Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Khoá luận vấn đề dân chủ trong tư tưởng của nguyễn an ninh giai đoạn 1923 – 1928

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (815.9 KB, 87 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-------------------

LÊ NGỌC HIỂN

VẤN ĐỀ DÂN CHỦ TRONG TƢ TƢỞNG CỦA
NGUYỄN AN NINH GIAI ĐOẠN 1923 – 1928

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH – 2016 – X


Hà Nội, 2020
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-------------------

LÊ NGỌC HIỂN

VẤN ĐỀ DÂN CHỦ TRONG TƢ TƢỞNG CỦA
NGUYỄN AN NINH GIAI ĐOẠN 1923 – 1928

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH – 2016 – X

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN THANH BÌNH



Hà Nội, 2020


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.............................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận ...................................................... 6
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.............................................. 6
5. Ý nghĩa của khóa luận .............................................................................. 7
6. Kết cấu ...................................................................................................... 7
NỘI DUNG ................................................................................................... 8
CHƢƠNG 1: TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CỦA
NGUYỄN AN NINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ ........................................... 8
1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội cho sự hình thành tư tưởng của Nguyễn An
Ninh về vấn đề dân chủ ................................................................................. 8
1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới ....................................................... 8
1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam .................................................... 9
1.2. Tiền đề hình thành tƣ tƣởng chính trị Nguyễn An Ninh ................... 13
1.2.1. Một số luận giải của tƣ tƣởng phƣơng Đông về dân chủ................ 13
1.2.2. Tƣ tƣởng dân chủ tƣ sản .................................................................. 17
1.2.2.1. Dấu ấn dân chủ trong những Tân văn, Tân thư của học giả Trung
Quốc – Nhật Bản ......................................................................................... 17
1.2.2.2. Tư tưởng Jean – Jacques Rousseau về dân chủ ............................ 18
1.2.2.3. Tư tưởng Mahatma Gandhi và Tôn Trung Sơn về dân chủ .......... 19
1.2.3. Tƣ tƣởng xã hội chủ nghĩa ............................................................... 21
1.2.3.1. Tư tưởng của Charles Rappoport và Jean Jaures về dân chủ ....... 21
1.2.3.2. Tư tưởng của Karl Marx và Vladimir Illyich Lenin về dân chủ .... 23
1.3. Nguyễn An Ninh – cuộc đời và sự nghiệp........................................... 24

Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................... 30
CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG VẤN ĐỀ DÂN CHỦ TRONG TƢ
TƢỞNG NGUYỄN AN NINH ................................................................... 32


2.1. Quan niệm của Nguyễn An Ninh về hai nguyên tắc dân chủ ............ 32
2.1.1. Nguyên tắc tự quyết về tinh thần ....................................................... 32
2.1.2. Nguyên tắc dân chủ trong sự truy vấn bản chất kinh tế và chính trị 37
2.2. Vấn đề dân chủ trong tƣ tƣởng Nguyễn An Ninh .............................. 42
2.2.1. Bản chất của vấn đề dân chủ ở thuộc địa ......................................... 42
2.2.2. Quan niệm về vai trò - vị trí của nhân dân........................................ 50
2.2.3. Bàn luận về cách mạng và thỏa hiệp................................................. 58
2.2.4. Luận về phương thức thực hành dân chủ......................................... 62
2.3. Giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng của Nguyễn An Ninh về vấn đề
dân chủ ....................................................................................................... 67
2.3.1. Giá trị nổi bật.................................................................................... 67
2.3.2. Hạn chế chủ yếu ................................................................................ 69
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................... 71
KẾT LUẬN ................................................................................................. 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 77


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan rằng, khóa luận tốt nghiệp đại học với đề tài: “Vấn đề
dân chủ trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh (giai đoạn 1923 – 1928)” là
cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS Nguyễn Thanh Bình.
Các số liệu, trích dẫn và tài liệu tham khảo trong luận văn là hồn tồn
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.


Tác giả khóa luận tốt nghiệp

Lê Ngọc Hiển


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS.TS Nguyễn
Thanh Bình, người đã trực tiếp chỉ bảo tận tình, hướng dẫn và khích lệ tơi
trong q trình học tập và kiên định trong việc tìm hiểu, nghiên cứu cũng như
thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô, tập thể cán bộ trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đặc biệt, lời cảm ơn của tôi xin được tri ân tới
các thầy cô trong khoa Triết học - những người thầy người cô đã gợi mở,
hướng dẫn, động viên và trao đổi những ý kiến khoa học quý báu trong quá
trình học tập, rèn luyện để có thể hồn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Cuối cùng, tơi xin được cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã luôn ủng hộ
và giúp đỡ tơi trong nỗ lực nghiên cứu, hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

Hà Nội, ngày 23 tháng 06 năm 2020
Sinh viên

Lê Ngọc Hiển


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Vấn đề dân chủ (democracy’s problem) có lẽ là một trong những vấn đề
gây nên những tác động đa chiều chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Từ
xuất phát điểm trong môi trường của các cuộc thử nghiệm chính trị Hy Lạp –
La Mã thời cổ đại, dân chủ trải qua quá trình vận động và phát triển mạnh mẽ
với tư cách của một khái niệm tự thân được nhận thức bởi các cá nhân hoặc
các cộng đồng cụ thể. Thậm chí, dân chủ cũng được xem xét trên phương diện
của một vấn đề. Sự hiện tồn của con người ln có xu hướng ngoại tại là phát
triển qua từng giai đoạn , nhưng khơng vì vậy mà vấn đề dân chủ khơng được
quan tâm. Trước những thách thức, xung đột có thể nảy sinh nguy cơ chi phối
và thậm chí bần cùng hóa đời sống cá nhân cũng như đời sống cộng đồng.
Viễn cảnh đó khiến con người cá nhân khơng cịn có thể thuần túy mặc nhiên
chấp nhận điều đó là tất yếu. Dân chủ không dừng lại ở phương thức tổ chức điều chỉnh quyền lực của các cơ quan đại diện ý chí, nguyện vọng của cá nhân
và xã hội mà còn là động lực tinh thần cho những thay đổi to lớn. Trong lịch
sử tư tưởng lẫn lịch sử lồi người, khơng ít những hiện tượng đại tự sự nhân
danh giá trị văn minh, tiến bộ để áp đặt những cá nhân, quốc gia, dân tộc mà
bị coi là trái với những giá trị đó.
Sự kiện thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng ngày 01/09/1858
đánh dấu cùng một lúc tồn tại hai quá trình tiếp cận Việt Nam như một đối
tượng mà chúng muốn tác động. Một bên là giới chính trị - quân sự nước
Pháp tiến hành xâm lược, thực hiện quá trình “thực dân hóa” đối với Việt
Nam. Đối nghịch hồn tồn với “thực dân hóa” là cuộc đấu tranh giành độc
lập – tự do trường kì của người Việt Nam. Đặc biệt hơn, vấn đề dân chủ lập
tức được xác lập ngay trong phong trào chống thực dân ở Việt Nam. Vấn đề
này càng trở nên quyết liệt hơn, khi nó bước sang những năm đầu thế kỉ XX.
Với việc thế hệ trí thức Nho học khởi xướng Đông du – Duy tân (như Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thành (tự Tiểu La), Tăng Bạt Hổ...),


2
những cảm quan sâu sắc về dân tộc tính và khát khao cải cách quốc gia đã

phát triển phong trào chống thực dân đến giai đoạn vận động dân tộc – dân
chủ những năm 1923 – 1928. Bằng các cách nhìn nhận và phương pháp khác
nhau, những nhân vật như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Cao Văn
Chánh, Trần Huy Liệu, Bùi Quang Chiêu,…phát động liên tiếp và không
khoan nhượng các cuộc đấu tranh phản kháng lại không gian thuộc địa do
thực dân Pháp áp đặt. Vấn đề dân chủ đã chính thức có vị trí khơng thể thay
thế trong các hình thức biểu đạt chính kiến của giới trí thức Việt Nam (nói
riêng) và quần chúng nhân dân Việt Nam (nói chung).
Nguyễn An Ninh là nhà trí thức u nước, nhà báo và là nhà hoạt động
cách mạng có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX. Bằng vốn
hiểu biết sâu rộng và sự khát khao nồng nhiệt của một người con Việt Nam
yêu nước, Nguyễn An Ninh đã có những tác động mạnh mẽ trong việc truyền
bá những tri thức của nhân loại đến quần chúng nhân dân, khơi dậy tinh thần
tranh đấu và giúp nhân dân thức tỉnh nghĩa vụ của mình trước những kiềm
lực, áp bức của chế độ thuộc địa.
Trong bối cảnh rối ren đầu thế kỷ XX, có khơng ít khó khăn và thách
thức đã thành ngăn trở sự truyền bá, thẩm thấu sâu rộng của các nguồn tư
tưởng Việt Nam đến đời sống vật chất – tinh thần con dân đất Việt. Những
biến động to lớn của lịch sử dân tộc cũng như cả một giai đoạn đất nước gồng
mình trong khói lửa chiến tranh đã làm khuất lấp đi phần nào những di sản tư
tưởng của bậc tiền bối, để lại những khoảng trống trong nghiên cứu và kho
tàng tư tưởng dân tộc. Nguyễn An Ninh cũng không nằm ngồi bối cảnh đó.
Ơng trút hơi thở cuối cùng ở Côn Đảo trong khi đất nước chưa được độc lập
hoàn toàn, kho tàng sách vở và những tác phẩm ông để lại bấy giờ phải đối
mặt với liên tiếp những thách thức nghiệt ngã của lịch sử. Có khơng ít những
bài báo, bài viết của ông bị chế độ kiểm duyệt của thực dân Pháp cắt xén
nhiều hoặc thậm chí bị đe dọa tịch thu. Đến ngày Nam Bộ bước vào cuộc đấu
tranh chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai (23/09/1945), gia đình



3
Nguyễn An Ninh và chính quyền cách mạng cố gắng bảo vệ kho tàng sách vở
của ông, song do chiến tranh loạn lạc nên bị mất và thất lạc nhiều. Mặt khác,
nguồn tư liệu lưu trữ trong và ngoài nước chưa thể tiếp cận và khai thác một
cách đầy đủ, dẫn đến nhiều khó khăn trong việc xây dựng tầm nhìn bao quát
về tư tưởng Nguyễn An Ninh cả về diễn trình hình thành những tư tưởng cũng
như ý nghĩa và vai trị của chúng.
Khóa luận “Vấn đề dân chủ trong tƣ tƣởng của Nguyễn An Ninh giai
đoạn 1923 – 1928” là một sự triển khai tìm tịi đối với những giá trị cịn ít
được đề cập trong tư tưởng Nguyễn An Ninh. Người viết hi vọng nghiên cứu
này sẽ góp một phần nhỏ bé làm sáng tỏ hơn vấn đề dân chủ trong tiến trình
tư tưởng của Nguyễn An Ninh, từ đó giúp cho sự đánh giá khách quan về vai
trị và đóng góp của ơng đối với lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam cũng như
những giá trị, ý nghĩa của tư tưởng Nguyễn An Ninh đối với thực tiến cuộc
sống ngày nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có khá phong phú những số bài viết, tác phẩm, cơng trình nghiên cứu
về Nguyễn An Ninh trên phương diện cuộc đời và sự nghiệp. Nhà nghiên cứu
Nguyễn Q.Thắng (tên thật là Nguyễn Quyết Thắng) khi nghiên cứu về cuộc
đời - sự nghiệp Nguyễn An Ninh đã tìm hiểu, phát hiện có một điểm đáng chú
ý. Ông viết: “…nhà văn Dương Minh Đạt tự Lầu hư cấu đời ông (NAN)
thành một tiểu thuyết “Anh hùng ba mặt” (Bí mật phi thường) 3 cuốn. Sách
do Nhà in Xưa Nay của Nguyễn Háo Vĩnh xuất bản năm 1927” [30, tr. 15].
Tính đến nay, tiểu thuyết này là tác phẩm sớm nhất viết về cuộc đời Nguyễn
An Ninh từ những ngày ông hoạt động cách mạng cho đến khi qua đời vào
năm 1943. Nhà văn, nhà hoạt động xã hội Lê Văn Thử (1905 – 1969) cho ra
đời cuốn sách Hội kín Nguyễn An Ninh vào năm 1949. Với tư cách là người
hoạt động cùng Nguyễn An Ninh, ông đã trình bày cụ thể quá trình hoạt động
của Nguyễn An Ninh trong phong trào Hội kín cùng một số gương mặt khác
như Võ Công Tồn, Phan Văn Hùm… Tiếp đó phải kể đến thiên phóng sự 12



4
kỳ của nhà báo Nguyễn Ngọc Danh mang tên “Những ngày cuối cùng của
nhà Cách mạng NGUYỄN AN NINH tại Cơn Đảo” đã được đăng tồn văn
trên báo Tiếng Dội Miền Nam từ ngày 15 đến ngày 30/8/1961. Thiên phóng
sự thể hiện sự trân trọng, ngưỡng mộ đối với sự dấn thân của Nguyễn An
Ninh cho sự nghiệp cách mạng chống Pháp. Ngồi ra cịn có thể kể đến cuốn
Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh – thân thế và sự nghiệp của Phương Lan –
Bùi Thế Mỹ (in năm 1971), chủ yếu tập trung mô tả tiểu sử của Nguyễn An
Ninh. Đó là các bài viết, sách của các tác giả miền Nam những năm 1949 1971 về cuộc đời hoạt động Nguyễn An Ninh. Nhìn chung, các tác giả bày tỏ
sự tôn vinh đối với tài năng, phẩm chất và đóng góp của ơng. Ở miền Bắc
trước 1975, những tư liệu về Nguyễn An Ninh dường như rất hạn chế, kéo
theo đó là sự mâu thuẫn, khơng rõ ràng và thiên kiến trong những quan điểm
về nhà tư tưởng này.
Sau ngày thống nhất đất nước, việc nghiên cứu tư tưởng Nguyễn An
Ninh mới có thêm cơ hội để triển khai một cách khoa học và khách quan hơn.
Khởi đầu là tác phẩm Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến
cách mạng tháng Tám (1975) của nhà sử học Trần Văn Giàu 1 . Ngày
15/09/1987, Hội thảo khoa học đầu tiên về Nguyễn An Ninh được tổ chức tại
Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh (chủ trì bởi Ban Tuyên huấn Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh). Trước những ý kiến khác nhau về Nguyễn An
Ninh, ơng Dương Đình Thảo - Trưởng ban Tun huấn Thành ủy Thành phố
Hồ Chí Minh đã phát biểu rằng “không ai bôi đỏ Nguyễn An Ninh nhưng
không cho phép ai bôi đen Nguyễn An Ninh” [39, tr. 3]. Hội thảo đi đến việc
ghi nhận những đóng góp to lớn của Nguyễn An Ninh đối với cơng cuộc giải
phóng dân tộc.
Từ sau Hội thảo, có rất nhiều bài viết, sách, tạp chí tập trung nghiên cứu
và đưa ra những nhận định, quan điểm về Nguyễn An Ninh như: Nguyễn An
1 Tác phẩm của nhà sử học Trần Văn Giàu xuất bản năm 1975 – Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, sau được tập hợp trong Tổng tập Trần Văn Giàu - tập

3 của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, năm 2008.


5
Ninh (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh – 1988), Sự tiến hóa liên tục của
Nguyễn An Ninh, một lãnh tụ cách mạng hùng biện (tác giả: Hà Huy Giáp,
Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh – 1989), Nguyễn An Ninh nhà trí thức
yêu nước (Tạp chí Xưa và Nay – 2003), Nguyễn An Ninh – Tôi chỉ làm cơn
gió thổi (tác giả: Nguyễn Thị Minh, Nhà xuất bản Trẻ - 2005)… Về luận văn
nghiên cứu tư tưởng Nguyễn An Ninh, có luận án của Phạm Thị Đoạt với đề tài
Tìm hiểu một số tư tưởng của Nguyễn An Ninh về Phật giáo (1997), luận án của
Lê Thị Mận với đề tài Tư tưởng Nguyễn An Ninh về văn hóa, chính trị và tơn
giáo (2011),... Trong tác phẩm “Lịch sử triết học phương Đơng” của tác giả
Dỗn Chính, Nguyễn An Ninh được ghi nhận với vai trò “đảm nhận xuất sắc
cuộc đấu tranh trên diễn đàn báo chí, tư tưởng và diễn thuyết nhằm phê phán
phong kiến, thực dân; tuyên truyền tư tưởng dân quyền” [4, tr. 1355]
Sự ra đời của Nguyễn An Ninh – Tác phẩm và Nguyễn An Ninh - Qua hồi
ức của những người thân vào tháng 6 năm 2009 là một điểm nhấn đặc biệt.
Đây là thành quả nỗ lực to lớn của vợ chồng Nguyễn Sơn - Nguyễn Thị Minh
(con rể và con gái của Nguyễn An Ninh) cùng với Trung tâm Nghiên cứu
Quốc học, Nhà xuất bản Văn học và các học giả và chuyên gia tiếng Pháp
trong việc sưu tầm, xử lý, trực tiếp dịch thuật (vì phần lớn các bài viết của
Nguyễn An Ninh đều viết bằng tiếng Pháp). Như lời mở đầu của Mai Quốc
Liên (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc học) trong cuốn Nguyễn An
Ninh – Tác phẩm, “tác phẩm Nguyễn An Ninh, con người Nguyễn An Ninh,
phản chiếu cả một giai đoạn đấu tranh bi tráng của cả đất nước, có phần bị mờ
nhạt trong chúng ta” [22, tr. 8]. Từ đó, tác giả đi đến quan điểm rằng việc tìm
đọc di sản tư tưởng Nguyễn An Ninh “là việc hết sức cần kíp lúc này của văn
hóa, của khoa học xã hội và nhân văn, của chính trị - tư tưởng…” [22, tr. 11].
Nhìn qua tình hình nghiên cứu sơ bộ, tư tưởng Nguyễn An Ninh, xét về

khía cạnh tiểu sử và sự nghiệp, được sự quan tâm của nhiều người, nhiều tác
giả. Nhưng có một thực tế cần nhận thấy ở đây là mỗi tác giả có cách tiếp cận
nghiên cứu về từng khía cạnh riêng rẽ. Mặt khác, vấn đề dân chủ trong quan


6
niệm chính trị của Nguyễn An Ninh chưa được khai thác trong những tác
phẩm nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng của ơng. Nghiên cứu hi vọng đóng góp
cách tiếp cận tư tưởng Nguyễn An Ninh trên phương diện tìm hiểu và ghi
nhận vấn đề dân chủ là một trong những trọng tâm tư tưởng của Nguyễn An
Ninh trong những năm 1923 – 1928.
3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
3.1. Mục đích
Trên cơ sở trình bày, giới thiệu có hệ thống về tư tưởng của Nguyễn An
Ninh về vấn đề dân chủ (1923 – 1928) để từ đó góp phần làm sáng tỏ hơn
những giá trị và hạn chế trong tư tưởng Nguyễn An Ninh.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt tới mục đích nghiên cứu, tác giả đề ra một số nhiệm vụ cụ thể
như sau:
- Phân tích những điều kiện lịch sử - xã hội và tiền đề cho sự hình thành
vấn đề dân chủ trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh.
- Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Nguyễn An Ninh
về vấn đề dân chủ.
- Chỉ ra và phân tích những giá trị nổi bật và hạn chế chủ yếu trong tư
tưởng của Nguyễn An Ninh về vấn đề dân chủ.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Nghiên cứu dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, tư tưởng triết học chính trị về dân chủ của phương Tây và phương
Đông.

4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu


7
Khóa luận chủ yếu sử dụng phương pháp biện chứng duy vật trong triết
học Marx – Lenin và phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học kết hợp với
một số phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích – tổng hợp, lịch sử cụ thể, khái qt hóa, trìu tượng hóa, v.v.
5. Ý nghĩa của khóa luận
Thơng qua q trình nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn An Ninh về vấn đề
dân chủ, khóa luận góp phần làm sáng tỏ hơn những nội dung trong tư tưởng ấy
của ông cùng những giá trị và hạn chế của nó. Khóa luận có thể là tài liệu phục
vụ cho việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Việt Nam đầu thế kỉ XX.
6. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của khóa luận gồm có 02 chương, 06 tiết.


8
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CỦA
NGUYỄN AN NINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ
1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội cho sự hình thành tư tưởng của Nguyễn An
Ninh về vấn đề dân chủ
1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới
Lịch sử thế giới giai đoạn 1923 – 1928 đã chứng kiến những thay đổi to
lớn, tập trung và ảnh hưởng mạnh nhất là lĩnh vực chính trị và lĩnh vực kinh
tế. Sau khi trải qua giai đoạn Phát kiến địa lý (thế kỷ XV- thế kỷ XVI) và
Cách mạng tư sản (thế kỷ XVII - thế kỷ XVIII), chủ nghĩa tư bản phương Tây
bắt đầu chuyển từ tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc, tiến tới xác lập hệ
thống trên toàn thế giới với sự ra đời của các công ty độc quyền. Điều này,

theo Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang, dẫn tới chính sách nhất quán của các
nước lớn ở châu Âu: “trong nước thì khuyến khích kĩ nghệ, ngồi nước thì
kiếm thuộc địa” [16, tr. 663]. Sự phát triển chủ nghĩa tư bản châu Âu những
năm 70 – 80 thế kỷ XIX (qua Cách mạng công nghiệp) không đồng bộ với
những thay đổi xã hội theo hướng tự do, dân chủ. Mặt bằng chính sách của
những nước thực dân châu Âu là đi xâm chiếm thuộc địa (để mở rộng thị
trường), biến thuộc địa thành “một đất thực dân” và tiến hành “bóc lột các dân
bản xứ (…) một cách triệt để” [16, tr. 664].
Từ sau cách mạng tháng Mười Nga (1917), các phong trào cách mạng tự
do – dân chủ xuất hiện các lực lượng ủng hộ chủ nghĩa xã hội và tư tưởng
cách mạng cánh tả, bên cạnh phong trào của các đảng phái tự do truyền
thống2. V.I.Lenin đã viết đây là thời kì “Châu Á thức tỉnh” bởi “hàng trăm
triệu người bị áp bức, bị giam hãm tối tăm trong trạng thái trì trệ thời trung
cổ, đã thức tỉnh và bước vào một cuộc sống mới, vào cuộc đấu tranh giành
2 Châu Âu có các cuộc cách mạng bùng nổ ở Phần Lan (1918), Hungary (10/1918), Đức (11/1918)... sau khi trật tự thế giới cũ đã tan vỡ khi Chiến tranh thế giới lần
nhất kết thúc. Giai đoạn 1923 – 1928 ghi nhận làn sóng đấu tranh ở Mỹ (phong trào đấu tranh của công nhân do Đảng Cộng sản Mỹ, thành lập năm 1921, lãnh đạo),
Argentina (cao trào bãi công năm 1919), Brazil (với Cách mạng Tenente 1924 do nhóm binh sĩ, sinh viên, công nhân lãnh đạo),….Châu Phi chứng kiến cuộc đấu tranh
của nhân dân Ai Cập (1918 – 1923), phong trào cải cách Hiến pháp ở Tunisia (1920 – 1922),…


9
những quyền sơ đẳng nhất của con người, giành dân chủ” [14, tr. 187]. Phong
trào Ngũ Tứ (4/5/1919)3 ở Trung Quốc đã tạo nên hiệu ứng của một phong
trào dân tộc chủ nghĩa Trung Hoa tập hợp các nhóm chính trị - xã hội với
nguyện vọng tự do – dân chủ - dân tộc. Thành công của chiến tranh Bắc phạt
(1926 - 1928)4 kết thúc thời kì quân phiệt Trung Hoa và phong trào Bất hợp
tác (Swaraj) ở Ấn Độ (1919 – 1922)5 đã ảnh hưởng lớn đến suy nghĩ và hành
động của Nguyễn An Ninh, khi hai quốc gia châu Á này đều giành được
thành cơng trong q trình đấu tranh dân tộc – dân chủ. Thắng lợi của Hồng
quân Nga trong cuộc Nội chiến (1918 – 1922) và những thành quả đạt được

của nước Nga Soviet sau chiến tranh (với Chính sách Kinh tế Mới – NEP do
V.I.Lenin đề xuất) đã củng cố tiềm lực của nhà nước cộng sản đầu tiên trên
thế giới và thúc đẩy sự ra đời của nhà nước Liên Xô, gây ảnh hưởng lớn tới
các phong trào chính trị - xã hội đối với nhân loại cũng như các dân tộc thuộc
địa.
Hệ quả của những biến đổi to lớn của tình hình thế giới đầu thế kỷ XX
đó là sự xuất hiện của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Á – Phi
– Mỹ Latin trên vũ đài chính trị thế giới, tạo nên những dư chấn mạnh mẽ
ngay trong lòng hệ thống thuộc địa của các nước tư bản phương Tây. Sự xuất
hiện các luồng tư tưởng như chủ nghĩa Tam dân (do Tôn Trung Sơn đề
xướng), chủ trương Bất bạo động (do Mahatma Gandhi đề xướng), chủ nghĩa
xã hội (gia tăng ảnh hưởng từ sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917)…
“đã tác động trực tiếp đến việc lựa chọn con đường cách mạng của các nhà tư
tưởng chính trị ở Việt Nam, nhất là đầu thế kỷ XX” [8, tr. 1251].
1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam
3 Cùng

với sự kiện Ngũ Tứ của Trung Quốc là phong trào Tam Nhất (1/3/1919) ở bán đảo Triều Tiên, đưa cuộc đấu tranh

giành độc lập của Triều Tiên sang giai đoạn mới.

Dưới sự lãnh đạo của chính phủ Quốc dân (nòng cốt là liên minh Quốc dân đảng – Đảng Cộng sản Trung
Quốc), chiến tranh Bắc phạt diễn ra với quy mơ lớn và xóa bỏ ảnh hưởng của các quân phiệt, thiết lập nền
cộng hòa và ổn định tình hình Trung Quốc.

4

5 Phong

trào Bất hợp tác được triển khai dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc đại và sự tham gia của các lực lượng xã hội


khác. Trong đó có những nhóm nhà hoạt động cấp tiến ủng hộ chủ nghĩa xã hội, trở thành tiền thân cho sự ra đời Đảng
Cộng sản Ấn Độ năm 1925.


10
Từ khi thực dân Pháp và triều Nguyễn ký kết Hiệp ước Harmand (1883)
và Hiệp ước Patenôtre (1884), Việt Nam trở thành nước thuộc địa, chịu sự
thống trị của thực dân Pháp. Nền chính trị độc lập, tự do của Việt Nam bị xâm
hại bằng chế độ chia để trị. Học giả Nguyễn Xuân Thọ viết: “rất lâu trước khi
người Pháp đến, Việt Nam là một quốc gia thống nhất, có nền tảng vững
vàng. Từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, có một dân tộc Việt Nam, hồn tồn
thuần nhất, chỉ nói một thứ tiếng như nhau, có phong tục tập quán như nhau.
Nếu nhà cầm quyền Pháp đã chia đất nước ra làm ba “kỳ”, đó khơng chỉ vì
tiện lợi về hành chánh, mà chủ yếu nhằm mục đích “chia để trị” [32, tr. 22].
Nếu cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914), xã hội Việt
Nam xuất hiện “sự phân hóa xã hội sâu sắc và mạnh mẽ ở cả nông thôn lẫn
thành thị” [13, tr. 136], kinh tế Việt Nam đã hình thành tính chất thuộc địa rõ
rệt [13, tr. 152] thì cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 – 1929) làm cho
bộ mặt kinh tế - xã hội Việt Nam trải qua nhiều thay đổi. Việc thực dân Pháp
gia tăng tốc độ tiến hành khai thác nhanh để tận lực thu nguồn lợi mang về
chính quốc khiến xã hội Việt Nam chứng kiến sự lớn mạnh về số lượng cũng
như trình độ của công nhân, tư sản, tiểu tư sản,… đồng thời chứng kiến sự va
chạm, mâu thuẫn giữa những di sản truyền thống và sự du nhập ồ ạt của văn
hóa Pháp.
Từ sau Thế chiến I (1918) đến năm 1928, tình hình Việt Nam diễn ra
những diễn biến mới. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 – 1929) đã
làm cho bộ mặt kinh tế - xã hội Việt Nam trải qua nhiều thay đổi. Với tốc độ
tiến hành khai thác nhanh để tận lực thu nguồn lợi mang về chính quốc, thực
dân Pháp tăng cường khai thác mỏ, mở rộng hệ giao thông - vận tải cũng như

thiết lập hệ thống đồn điền, các cơ sở công nghiệp nhẹ,… nhiều hơn so với
trước nhưng vẫn còn manh mún, rải rác, thậm chí cịn lấn át và cạnh tranh
những ngành nghề kinh tế truyền thống. Ngân hàng Đông Dương (tiếng Pháp:
Banque de l'Indochine, viết tắt BIC) được chính phủ Pháp đẩy mạnh hoạt
động và nguồn lực tài chính, giúp tư bản Pháp kiểm sốt hồn tồn thị trường


11
Đơng Dương cũng như Việt Nam, gây khó dễ cho tư sản Việt Nam bằng
những chính sách áp chế và tăng thuế lớn.
Mối tương quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam
sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) đã nảy sinh những yếu tố
mới. Xã hội Việt Nam chứng kiến sự lớn mạnh về số lượng cũng như trình độ
của cơng nhân, tư sản, tiểu tư sản,… Sự hình thành đô thị và các trung tâm, cơ
sở kinh tế dẫn tới việc thúc đẩy vai trò lớn hơn của giai cấp cơng nhân và giai
cấp tư sản trong mơ hình kinh tế thuộc địa có yếu tố tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam. Với lực lượng hơn 221.050 người [13, tr. 306] và “tập trung tại các cơ
sở kinh tế yết hầu của tư bản Pháp” [13, tr. 306], giai cấp cơng nhân Việt
Nam từng bước khẳng định vai trị và khả năng của mình với tư cách là lực
lượng lao động sản xuất của nền kinh tế thuộc địa và cũng là lực lượng có
tiềm lực cách mạng cho các cuộc đấu tranh chống thực dân. Bên cạnh giai cấp
tư sản với thế lực kinh tế mạnh gồm “ngành dệt, xay xát, sửa chữa cơ khí, mỏ
than, đồn điền cao su” [13, tr. 304] tầng lớp tiểu tư sản của thời kì trước
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã phát triển cùng với sự mở mang của các
đô thị với lực lượng tương đương 600.000 người vào năm 1929 [13, tr. 308 –
309]
Những va chạm, mâu thuẫn giữa những di sản truyền thống và sự du
nhập ồ ạt của văn hóa Pháp dẫn tới những xung đột ngày càng quyết liệt. Sự
phân hóa xã hội trở nên sâu sắc: “địa chủ thì giàu lên nhanh chóng, cịn đại đa
số nơng dân thì rơi vào cảnh nghèo đói, bần cùng” [13, tr. 311]. Nền giáo dục

mà giới chức thực dân Pháp tổ chức ở Việt Nam không thể giấu được một
thực tế đè nén lên mọi cơ hội tiếp nhận tri thức và thực hành của dân tộc Việt
Nam: “hàng ngàn thanh niên bị một hệ thống nhà trường “bỏ rơi”; vào lúc cực
thịnh hệ thống này chỉ thu nhận một phần tư (1/4) đến một nửa (1/2) số dân ở
độ tuổi đi học (...) Sự liên kết tất cả những hiện tượng tiêu cực do SEC đưa
vào đã làm cho nó mất đi, trong con mắt của dân chúng, tính chính đáng với


12
tư cách thiết chế sư phạm để cuối cùng chỉ được cảm nhận như công cụ thống
trị trong tay người nước ngoài” [29, tr. 386]
Chủ trương “Pháp - Việt đề huề” do Albert Sauraut đề xướng gây nên
những luồng ý kiến khác nhau trong phong trào chính trị đương thời. Lực
lượng quốc gia cải lương gồm Đảng Lập hiến (đại diện gồm Bùi Quang
Chiêu, Nguyễn Phan Long,…), Nguyễn Văn Vĩnh với chủ trương Trực trị,
Phạm Quỳnh với chủ trương Quân chủ lập hiến,…có những mức độ nhất định
đối với chủ trương này. Đối lập với xu hương quốc gia cải lương là xu hướng
dân chủ cách mạng với sự xuất hiện của các trí thức Tây học trẻ tuổi như Trần
Huy Liệu, Cao Văn Chánh, Nguyễn Văn Bá, Tôn Quang Phiệt, Bùi Cơng
Trừng, Trần Hữu Độ,…
Nhờ đó, mơi trường chính trị Việt Nam khơng cịn dừng ở mức độ của
các tổ chức, phong trào được triển khai theo thể thức hoạt động bí mật như
Duy tân hội, Việt Nam Quang phục hội hay lực lượng Hội kín ở miền Nam
(tiêu biểu là Thiên Địa hội, với cuộc khởi nghĩa năm 1916). Ý thức xã hội của
quần chúng nhân dân tại các đô thị và những khu vực cận biên đô thị phát
triển mạnh mẽ, nhờ vai trò ngày càng tăng của hệ thống in ấn, truyền thơng và
lực lượng chính trị đối lập (gồm cả cách mạng lẫn ơn hịa) chống thực dân.
Điều này dẫn tới quá trình ra đời, chuyển biến từ các tổ chức chính trị - xã hội
như Đảng Thanh niên (1926), Hội Hưng Nam, Tâm tâm xã, Tồn Việt thư
xã,… đến sự ra đời của Hội Việt nam Cách mạng Thanh niên (1925), Tân

Việt Cách mạng đảng (1925) và Việt Nam Quốc dân đảng (1927). Bên
cạnh đó, là sự hình thành, phát triển của phong trào công nhân đấu tranh
theo khuynh hướng vô sản. Từ chỗ đấu tranh tự phát (trước Thế chiến I cho
đến năm 1924), phong trào công nhân chuyển sang tự giác với thắng lợi
của cuộc bãi công tại xưởng Ba Son (09/1925) và ngày càng phát triển với
vị thế của lực lượng chính trị độc lập trong phong trào chống thực dân cho
đến năm 1928. Tất cả các tổ chức, diễn biến nêu trên đều là một sự thách


13
thức đối với tính chất phi dân chủ, suy thối nghiêm trọng của chế độ thuộc
địa, của mô thức tồn tại xã hội hiện diện trên đất nước Việt Nam.
Chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc đã nô dịch các dân tộc nhược
tiểu, biến vấn đề dân chủ thành nhu cầu cấp bách của nhân dân và mang tính
sống cịn đối với tầng lớp trí thức u nước ở các thuộc địa. Sự bùng nổ của
các phong trào đấu tranh phản đế phản phong cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
mà đỉnh cao là cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là minh chứng
cho khát vọng tự do lớn lao này. Ở Việt Nam, sang tới đầu thế kỷ XX, mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp đã trở nên gay gắt.
Vấn đề dân chủ mà trước hết và trên hết là hệ giá trị dân chủ cho dân tộc đã
trở thành nguồn gốc cho sự bùng phát mạnh mẽ các phong trào đấu tranh với
những con đường, phương thức khác nhau. Điều đó tác động lớn đến tư tưởng
và hành động của các nhà yêu nước Việt Nam, trong đó không thể không kể
đến Nguyễn An Ninh và tư tưởng của ông. Chàng trai trẻ Nguyễn An Ninh đã
mang trong mình khát vọng tự do đó khi bước ra thế giới trong chuyến viễn
du kiến thức của mình. Chính những điều mắt thấy tai nghe về tình hình thế
giới và sự đối chiếu với thực tế cùng khổ của người dân thuộc địa đã đưa ông
đến những nhận thức mới về vấn đề dân chủ, đặc biệt là về mối quan hệ giữa
sự rao giảng dân chủ tư sản và hiện thực dân chủ ở xứ thuộc địa An Nam.
1.2. Tiền đề hình thành tƣ tƣởng chính trị Nguyễn An Ninh

1.2.1. Một số luận giải của tư tưởng phương Đông về dân chủ
Giá trị dân chủ đã tồn tại và hiện diện trong chiều dài lịch sử tư tưởng
Việt Nam nói riêng cũng như lịch sử Việt Nam nói chung. Mặc dù phải đối
diện một thực tế đầy khó khăn rằng thời gian hịa bình thật hiếm hoi khi so
sánh với thời gian trải qua thời chiến, tự do là một phần không thể thiếu trong
những di sản vật chất và tinh thần được xây dựng nên bởi nhiều thế hệ người
Việt Nam, định hình nên dân tộc tính Việt Nam. Xuất phát từ thực trạng như


14
vậy, những luận giải sơ lược của tư tưởng phương Đơng về dân chủ đã có ảnh
hưởng tới Nguyễn An Ninh sâu sắc.
Thông qua tư liệu khảo cổ học, thần thoại và sử học, nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Thục đánh giá ý thức đồn thể dân tộc gắn với tính thiêng của
tự nhiên (thông qua vật tổ và thờ thần linh) [33, tr. 41]. Nguyễn Đăng Thục đã
nhận định điểm đặc biệt trong cổ sử Việt Nam về sự hình thành ý chí dân tộc

Comment [L1]: Nguyễn Đăng Thục (1964).
Tư tưởng Việt Nam – Tư tưởng triết học bình
dân. Nhà sách Khai Trí.

dẫn đến sự lựa chọn của quần chúng nhân dân đối với người mang trọng trách
lãnh đạo. Điều quan trọng nhất là “người lãnh đạo ấy cũng phải coi thiên hạ
quốc gia là của chung, chứ không phải của riêng một nhà, một họ” [33, tr.
42]. Nhà sử học Phan Huy Lê cùng đồng nghiệp đã phân tích tính chia sẻ về

Comment [L2]: Nguyễn Đăng Thục (1964).
Tư tưởng Việt Nam – Tư tưởng triết học bình
dân. Nhà sách Khai Trí.


giá trị chung thơng qua hình ảnh người nữ, người nam khắc trên mặt trống
đồng Đông Sơn cầm các loại nhạc cụ, nhảy múa cùng muông thú, đất trời đã
“phản ánh cuộc sống hiện thực của con người mối quan hệ giữa con người với
thế giới xung quanh, bằng một phong cách diễn tả sinh động (…) với những
đường nét mang tính chất cách điệu, ước lệ, và với một bố cục cân xứng, hài
hòa.” [17, tr. 166 – 167]
Về một khía cạnh khác, yếu tố dân chủ trong lịch sử Việt Nam được xem
xét theo cách tiếp cận kinh tế - xã hội. Trên cơ sở phân tích những chuyển
biến lịch sử Việt Nam thời kì hậu khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà nghiên cứu
lịch sử Lê Văn Siêu đánh giá xã hội bấy giờ manh nha tinh thần dân chủ trong
môi trường sinh hoạt – sản xuất ở các làng xã người Việt. Sự thất bại của cuộc
khởi nghĩa Hai Bà Trưng đánh dấu sự chấm dứt của một chính quyền độc lập
ngắn ngủi, chưa kịp quy định các thành tố cấu tạo nên cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng phù hợp. Điều này dẫn tới sự thiếu hụt trầm trọng lực lượng
sản xuất và những thửa ruộng đất biến thành ruộng đất công (gồm công điền
và công thổ). Việc phân công lao động trong làng xã của người Việt đã dẫn
tới sự bình đẳng cho cả người có tài sản hay khơng tài sản, khi được quy định
rằng cả hai loại người này đều có “quyền hưởng hoa lợi như nhau bằng việc
canh tác những ruộng đất ấy [27, tr. 202].

Comment [L3]: Lê Văn Siêu (2003). Việt Na
văn minh sử - Lược khảo. Tập Thượng: Từ
nguồn gốc đến thế kỉ thứ X. Nhà xuất bản La
động.


15
Lê Văn Siêu dẫn chứng sự phân chia ruộng công ở làng Hạ Lỗ, phủ Từ
Sơn, Bắc Ninh cho thấy dấu vết dân chủ thể hiện ngay trong cách tổ chức
canh tác với mỗi mảnh ruộng khác nhau, ứng với mỗi chức năng khác nhau để

phục vụ lợi ích chung, “lấy hoa lợi dùng vào việc thờ cúng” [27, tr. 202].
Điều này có sức ảnh hưởng lâu dài, đặc biệt đối với toàn bộ nỗ lực đánh giá
bản chất làng xã Việt Nam, xã hội Việt Nam. Và đây cũng là hiện trạng mà
Nguyễn An Ninh làm rõ qua những phân tích của ơng về tính dân chủ ổn định
trong làng xã Việt Nam, phản bác toàn bộ nỗ lực ngụy văn minh của giới cầm
quyền thực dân về việc Việt Nam chỉ tồn tại những hỗn loạn trước khi qn
Pháp đến làm cơng cuộc “khai hóa”.
Vấn đề dân chủ trong tư tưởng Việt Nam chưa có những hệ thống lập
thuyết, quan điểm trực tiếp và mang tính chỉnh thể của các luận đề có tính liên
kết. Khơng gian xã hội và biến động đặc điểm lịch sử phương Đông đã tác
động tới Việt Nam rất lớn. Yếu tố mang tính hài hịa, dung thơng khơng
những gắn với lịch sử dân tộc và văn hóa, mà cịn có sự biểu hiện dưới dạng
giá trị dân chủ với tư cách cá nhân. Đối với trường hợp thơ văn và cuộc đời
của Hồ Xuân Hương, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đánh giá Hồ Xuân
Hương là nhà thơ dân chủ nhất trong số các nhà văn – nhà thơ cùng thời.
“đem vào văn học cả tinh thần thế giới quan của văn hóa dân gian lẫn những
phương tiện ngơn ngữ đặc thù của nó” [40, tr. 7], dù rằng nó “khơng giành
được ưu thế chủ đạo, nhưng không hề bị triệt tiêu khỏi văn học dân tộc” [40,
tr. 7].
Trên phương diện pháp luật, vấn đề dân chủ đã được thể hiện thông qua
các điều luật, quy định hình sự, dân sự trong luật Hồng Đức. Đây là bộ luật
được biên soạn dưới thời vua Lê Thánh Tông, trở thành tư liệu pháp luật
thành văn có tính chất tiến bộ và nhân bản trên phương diện đảm bảo các
quyền cơ bản trong xã hội Hậu Lê: “tất cả những hành động xâm phạm đến
nhân phẩm con người, như con cháu chửi mắng, đánh đập ông bà cha mẹ; anh
em, vợ chồng đánh đập, chửi mắng, lăng mạ, làm nhục nhau (các điều từ 473

Comment [L4]: Lê Văn Siêu (2003). Việt Na
văn minh sử - Lược khảo. Tập Thượng: Từ
nguồn gốc đến thế kỉ thứ X. Nhà xuất bản La

động.


16
đến 476,…); các hành vi tố cáo, vu khống không đúng sự thật và trái quy định
(từ điều 501 đến điều 505); việc quan lại quấy nhiễu ức hiếp dân (điều 164);
tự tiện bắt bớ, giam cầm người vô tội (điều 636); phạm nhân không đáng
gông cùm mà gông cùm (điều 658); vô cớ đánh đập tù nhân (điều 707); đánh
chết hay bức tử người tù (điều 682); tra tấn tù nhân tuổi cao và vị thành niên
(điều 665); không chăm sóc tù nhân (điều 663); xử tội khơng đúng tội danh và
theo luật quy định (điều 679),… đều bị pháp luật nghiêm trị. Đặc biệt, bộ luật
này còn đưa ra những quy định cấm “Các tước vương công và nhà quyền quý
tự tiện thích chữ vào dân đinh” (điều 168), cùng tất cả những ai tự tiện thích
chữ vào mặt vợ, con trai, con gái người khác và nô tỳ, người ở đợ (các điều
165, 168, 365); trị tội những tên quan lại và những người lợi dụng quyền thế
mà ức hiếp lương dân, bắt ép để lấy con gái người dân (điều 336, 338); tự tiện
bắt dân đinh làm đày tớ (điều 302); cấm người ngoài nài ép người vợ muốn
thủ tiết với chồng đi lấy người khác (điều 320) và tất cả những hành động
gian dâm (từ điều 401 đến điều 410 chương Thông gian), v.v.. Đáng lưu ý là,
các điều 401, 403, 404, 406 quy định, những hành động vi phạm nghiêm
trọng nhân phẩm con người, như hiếp dâm (kể cả gian dâm với trẻ em từ 12
tuổi trở xuống đều xếp vào tội hiếp dâm), loạn luân (gian dâm trong nội bộ
gia đình, gia tộc) đều bị trừng trị với hình phạt rất nặng: lưu, chém” [38, tr. 4]
Dân chủ ở xã hội phương Tây đã trải qua quá trình nhận thức tự do trải
từ thời kì các nền văn minh cá nhân đến cận – hiện đại, triết lý phương Đơng
có những dấu ấn lặng lẽ trong những tác phẩm còn lưu lại tới ngày nay. Tư
tưởng của Trang Tử trong Nam Hoa Kinh được đánh giá là sơ khai của một
trạng thái dân chủ trên phương diện tự do cá nhân đạt được từ việc thấu đạt
nhận thức tự chủ về bản tính và tri thức. Nhà nghiên cứu lịch sử triết học
Phùng Hữu Lan nhận định về ý nghĩa của tư tưởng Trang Tử trong thiên Tiêu

Diêu Du, tác phẩm Nam Hoa Kinh như sau: “Thiên đầu sách Trang Tử nhan
đề Tiêu Diêu Du, là một thiên giản dị, gồm nhiều câu chuyện vui. Tư tưởng
tiềm tàng là có nhiều mức độ khác nhau trong sự đạt hạnh phúc. Sự phát triển


17
tự do bản tính mọi người có thể dẫn ta đến một thứ hạnh phúc tương đối;
muốn có hạnh phúc tuyệt đối, phải có một hiểu biết cao về bản chất sự vật”
[Dẫn theo: 9, tr. 90]
Ảnh hưởng của đấng sinh thành, cũng như truyền thống gia đình và quê
hương đã tác động đến Nguyễn An Ninh ngay từ thuở thiếu thời. Khơng khí
của phong trào Minh tân Nam Kì (lấy ý từ câu Minh đức tân dân), mà Nguyễn
An Khương – thân phụ của Nguyễn An Ninh và là một trong những thành
viên cốt cán trong phong trào, đã giúp Nguyễn An Ninh thấu cảm tinh thần
dân chủ. Điều đó khơng chỉ đơn thuần là ý thức của biết bao thế hệ người Việt
thể hiện trong lối sống đối nhân xử thế, cầu học cầu tài mà còn là sự khát
khao làm chủ vận mệnh cá nhân. Khi Nguyễn An Ninh cịn nhỏ, ơng cảm tác
mấy câu sau: “Xích xiềng rèn đúc tự bên Tây/Cớ sao đem tới nước Nam
này/Để ta phải chịu chân cùm trói/Chừng nào tháo được xích xiềng đây?” [21,
tr. 106]. Ý thức về dân chủ, tự do, dân tộc đã hình thành trong Nguyễn An
Ninh từ những năm tháng thiếu thời và quyết định lựa chọn của ơng trong
suốt phần đời cịn lại. Ơng cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc quan điểm “Dân vi
quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của Mạnh Tử, như một cơ sở quan trọng
cho q trình ơng nhận thức thực trạng và vai trò của quần chúng nhân dân
trong một xã hội Việt Nam thuộc địa cần những thay đổi lớn mạnh về thực
chất hơn là những khẩu hiệu ngụy dân chủ.
1.2.2. Tư tưởng dân chủ tư sản
1.2.2.1. Dấu ấn dân chủ trong những Tân văn, Tân thư của học giả Trung
Quốc – Nhật Bản
Tư tưởng dân chủ tư sản là hệ tư tưởng chi phối và khởi động hàng loạt

những thay đổi tiên phong, đa dạng trong lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ XX. Nó
đã có một nhận dạng lập thuyết ảnh hưởng mạnh mẽ từ bối cảnh lịch sử đầy
thách thức của Việt Nam. Nó xuất hiện và phát triển do sự suy thoái tịnh tiến
tới thất bại tất yếu của hệ tư tưởng phong kiến ở Việt Nam trong cuộc đối đầu


18
trực diện với sự phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước Pháp trong
hình hài của giai đoạn thực dân. Thời gian nội chiến kéo dài và chính sách
bế quan tỏa cảng đã càng làm suy yếu cơ sở hạ tầng trong xã hội Việt
Nam, khiến người Việt Nam bị đóng khung và đối diện với hiện trạng bất
công, suy yếu của chế độ phong kiến đương thời. Với việc Việt Nam trở
thành thuộc địa qua Hiệp ước Harmand 1883 và thất bại của phong trào
Cần vương vào năm 1896, hệ tư tưởng phong kiến đã thực sự suy sụp
hoàn toàn và bộc lộ rõ những hạn chế đã tồn tại trong thời gian dài, chưa
từng được giải quyết triệt để.
Giáo sư Trần Văn Giàu nhận thấy điều đặc biệt ở đây là đối tượng tiếp
nhận tư tưởng dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX không phải là giai cấp tư sản
“mà là những nhà chí sĩ Nho giáo xuất thân từ nền học cổ truyền, đồng thời
tiếp nối trực tiếp một phong trào kháng Pháp có truyền thống” [8, tr. 446]. Họ
đón nhận tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây qua các tác phẩm mà trong lịch
sử Việt Nam được gọi là những “Tân văn”, “Tân thư” viết bởi những nhà tư
tưởng cấp tiến ở Nhật Bản (như Fukuzawa Yukichi – Phúc Trạch Dụ Cát,
Takayama Rinjiro) và Trung Quốc (như Nghiêm Phục, Lương Khải Siêu,
Khang Hữu Vi)6. Chính từ mơi trường gia đình gắn bó với phong trào Minh
tân Nam Kì đã giúp Nguyễn An Ninh tiếp cận nội dung về dân chủ trong
khuynh hướng dân chủ tư sản của phong trào yêu nước bấy giờ.
1.2.2.2. Tư tưởng Jean – Jacques Rousseau về dân chủ
Nguyễn An Ninh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ triết học Khai sáng Pháp
và đặc biệt là quan điểm của Jean – Jacques Rousseau về dân chủ. Bản thân

Nguyễn An Ninh từng trực tiếp trích dịch tác phẩm “Khế ước xã hội” của
Rousseau dưới tiêu đề “Dân ước”, như một minh chứng cho những tiếp cận
của ông đối với tư tưởng dân chủ của Rousseau. Xét về nguồn gốc tư tưởng
Xem thêm trong bài viết “Tân văn - Tân thư và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng yêu nước ở Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX”, tác giả Lê Thanh Bình
6


19
Rousseau là triết học Pháp, nó hình thành sự kết nối tự do với bình đẳng và
bác ái trên cơ sở quan niệm về con người là một thực thể của tự nhiên, “mọi
đặc điểm và nhu cầu của nó đều mang tính vật chất và do tự nhiên quy định,
cịn trí tuệ, lương tri thể hiện là “ánh sáng của tự nhiên” [10, tr. 205 – 206].
Trong khi nhiều nhà tư tưởng Khai sáng Pháp không để tâm đến mâu

Comment [L5]: Đỗ Minh Hợp (2014). Lịch s
triết học phương Tây. Tập 2: Triết học phươn
Tây cận hiện đại. Nhà xuất bản Chính trị Quố
gia

thuẫn giữa trạng thái tự nhiên với xã hội, thì Jean Jacques Rousseau đã thể
hiện sự quan tâm vấn đề này. Ông nhận thấy sự bất cập của các khế ước tự do
khởi thủy, ở phương diện quyền lực bị chiếm lĩnh bởi những cá nhân có sức
mạnh và tiền tài. Ơng chủ trương xây dựng khế ước xã hội mang tính chất
cộng hịa, xác lập sự tự do của quần chúng nhân dân và khẳng định “chủ
quyền không tước đoạt được và không phân chia được của nhân dân” [10, tr.
212].

Comment [L6]: Đỗ Minh Hợp (2014). Lịch s
triết học phương Tây. Tập 2: Triết học phươn

Tây cận hiện đại. Nhà xuất bản Chính trị Quố
gia

Với khế ước xã hội làm phương tiện trung gian, con người khơng cịn
đứng ngồi chỉnh thể xã hội mà trở thành một phần quan trọng đối với sự vận
động của nó trong khi vẫn đảm bảo quyền tự do của mình. Từ đó, Rousseau
đã đưa ra mơ hình dân chủ đại nghị - “chính quyền do các viên chức được dân
lựa chọn dựa trên khả năng được cho là xuất chúng và phù hợp của họ” [36,
tr. 212]. Rousseau cảnh báo tình trạng dễ xảy ra trong chế độ dân chủ, là
“trong khi luôn phải lưu ý về việc “không có gì nguy hiểm hơn ảnh hưởng của
các lợi ích riêng trong việc công, và sự lạm dụng luật pháp bởi chính quyền ít
tai hại hơn sự thối nát của người làm luật, sự thối nát này là hậu quả không
thể tránh được khi người làm việc công lại theo đuổi tư lợi” [25, tr. 121].
1.2.2.3. Tư tưởng Mahatma Gandhi và Tôn Trung Sơn về dân chủ
Nguyễn An Ninh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ tư tưởng dân chủ của
Mahatma Gandhi và Tôn Trung Sơn, dựa trên nền tảng cảm nghiệm thực tế
ngay từ chính những tháng năm học tập và hoạt động u nước tại Pháp. Ơng
khơng những trực tiếp tìm đọc tác phẩm của các nhà tư tưởng tự do – dân chủ
thuộc trào lưu Khai sáng như Voltaire, Rousseau, Montesquieu,… mà còn trải

Comment [L7]: Will và Ariel Durant (2015).
Jean – Jacques Rousseau. Dịch bởi Bùi Xuân
Linh, hiệu đính và giới thiệu bởi Bùi Văn Nam
Sơn. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh.


×