinh ra được lành mạnh, có ý chí lập thân để làm vinh hiển cho bản thân và cho cha mẹ, phụng
dưỡng cha mẹ khi về già và chôn cất, thờ cúng cung kính khi cha mẹ mất,…”. Đối với việc phụng dưỡng
cha mẹ, Ngơ Thì Nhậm đi từ tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái để giáo dục thái độ ân cần,
chu đáo, cẩn thận, cung kính của người con trong q trình chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ. Điều này
cũng giống như quan niệm của Khổng Tử về hiếu.
Như vậy có thể nhận thấy khi bạn đến trách nhiệm của người con đối với cha mẹ, các nhà Nho Việt
Nam vẫn tuân theo chuẩn mực của Nho gia, đặc biệt gần gũi với quan điểm của Khổng Tử. Ở đó, trách
nhiệm của người con thể hiện tập trung ở đạo hiếu và có thể khái quát như sau: Kính trọng, biết nghe lời,
tuân theo đường hướng của cha mẹ; biết lập thân để làm vinh hiển cho gia đình, biết chăm lo phụng
dưỡng cho cha mẹ lúc về già,… Những quan điểm đó cho đến nay vẫn cịn nhiều ý nghĩa giáo dục tình
cảm, đạo đức và trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ. Khi xem xét tình trạng xuống cấp của đạo đức
xã hội, chúng ta càng nhận ra giá trị tư tưởng của các nhà Nho Việt Nam khi lấy đạo đức gia đình làm
chuẩn mực, làm thước đo để xây dựng đạo đức xã hội. Vì vậy hơn lúc nào hết, giáo dục trách nhiệm xã
hội phải bắt đầu từ giáo dục trách nhiệm gia đình, trong đó chú trọng trước hết là trách nhiệm của người
làm con.
1.2.

Mối quan hệ anh – em

Theo Nho giáo, quan hệ anh – em (huynh – đệ) là một mối quan hệ cơ bản trong Ngũ luân. Với Nho
giáo sơ kỳ, mối quan hệ này cũng như các mối quan hệ khác trong gia đình và xã hội vẫn cần có tính
chất hai chiều. Theo đó, “Người anh có lịng u thương, người em có lịng kính mến” (huynh ái đệ kính
– Tả truyện, “Chiêu Công năm thứ 26”), “Người anh hiền lương, người em kính đễ” (huynh lương đệ
đễ - Lễ ký, Lễ vận). Sau này trong xã hội phong kiến theo Nho giáo, nguyên tắc đối xử giữa người với
người thay đổi từ tính chất hai chiều thành một chiều. Vì thế quan hệ anh – em khơng cịn dựa trên tình
cảm u thương thực sự bình đẳng mà đã có sự phân biệt. Tuy nhiên ở các nhà Nho Việt Nam, trong đó
20



Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

có Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Ngơ Thì Nhậm, tư tưởng về mối quan hệ anh – em vẫn chủ yếu
dựa trên tình cảm cốt nhục yêu thương nhau hết mực thân thiết và có trách nhiệm nâng đỡ lẫn nhau.
Nguyễn Trãi cho rằng, anh em phải biết u thương nhau, chớ có làm hại nhau vì anh em cùng do
cha mẹ sinh ra. Ơng coi tình anh em cùng chung một cội và kêu gọi: Thế gian ai có anh em thì nhớ lấy,
chớ có qn nghĩa đệ huynh. Ông khuyên anh em phải thương yêu nhau nhưng không đặt ra yêu cầu em
phải theo anh, cũng khơng nói “quyền huynh thế phụ” như Nho giáo vẫn thường quan niệm. Theo
Nguyễn Trãi, nếu như đối với bạn bè, giới hạn quan hệ không thể tiếp tục khi họ khinh rẻ nhau nhưng
đối với quan hệ anh em thì dù khơng ưa nhau mà có trách móc nhau cũng khơng được cắt đứt quan hệ.
Ơng viết “Bạn tác dễ di đà phải chịu,/ Anh em trách móc ấy khơn từ”. Điều này cho thấy nhận thức
về tình cảm cốt nhục và trách nhiệm yêu thương nhau.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đi từ nhận thức tình cảm tự nhiên về những người có cùng huyết thống để nêu
lên yêu cầu nhất thiết phải xây dựng mối quan hệ tình cảm tốt đẹp và trách nhiệm lẫn nhau giữa anh em.
Bài Khuyến huynh đệ vật cạnh tranh nêu rõ nội dung anh em do cha mẹ sinh thành, cũng là kết quả của
tạo hóa, trời đất nên phải biết giúp đỡ nhau khắc phục khó khăn, nương tựa vào nhau để bảo vệ nhau,
chống lại mọi sự khinh rẻ của người khác, phải lấy sự kính nhường, u thương, thuận hịa làm trọng.
Tình cảm đạo lý anh em cần được trân trọng như tay với chân trên cùng một cơ thể, không nên tranh
giành mà làm tổn hại đến phép tắt gia phong. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhấn mạnh trong quan hệ anh em,
cần giữ gìn phẩm chất cơ bản là thuận hịa. Nếu một trong hai phía anh hoặc em mà khơng thực hiện
trách nhiệm của mình thì quan hệ đó bị phá vỡ. Bởi vì: “Bất hữu huynh phi huynh, bất cung đệ phi đệ”
(Chẳng có lịng hữu ái, anh chẳng ra anh, /khơng có lịng kính mến, em chẳng ra em). Đây là quan điểm
tiến bộ của Nguyễn Bỉnh Khiêm so với quan điểm gia trưởng của Nho giáo phong kiến: “Trên bảo dưới
phải nghe”. Cũng như Nguyễn Trãi, ông đã vượt lên khỏi những giáo lý cứng nhắc, một chiều khắc
nghiệt của Nho giáo phong kiến để chủ trương xây dựng mối quan hệ anh em bình đẳng, sống có trách
nhiệm và thương yêu lẫn nhau. Từ quan niệm anh em là quan hệ máu thịt, tay chân nên phải biết yêu
thương quý mến nhau, Nguyễn Bỉnh Khiêm cảnh báo nếu anh em khơng biết nhường nhịn nhau thì dẫn

đến hậu quả đau lòng như hiện tượng: “Trả đũa, máu chảy thê thảm,/ Tranh ăn, tay bị hủy thương”.
Thông qua những điểm tích lịch sử, ơng chủ trương tạo dựng quan hệ anh em trên cơ sở “tình thân cốt
nhục”, phải biết khoan dung, vị tha cho nhau, chớ có vì lý do gì để tạo nên tình cảnh trái ngang. Điều
đặc biệt là cả Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều dùng hình ảnh anh em có quan hệ cốt nhục như
cành và hạt cùng chung một cây để khun răng anh em phải sống hịa thuận, khơng được bức hại nhau.
21


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Đối với Ngơ Thì Nhậm, quan hệ anh em phải dựa trên sự mộc mạc, trong sáng và có lịng trung hậu.
Ơng viết trong thư trả lời em ruột là Huyền Trai: “Tình như trang sức trắng, mong đạt tới ngơi trên,/
Đạo tựa chiếc xiêm vàng, vẫn giữ lịng trung thuận”. Ngơ Thì Nhậm cho rằng, mỗi anh em trong gia
đình phải có trách nhiệm giữ gìn được đạo làm người theo “danh giáo”, mà muốn vậy còn coi trọng sự
hịa hợp, mến mộ. Chính vì quan hệ anh em là một giềng mối của xã hội nên cần thiết phải duy trì và đề
cao tình nghĩa anh em. Xét từ thực tế lịch sử, ông cho rằng, ngay cả khi đạo lớn đã bị che lấp thì người
ta vẫn biết quý trọng người thân của mình. Vì thế ông mong mỏi: Răn dạy con cháu phải giữ gìn tiếng
thơm của gia tộc, ln cung kính hiếu đễ, chun cần mài giũa đạt tới kết quả công thành danh toại, phúc
ấm đời đời dài mãi.
Như vậy trong quan hệ anh em các nhà Nho Việt Nam đều nêu cao tình yêu thương và giúp đỡ, tương
trợ lẫn nhau. Họ thực hiện những quan niệm đó trong đời sống mẫu mực. Nếu ở cương vị là anh trai
trưởng trong gia đình, họ gương mẫu thực hiện nghĩa vụ bổn phận đối với cha mẹ, với anh em và với
dòng họ. Trách nhiệm đó khơng chỉ thể hiện ở việc ni thay cha mẹ ni dạy các em mà cịn thể hiện
ở việc đường hướng và khai mở con đường tiến thân của các em. Ngơ Thì Nhậm đã thực hiện vai trị của
người anh cả trong gia đình, với trách nhiệm cao nhất là lo toan cho các em khi mẹ mất sớm, cha cịn
cơng cán nơi xa.
Các nhà Nho ln đưa ra các chuẩn mực và bản thân mình nghiêm túc thực hiện các chuẩn mực đó.
Trong quan hệ anh em, họ luôn nêu cao tinh thần cốt nhục và tình u thương, trách nhiệm với nhau.
Khi có vị thế trong xã hội, họ luôn mong muốn từ thực tiễn hành xử của bản thân trong các mối quan hệ

gia đình để tác động đến xã hội, sao cho các chuẩn mực đó được thực hiện. Với uy tín và nhân cách của
bản thân, khi có vị thế trong triều đình, các nhà Nho thường cố gắng tác động đến việc điều chỉnh hành
vi trong các mối quan hệ của hoàng gia. Tuy nhiên do sự tranh giành quyền lực của hoàng gia và sự đấu
đá gây ảnh hưởng của các phe phái trong triều đình, những nỗ lực của họ khơng đạt được như mong
muốn. Vì thế, xảy ra tình trạng anh em ruột thịt mưu hại lẫn nhau dẫn đến “cốt nhục tương tàn” và thậm
chí đẩy các nhà Nho vào hoàn cảnh phải gánh chịu hậu quả từ sự thắng thế hay thất bại của thái tử này
hoặc hồng tử kia. Ví dụ như Trịnh Tơng và Trịnh Cán con của chúa Trịnh Sâm…
Như thế về phương diện chính trị thì các triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt là từ thời Lê Sơ về
sau đều coi Nho giáo là “khuôn vàng thước ngọc” trong mọi mối quan hệ từ gia đình, triều đình đến xã
hội. Các thế lực phong kiến ra sức giáo hóa dân chúng thực hiện theo các chuẩn mực Nho giáo do triều
22


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đình quy định nhưng bản thân họ, những người sử dụng Nho giáo như là một cơng cụ chính trị thì lại vi
phạm những chuẩn mực và quy định đó. Chỉ riêng vấn đề trách nhiệm trong quan hệ anh em của các
triều đình Nho giáo chính thống đã thể hiện sự mâu thuẫn giữa giáo lý và thực tiễn hành xử. Xét đến
cùng việc các nhà Nho thường khuyên anh em tránh việc tranh giành, mưu hại nhau mà phải biết nhường
nhịn thương yêu nhau không chỉ xuất phát từ thực tiễn đời sống bản thân, gia đình họ mà cao hơn cả là
niềm mong muốn triều đình và xã hội ln được thuận hịa n vui
1.3.

Mối quan hệ chồng – vợ

Quan hệ chồng – vợ là quan hệ cơ bản trong gia đình nói riêng và trong xã hội nói chung. Nho giáo
đặt quan hệ này đứng thứ ba trong các mối quan hệ cơ bản của xã hội (“Tam cương”). Các nhà Nho đều
nói “Phu – Thê” hay “Phu – Phụ” để diễn tả quan hệ giữa chồng và vợ. Ở đó, chồng được coi là cương
lĩnh của vợ, có tồn quyền, cịn vợ có nghĩa vụ phải theo chồng, tức là hoàn toàn phụ thuộc (“phu xướng

phụ tùy”, “xuất giá tòng phu”,…). Khi Nho giáo truyền bá vào nước ta, những tư tưởng bất bình đẳng
trong quan hệ chồng – vợ cũng được bám rễ vào đời sống xã hội. Ở các nhà Nho Việt Nam, như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Ngơ Thì Nhậm, bên cạnh những quan niệm theo Nho giáo truyền thống,
đòi hỏi vợ phải có trách nhiệm và bổn phận đối với chồng, các ơng cũng có nhiều quan điểm tiến bộ
khẳng định vị thế của người vợ đối với người chồng và đối với gia đình.
Nho giáo coi cuộc sống vợ chồng là cơ sở tồn tại của gia đình. Nhưng xuất phát từ quan điểm coi
trọng huyết thống và từ thái độ coi rẻ phụ nữ (xếp đàn bà và bọn tiểu nhân vào cùng một giuộc là hạng
người khó ni dạy) Nho giáo đặt tình nghĩa anh em cao hơn tình nghĩa vợ chồng. Vợ chết thì có thể
được lấy vợ khác, chứ anh em khơng cịn thì biết lấy gì mà thay thế? Phụ nữ là người phải hứng chịu
nhiều nhất những đau khổ, thiệt thòi do chế độ hà khắc, bất cơng và bất bình đẳng trong xã hội và trong
gia đình gây nên. Bị dồn nén trong vịng cương của tứ đức “cơng dung ngơn hạnh”, người phụ nữ chỉ
biết phận mình là phải nép vào khn phép, biết tự kìm chế, tước bỏ mọi ham muốn cá nhân, chịu thuần
dưỡng để vâng lời, để nhường nhịn, để kiên nhẫn chịu đựng và hi sinh. Cô con gái ngay trước lúc về nhà
chồng đã được mẹ dặn “vãng nhi nhữ gia, tất kính, tất giới, vô vi phu tử” (con gái khi về nhà chồng thì
nên kính nhường, giữ mình cho khéo, đừng trái ý chồng – Mạnh Tử - Đằng Văn Công, Hạ, 22). Họ phải
đeo dai dẳng đạo lý tam tòng “tại gia tịng phụ, thích nhân tịng phu, phu tử tịng tử”, người đàn bà suốt
đời bị phụ thuộc vào người đàn ông, dù đó là người cha chồng hay là con trai. Cũng không kém phần ác
nghiệt, Nho giáo cho rằng người đàn ơng có thể có năm thê bảy thiếp nhưng người đàn bà thì khơng thể
23


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

có hai chồng, cũng ví như bậc trung thần không thể thờ hai vua “trung thần bất sự nhị quân, liệt nữ bất
giá nhị phu”.
Về vị trí quan hệ chồng – vợ, các nhà Nho Việt Nam đều khẳng định, đây là một quan hệ cơ bản
của xã hội nói chung và của gia đình nói riêng. Nếu như Nguyễn Trãi chú trọng vai trị duy trì nịi giống
(“nối tơng”) của quan hệ chồng – vợ thì Nguyễn Bỉnh Khiêm và Ngơ Thì Nhậm đều khẳng định quan hệ
chồng – vợ là đầu mối của phong tục và giáo hóa. Nguyễn Bỉnh Khiêm chú trọng tới tình cảm, nghĩa vụ

và trách nhiệm giữa chồng và vợ. Vì đạo chồng – vợ được “xem rất trọng” nên ông chủ trương giáo hóa
phải “bắt đầu từ nơi buồng the” thì mới trở nên “có trật tự” từ gia đình đến ngồi xã hội. Ngơ Thì Nhậm
cho rằng: “Vợ chồng là đầu mối của nhân luân, là nền móng của phong hóa, khởi đầu thận trọng, kết
cục sẽ tốt lành, dựng được nền móng thì gốc rễ mới bền chặt” và nhấn mạnh: “Vợ chồng là gốc của đạo
người” (Phu phụ nhân luân chi bản).
Nguyễn Trãi khẳng định, người vợ có vai trị giữ gìn sự bình n trong gia đình. Ơng cũng chỉ
khuyên người chồng phải sống chung thủy, không nên và không nỡ phụ bạc với người vợ đã cùng chung
sống với mình từ lúc cịn hàn vi, nghèo khổ, chưa thành đạt (“Yên nhà nỡ phụ vợ tao khang”). Nguyễn
Bỉnh Khiêm cũng có quan niệm tương tự trong bài Khuyến phụ đãi thê (Khuyên chồng đỗi đãi với vợ).
Ông coi quan hệ vợ - chồng là tình nghĩa từ thuở ban đầu nghèo khó khơng rời bỏ nhau (“nghĩa tao
khang”), nên chủ trương phải lấy sự gắn bó, thủy chung làm đầu, cần phải thông cảm và sẻ chia trách
nhiệm với nhau (“Sau ngày kể vợ tao khang,/ Xin xót cùng nhau hỡi thế thường”). Ngơ Thì Nhậm phân
biệt rõ ràng trách nhiệm và bổn phận của người vợ và người chồng trên quan điểm Nho giáo. Ơng nói:
“Đàn bà lo việc trong, đàn ơng lo việc ngồi”. Ở đây, Ngơ Thì Nhậm cũng có cách nhìn tương tự như
Nguyễn Trãi về vai trị “giữ n” gia đình của người vợ. Quan niệm đó ăn sâu vào trong suy nghĩ không
chỉ của các nhà Nho thời xưa mà đến nay, nhiều người vẫn quan niệm như vậy. Điều này hiện nay được
nhìn nhận là bảo thủ, bất bình đẳng giới, khơng tạo điều kiện giải phóng sức lao động và sự tự do cá
nhân cho người vợ.
Nguyễn Trãi, trong bài Giới sắc (Răn bảo người ham mê sắc dục), đã nhìn nhận xưa nay “sắc dục
là giặc” làm tổn hại tinh thần, làm mất cơ nghiệp của cả triều đại, làm bại hoại gia đình, tan nát nhà cửa.
Từ đó, ơng chủ trương khơng thể khơng quan tâm đến việc giữ gìn đạo lý vợ chồng để thực hiện truyền
nối giống nòi về sau (Phu phụ đạo thường chăng được chớ, Nối tông họa phải một đôi khi). Nguyễn Trãi
cũng chỉ ra rằng, tình yêu thương được nâng lên thành trách nhiệm thì khó có ai có thể vượt qua được
24


Dấu ấn của Nho giáo trong xây dựng các mối quan hệ gia đình ở Việt Nam thời kì Lê – Nguyễn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

vợ con mình, nhất là sự chia sẻ ngọt bùi của người vợ khi về già. Ông viết: “Dấu ai qua vợ con?... Càng

già, càng ngẫm của bùi ngon”. Quan niệm này của Nguyễn Trãi giống với quan niệm dân gian: “Con
chăm cha không bằng bà chăm ông”. Thực tế cho thấy, càng khi về già, tình cảm vợ chồng càng được
thể hiện một cách rõ rệt hơn dựa trên sự gắn bó trách nhiệm. Từ những quan niệm trên đây của Nguyễn
Trãi cho thấy, ở đó, chứa đựng những tư tưởng tiến bộ, vừa xét tới vai trò di truyền sinh học và tính kế
thừa xã hội trong quan hệ chồng – vợ, đồng thời khẳng định vai trò của người vợ trong việc đảm bảo
hạnh phúc gia đình và thơng qua đó giáo dục ý thức trách nhiệm của người chồng đối với người vợ.
Nguyễn Bỉnh Khiêm quan niệm, chồng và vợ phải rộng lượng bao dung, hòa thuận với nhau theo
cách: “Lỗi nhỏ thứ cho đừng sá giận, /tình thân nghĩ đến sá nên thương”. Ơng coi thường những người
chồng thuộc hạng người chỉ biết bòn rút hết của cải nhà vợ rồi lại phụ bạc vợ, chê vợ già nua mà ruồng
rẫy bỏ vợ. Ông phê phán những kẻ không biết đạo chồng vợ là đầu mối của các quan hệ cơ bản trong xã
hội, nóng vội muốn giàu sang ngay nên phụ bạc vợ rồi đi lấy người khác có quyền thế và giàu có hơn. Ở
đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện tư tưởng về trách nhiệm cũng như tình cảm yêu thương nhau trong
quan hệ chồng – vợ, qua đó vẫn cho thấy, ông đề cao người chồng hơn người vợ. Bởi vì ơng khun
chồng đối đãi với vợ theo kiểu chiếu cố, gia ơn, cưu mang, thương xót,… Hơn nữa theo ông, “chồng và
vợ, kẻ xướng có kẻ tùy” (phu phụ xướng tích tùy), “làm chồng thì xướng xuất, làm vợ thì noi theo”.
Quan điểm đó thể hiện sự bảo thủ và gia trưởng theo tinh thần Nho giáo phong kiến. Điều này càng dễ
nhận thấy khi ông nêu rõ đạo làm vợ phải thực hiện trọn vẹn chữ “tòng” trong bài Khuyến phụ sự phu
(khuyên vợ thờ chồng). Theo đó người vợ “thờ chồng” cần phải thể hiện sự coi trọng hơn cả “thờ cha”,
phải giữ được nề nếp, không phạm lỗi với nhà chồng, dù chồng có nghèo khó cũng phải tỏ ra vui vẻ chứ
không được “mặt nặng mày nhẹ”, dẫu chồng có thấp hèn cũng phải nhẫn nhịn chịu đựng chứ không được
sai ngoa, trước sau đều phải tin tưởng, kính cẩn với niềm ân ái, khuya sớm thường xun giữ gìn nét
thuận hịa. Thực hiện những điều đó là thực hiện “Một chữ tịng hay vẹn được,/ Ấy mới là phải đạo đàn
bà”. Với việc quán triệt quan điểm Nho giáo phong kiến khi nhấn mạnh, nhất nhất mọi cái người vợ đều
phải có bổn phận làm theo người chồng, Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa thể hiện hạn chế đến mức khắc nghiệt,
vừa phản ánh tính phổ biến của sự bất bình đẳng đối với phụ nữ dưới xã hội phong kiến nói chung. Thậm
chí quan điểm bất bình đẳng này cịn được thể hiện rõ hơn khi ơng “khun vợ cả ni vợ thiếp”. Ở đó
người vợ cả coi người vợ bé chỉ như hàng nô tì, cần được ni, sai bảo và cần “dưỡng tính” để người vợ
cả “thong thả chơi”.

25



×