Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tại sao trong quá trình tìm đường cứu nước NAQ lại chọn con đường cách mạng vô sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.14 KB, 24 trang )

Câu 1: tại sao trong quá trình tìm đường cứu nước NAQ lại chọn con
đường cách mạng vô sản
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vô sản.
- Thất bại của các phong trào yêu nước ở nước ta cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX là do chưa có đường lối và phương pháp đúng đắn. Hồ Chí Minh rất
khâm phục tinh thần yêu nước của những người đi trước, nhưng Người
không tán thành con đường cứu nước của các vị ấy, mà quyết tâm ra đi tìm
một con đường cứu nước mớị Ra nước ngồi tìm hiểu các cuộc cách mạng
tư sản lớn trên thế giới như: cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tuy đã giành
thắng lợi hơn 150 năm nay mà nhân dân lao động vẫn khổ và họ đang
muốn làm cách mạng lần nữạ Nhận thức được rằng, cách mạng tư sản chỉ
thay thế chế độ bóc lột này bằng chế chế độ bóc lột khác tinh vi hơn chứ
khơng xóa bỏ được áp bức bóc lột, vì thế Người cho rằng đó là những cuộc
cách mạng khơng đến nơi, khơng triệt để. Do đó, cứu nước theo ngọn cờ
của giai cấp tư sản không phải là lối thoát cho dân tộc.
- Từ khi đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (7-1920), Hồ Chí Minh đã tìm thấy
một con đường cứu nước mới: Con đường cách mạng vô sản. Người đã
khẳng định: "Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc khơng có con đường nào
khác, con đường cách mạng vô sản".
2. Các mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạọ
- Nguyễn ái Quốc đã khẳng định : "Đảng có vững cách mệnh mới thành
cơng,cũng như người cầm có lái có vững thì thuyền mới chạy... Đảng muốn
vững phải có chủ nghĩa làm cốt. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin".
- Thực tế đã chứng minh : Từ khi ra đời đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
3. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm tồn dân tộc


- Cách mạng giải phóng dân tộc như Nguyễn ái Quốc xác định đó là "việc
chung của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người", vì vậy phải
1


đồn kết tồn dân.
- Bên cạnh đó Người cũng nhấn mạnh sự đoàn kết toàn dân phải dựa trên
đoàn kết là liên minh công-nông. Bởi theo người : "Công nông là người
chủ cách mệnh ... Công nông là gốc cách mệnh".
- Trên cơ sở đó, Người đã chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng
lớp nhân dân trong một mặt trận dân tộc thống nhất nhằm huy động sức
mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự dọ
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và
có khả năng giành thắng lợi trứơc cách mạng vơ sản ở chính quốc.
- Quan điểm của Quốc tế Cộng sản cho rằng: " Chỉ có thể thực hiện hồn
tồn cơng cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được
thắng lợi ở các nước tiên tiến".
- Vận dụng đường lối của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện các nước thuộc
địa, Nguyễn ái Quốc đã kết luận : "sự giải phóng của giai cấp cơng nhân
phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân".
- Do đánh giá đúng sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc,
Nguyễn ái Quốc đã dự báo : Cách mạng thuộc địa khơng cần thụ động chờ
đợi mà có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính
quốc, đồng thời tác động trở lại cách mạng chính quốc.
- Đây là một luận điểm sáng tạo và có giá trị lí luận và thực tiễn to lớn, một
cống hiến quan trọng vào kho tàng lí luận của CN Mác -Lênin. Luận điểm
này đã được lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng
đắn.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo
lực

- Đánh giá đúng bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh đã xác định:
" Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc,
cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy
chính quyền và bảo vệ chính quyền".
- Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu
tranh vũ trang. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: " tùy tình hình cụ thể mà quyết
định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và
khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để
giành thắng lợi cho cách mạng".
- Tuy nhiên, việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc khi không
2


cịn khả năng hịa hỗn thì Hồ Chí Minh mới quyết định phát động chiến
tranh.
Trong kháng chiến chống Pháp, Người đã bày tỏ quan điểm: " Chúng tôi
mong đợi ở Chính phủ và nhân dân Pháp một cử chỉ mang lại hịa bình.
Nếu khơng, chúng tơi bắt buộc phải chiến đấu đến cùng để giải phóng hồn
tồn đất nước". Hay trong kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã nhiều
lần gửi thông điệp cho các nhà cầm quyền Mỹ đề nghị đàm phán hịa bình
để kết thúc chiến tranh.
- Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo thống nhất biện chứng
với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người ln tranh thủ mọi khả năng
hịa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến
tranh thì phải dùng bạo lực cách mạng để bảo vệ độc lập, tự do.
Trong những thập niên đầu của thế kỷ 20, cả dân tộc đang bị đoạ đày đau
khổ dưới ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai, với tấm lòng yêu nước
thiết tha Người đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc khỏi
áp bức bóc lột và Người đã tìm được con đường cứu nước là con đường
cách mạng vô sản. Người nhận thấy “ Chỉ có Chủ nghĩa xã hội và Chủ

nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức, những người
lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Việc lựa chọn con đường Xã hội chủ
nghĩa là một phát hiện thiên tài và là cống hiến to lớn của Người đối với
cách mạng Việt Nam. Vậy cơ sở nào để Hồ Chí Minh lựa chọn mục tiêu
Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam ?
Cơ sở lý luận để Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là vũ khí tư tưởng và lý luận
cách mạng khoa học của thời đại đã giúp cho Hồ Chí Minh lựa chọn con
đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc. Ra đời vào giữa thế kỷ 19, chủ
nghĩa Mác - Lênin đã đáp ứng được yêu cầu bức thiết giữa lúc phong trào
chủ nghĩa quốc tế đang khủng hoảng đường lối, đã trở thành lý luận soi
đường và phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản chống lại
giai cấp tư sản. Sự ra đời của nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế
giới sau cách mạng tháng 10 Nga 1917, là thực tiễn sinh động chứng minh
bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin , chứng minh sự
đúng đắn của con người chủ nghĩa vô sản, cách mạng tháng 10 Nga đã cổ
vũ cho các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh và ý nghĩa của nó đã được
Hồ Chí Minh đánh giá : “ Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng 10
chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu triệu người bị bóc lột trên
3


trái đất. Trong lịch sử lồi người chưa có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to
lớn sâu xa như thế”. Hồ chí Minh cũng đã lựa chọn đi theo con đường cách
mạng thế giới để giải phóng dân tộc và đi lên Chủ nghĩa xã hội. Đó là sự
lựa chọn đúng qui luật, phù hợp xu thế lịch sử. Lý luận về Hình thái Kinh
tế – Xã hội của chủ nhiã Mác - Lênin đã chỉ rõ xã hội loài người phát triển
theo xu hướng đi lên trải qua 5 hình thức kính tế xã hội mà hình thức kinh
tế xã hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thức kinh tế xã hội trước nó. Và
thực tiễn, lịch sử cũng đã chứng minh loài người đã trải qua hình thức kinh

tế xã hội : Cộng sản nguyên thủy, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản
chủ nghĩa và hiện nay đang là thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Nếu
chế độ tư bản chủ nghĩa tất yếu ra đời từ chế độ phong kiến thì chủ nghĩa
tư bản cũng sẽ xác lập các tiền đề kết quả để tự phủ định nó, và theo Hồ
Chí Minh, logic tiến lên xã hội cho thấy đã đến lúc chủ nghĩa tư bản mở
đường cho sự ra đời một chế độ xã hội mới là chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là qui luật vận động kết quả của lịch sử trên
phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ là thứ vũ khí lý luận
khơng gì thay thế được, là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam là mặt trời soi
sáng cho con đường cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng, đó là
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Ở Hồ Chí Minh, Người tiếp thu chủ
nghĩa Mác – Lênin là tiếp thu những nguyên lý cơ bản, tiếp thu phương
pháp biện chứng chứ không sao chép giáo điều. Người vận dụng sáng tạo
lý luận về chủ nghĩa không ngừng vào cách mạng Việt Nam. Người đã giải
quyết tốt mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Theo
Người : “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ
phận khắng khít của cách mạng vơ sản trong phạm vi tồn thế giới. Cách
mạng giải phóng dân tộc phải tiến lên thành cách mạng xã hội chủ nghĩa
thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. Như vậy, cách mạng giải phóng
dân tộc khơng phải là mục đích cuối cùng mà nó chỉ là màn giáo đầu của
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa và chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì mới thức
sự giải phóng được nhân dân lao động, mới đem lại cuộc sống ấm no hạnh
phúc cho mọi người.
Chủ nghĩa xã hội là ước mơ của nhân dân lao động trên tồn thế giới, nó
đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa tư bản đầy máu và nước mắt. Đó là máu và
nước mắt của giai cấp vơ sản, chính quốc và của nhân dân thuộc địa : Hồ
Chí Minh đã nói : Chủ nghĩa đế quốc là con đỉa hai vòi, một vòi hút máu
nhân dân lao động chính quốc, một vịi hút máu nhân dân thuộc địa. Từ
4



thực trạng xã hội Việt Nam đòi hỏi cách mạng Việt Nam phải giải quyết hai
mâu thuẫn đó, phải giành độc lập – tự do, phải xoá bỏ mọi chế độ áp bức
bóc lột bất cơng, thiết lập một xã hội công bằng nhân ái. Đây cũng là cơ sở
thực tiễn để Hồ Chí Minh lực chọn mục tiêu Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bởi vì chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới xây dựng được một xã hội
tốt đẹp mới giải quyết được hài hòa cả hai vấn đề của xã hội Việt Nam bấy
giờ. Một khía cạnh khác mà Hồ Chí Minh đã nhận thấy là sự cai trị dã man,
những hình thức bóc lột tàn bạo của bọn thực dân đối với người bản xứ đã
làm cho tinh thần cách mạng thêm mãnh liệt, làm cho ý thức độc lập , tự
chủ, tinh thần yêu nước càng trỗi dậy, ở các dân tộc Đông Dương. Người
đã kết luận : “ Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi chủ
nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc gieo hạt giống của cơng cuộc giải
phóng nữa thơi”. Đây là một luận điểm sáng tạo và hết sức quan trọng của
Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa xã hội ra đời chính từ sự tàn bạo của chủ nghĩa tư
bản. Tại các nước thuộc điạ các hình thức bóc lột, nơ dịch của bọn thống trị
đã làm bộc lộ những khuyết tật phải nhân tính bẩm sinh khơng thể khắc
phục được chủ nghĩa tư bản. Đó là cơ sở để người lao động ý thức, giác
ngộ sứ mệnh lịch sử của mình trước vận mệnh quốc gia, dân tộc chủ nghĩa
xã hội với tư cách là một chế độ xã hội có khả năng xóa bỏ mọi xiềng xích,
nơ dịch, là một xã hội khơng có người bóc lột, Người đã trở thành ngọn cờ
vẫy gọi các dân tộc thuộc điạ vùng dậy làm cách mạng giải phóng dân tộc
để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, sự lựa chọn con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa là xuất phát
từ thực trạng xã hội Việt Nam, song bên cạnh đó, sự lựa chọn mục tiêu chủ
nghĩa xã hội còn xuất phát từ thực tiễn của các cuộc cách mạng điển hình
trên thế giới. Trải qua bao năm bơn ba nước ngồi và khảo sát các cuộc
cách mạng điển hình trên thế giới như cách mạng tư sản Pháp 1789, cách
mạng tư sản Mỹ 1776, Cách mạng tháng 10 Nga 1917. Người đã rút ra
những kết luận quan trọng. Người đã phát hiện ra rằng các cuộc cách mạng

tư sản như : cách mạng Pháp, Cách mạng Mỹ là những cuộc cách mạng
không triệt để, tuy thành công nhưng không đến nơi đến chốn vì người lao
động vẫn chưa hồn tồn được giải phóng, xã hội cịn đầy bất cơng. Đảng
viên Hồ Chí Minh cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt để của một cuộc
cách mạng là qui mơ giải phóng nhân dân lao động bị áp bức. Cách mạng
dân chủ tư sản do bản chất của nó, chỉ là sự thay thế hình thức áp bức bóc
lột khác và tại bộ phận người lao động vẫn sống cực khổ. Dưới nhãn quan
5


của Hồ Chí Minh chỉ có cách mạng tháng 10 Nga là triệt để là thành công
đến nơi, nhân dân lao động đã được giải phóng và trở thành người chủ của
xã hội. Người đã nhận định : “ Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh
Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc tự do bình đẳng thật, khơng phải tự do và bình đẳng
giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mạng
Nga đã đuổi được vua, tư bản, điạ chủ, rồi lại ra sức cho công nông các
nước và dân bị áp bức các thuộc điạ làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế
quốc chủ nghĩa, tư bản và thế giới”. Từ đó mà Người đã lựa chọn con
đường cho cách mạng Việt Nam là đi theo cách mạng tháng 10 .
Chính vì vậy cũng có thể nói rằng: muốn đưa cách mạng Việt Nam tới chỗ
thành cơng thì khơng có con đường nào khác ngồi con đường cách mạng
vơ sản.
Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một là công cuộc đổi
mới hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn mãi sáng soi cho cả dân tộc đi
đến mục tiêu mà. Người đã lựa chọn cho nhân dân ta từ những năm 30 của
thế kỷ 20. Đảng ta củng cố xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí MInh làm nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của
Đảngvà cách mạng Việt nam. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh,
chúng ta phải kiên trì với mục tiêu đấu tranh dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã

hội. Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng, là vấn đề có tính ngun tắc. Phải
giữ vững định lý xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, đổi mới để có
chủ nghĩa xã hội và hơn chứ khơng phải để “ đổi màu”. Trong sự nghiệp
đổi mới, cần đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần quí báu của Đảng và dân tộc, tư
tưởng đó ln sống động mang tính khoa học và cách mạng cho nên cần
được giữ gìn. Mỗi cán bộ Đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí
Minh và hành động theo tư tưởng của Người. Mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trong gần 80 năm qua khơng thể tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh
và ngày nay tư tưởng đó tiếp tục sáng soi cho tồn Đảng, toàn Dân trên
chặng đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, biến ước mơ cao đẹp “
xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh” của Người sớm trở thành hiện

6


Câu 2: Đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng ta giai đoạn 1945 –
1946
a, Hoàn cảnh lịch sử
* Tình hình thế giới
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, các
nước đế quốc xâm lược đã bị suy yếu nhiều về mọi mặt và đã khơng cịn
giữ vị trí ưu thế như trước. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô
đứng đầu ngày càng phát triển, phong trào dân tộc dân chủ nổ ra càng sôi
nổi và quyết liệt, phong trào công nhân diễn ra ngày càng nhiều về số
lượng và quy mô và giành được nhiều thắng lợi. Sự thay đổi của thế giới
sau Chiến tranh thế giới 2 có ảnh hưởng khơng nhỏ tới cách mạng Việt
Nam.

* Tình hình trong nước
- Thuận lợi:
Đảng cộng sản Việt Nam từ một Đảng chưa được nhiều nước công
nhận và phải hoạt động bí mật đã trở thành một chính đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam được giải phóng khỏi ách áp bức của thực dân
Pháp và đã trở thành người làm chủ đất nước.
Dân tộc Việt Nam từ một nước bị mất chủ quyền nay đã giành được lại
đất nước về tay minh.
- Khó khăn
Sau khi giành được độc lập nước Việt Nam non trẻ đơi đầu với ba khó
khăn lớn đó là: giặc đói, giặc giốt và giặc ngoại xâm.
+ Giặc đói: Đầu năm 1945 nạn đói vẫn đang hồnh hành, vụ mùa mất
mát, hạn hán, lũ lụt triền miên…Những khó khăn đó đã trực tiếp đe doạ
đến tính mạng của nhân dân ta
+ Giặc dốt: Chính sách ngu dân của thực dân làm cho hơn 90% số dân
không biết chữ, hạn chế đi quyền làm chủ của người dân một nước độc lập.
+ Giặc ngoại xâm: Ở miền Bắc, ngày 11 tháng 9 năm 1945 20 vạn
quân tưởng dưới danh nghĩa là quân đồng minh đã đem quân vào phía Bắc
Đông Dương cho đến vĩ tuyến 16 o , chúng gây ra nhiều khó khắn cho cách
mạng.

7


Ở miền Nam, ngày 6 tháng 9 năm 1945 hơn 1 vạn qn Anh đóng
qn ở phía Nam vĩ tuyến 16 lăm le hòng phá hoại cách mạng Việt Nam
nhằm tạo điều kiện cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam.
Trên đất nước ta chưa bao giờ có nhiều kẻ thù xâm lược như vậy. Bọn
phản cách mạng làm tay sai cho đế quốc chống lại cách mạng Việt Nam.

Tất cả những khó khăn chồng chất nói trên đã đặt cách mạng nước ta
trong tình thế “ Tổ quốc lâm nguy, vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi
tóc”
b, Chủ trương, biện pháp của Đảng
* Trước hồn cảnh đó, Đảng đã đưa ra những biện pháp, chính sách sau:
- Cuộc cách mạng Đơng Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Vì vậy, khẩu hiệu
đấu tranh vẫn là “dân tộc trên hết, tổ quốc trên hết”
- Kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là thực dân Pháp
- Nhiệm vụ chính của nhân dân ta lúc này là phải củng cố chính quyền,
chống thực dân pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân
dân
* Các biện pháp cụ thể để thực hiện nhiệm vụ trên:
Về đối nội
- Về kinh tế:
Tổ chức cứu đói, phịng nạn cho dân như tổ chức các quỹ cứu đói,
phong trào trong trào trong nhân dân như : “Hũ gạo cứu đói”, phong trào
“ngày đồng tâm” để góp gạo cứu đói cho nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi
tháng nhịn ăn ba bữa góp một bữa một bỏ hũ gạo đem cứu đói cho dân
nghèo”
Biện pháp cơ bản lâu dài là tăng gia sản xuất. Chủ tịch Hồ Chí Minh
kêu gọi “Tồn dân tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản
xuất nữa”. Đó là cách thiết thực của ta để giữ vững quyền tự do, độc lập.
Một phong trào thi đua tăng gia sản xuất nữa dấy lên khắp các địa
phương cả nước với khẩu hiệu “không một tấc đất bỏ hoang”, “tấc đất tấc
vàng”
Ngày 7 tháng 9 năm 1945 Chính phủ cách mạng ra sắc lệnh sắc lệnh số
11 bãi bỏ các loại thuế của chế độ của và giảm tô 25 %....


8


Kết quả: nạn đói đã được đẩy lùi, vụ mùa năm 1946 ở Bắc bộ gieo cấy
được hơn 8000 ha và sản lượng đạt 1.550.000 tấn. Đời sống con người
ngày càng được cải thiện
- Về tài chính
Ngày 4/9/1945 Chính phủ ra sắc lệnh số 4 về “quỹ độc lập” và “tuần lễ
vàng” nhằm động viên tinh thần tự nguyện đóng góp của cá nhân để giữ
vững “nền độc lập cho tổ quốc”.
Ngày 31/1/1946 Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền vàng Việt Nam
và ngày 23/11/1946 Quốc hội quyết định lưu hành tiền giấy bạc Việt Nam.
Như vậy là những khó khăn về tài chính đã được khắc phục.
- Về văn hố – giáo dục
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào “bình dân học vụ”
nhằm xố nạn mù chữ cho nhân dân. Các trường học phát triển mạnh mẽ
và phương pháp giáo dục bắt đầu được đổi mới.
Cuộc vận động đời sống mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng
được mọi người dân hưởng ứng sơi nổi. Cuộc vận động nhằm xây dựng
đạo đức mới với nội dung “Cần, kiệm, liêm, chính” và bài trừ các tệ nạn ra
khỏi đời sống xã hội.
- Về chính trị - quân sự
Ngày 8/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh số 14 về cuộc tổng
tuyển cử bầu quốc hội khố đầu tiên của nước cộng hồ dân chủ Việt Nam.
Và vào ngày 6/1/1946 thì cuộc tổng tuyển cử bầu đại biểu quốc hội đầu
tiên đã được diễn ra, đã có 333 đại biểu được bầu ra thay mặt cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân.
Ngày 9/11/1046 Hiến pháp đầu tiên của nước ta chính thức được cơng
bố.
Việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân được chú trọng khắp nơi

trên đất nước, phong trào luyện tập quân sự, tìm kiếm vũ khí diễn ra sơi
nổi.
Bài trừ nội phản cách mạng được Đảng ta chú trọng với khẩu hiệu
“Đoàn kết chống thực dân Pháp phản đối chia rẽ, vạch mặt phá hoại của
chúng”
Về đối ngoại
Đảng ta xác định nguyên tắc ngoại giao “bình đẳng tương trợ, thêm
bạn bớt thù”. Đối với quân đội Tưởng thực hiện chính sách “Hoa – Việt
thân thiện”
9


Trước ngày 6/3/1946 Đảng ta có sách lược hồ hỗn với Tưởng và tay
sai ở miền Bắc tập trung lực lượng đối phó với thực dân Pháp ở miền Nam.
Đối với Tưởng ta chủ trương đánh xung đột vũ trang, nhân nhượng chúng
một số chính sách về kinh tế và chính trị như: nhận cung cấp phần lương
thực, thực phẩm cho quân Tưởng, nhận tiêu tiền “quốc tế” và “quan kim”
của Tưởng, nhường cho chúng 70 ghế trong quốc hội và 4 ghế quan trọng
trong Chính phủ nước ta.
Ngày 28/2/1946 Pháp và Tưởng kí hiệp ước Hoa – Pháp. Bản hiệp ước
đó có một số nội dung như: Pháp sẽ thay chân Tưởng giải giáp quân Nhật
ở miền Bắc Việt Nam. Hiệp ước Hoa Pháp đặt nhân dân ta trước hai sự lựa
chọn, một là cầm vũ khí chiến đấu chống thực dân Pháp, hai là hồ hỗn
nhân nhượng Pháp để tránh tình trạng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ
thù, đẩy 20 vạn quân Tưởng tranh thủ thời gian hồ hỗn và tiếp tục củng
cố lực lượng để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Sau nhiều cuộc họp, Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã chọn giải pháp thứ hai.
Ngày 6/3/1946, Chính phủ đã kí với Pháp Hiệp định sơ bộ với nội dung
chính đó là Chính phủ nước ta sẽ nhượng bộ cho Pháp một số điều khoản
để đuổi quân Tưởng, tập trung lực lượng chờ thời cơ đánh đuổi thực dân

Pháp.
Sau khi kí với Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 6/3, thực dân Pháp đã khơng
thực hiện những gì đã cam kết trong Hiếp định, trái lại chúng đã khiêu
khích và nổ súng ở một số nơi ở miền Nam nước ta. Trước tình hình đó,
ngày 19/12/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến.
Thực tiễn đã chứng minh đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng và
Chính phủ là đúng đắn. Về đường lối đối nội đã có những chiến lược tồn
diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng. Đối
với các thế lực thù địch chúng ta thực hiện sách lược mềmdẻo, lợi dụng
mâu thuẫn để phân hoá chúng, nhằm tạo thêm thời gian để củng cố lực
lượng chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Với đường lối chính trị sáng suốt
vừa cứng rắn về nguyên tắc vừa mềm dẻo về sách lược. Đảng ta đã động
viên được sức mạnh đồn kết dân tộc vượt qua mn vàn khó khăn, thử
thách để giữ vững nền chính quyền vừa mới thành lập đang còn non trẻ.
Câu 3: Đánh giá của anh (chị) về sự kiện chia tách Đảng
10


* Hồn cảnh lịch sử
- Tình hình thế giới
Sự ra đời và phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa đã chiếm 1/3 dân
số và ¼ đất đai trên thế giới. Điều đó đã tạo ra một lợi thế vững chắc, một
lực lượng hùng hậu làm chỗ dựa vững chắc cho sự phát triển của phong
trào cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam.
- Tình hình trong nước
Sau cách mạng tháng tám năm 1945, Nhà nước cộng hoà dân chủ Việt
Nam ra đời, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp. Yêu cầu mới của cuộc kháng chiến đặt ra cho Đảng ta
nhiệm vụ nặng nề, đòi hỏi Đảng ta phải trở lại hoạt động công khai để đẩy

cuộc kháng chiến của ta nhanh đi đến thắng lợi
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng
Cộng sản Đông Dương được triệu tập tạo xã Vinh Quang, huyện Chiêm
Hoá, tỉnh Tuyên Quang từ ngày 11 đến ngày 29 tháng 2 năm 1951. Tham
dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết đại diện
cho 776.349 đảng viên trên khắp đất nước.
* Nội dung chia tách Đảng
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng đã quyết định tách ra
Đảng bộ ở ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia để lập ra ở mỗi nước một
Đảng cách mạng riêng có Cương lĩnh và đường lối cách mạng riêng thích
hợp với đặc điểm phát triển của từng dân tộc.
* Đánh giá về việc chia tách Đảng
Đại hội lần thứ hai của Đảng thành công đánh dấu bước trưởng thành
của Đảng. Việc chia đảng là một sự kiện trọng đại thể hiện tầm nhìn của
Đảng trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Trong sự phát triển chung của cách mạng thế giới, việc gộp ba đảng là
một để tiến hành cách mạng ở ba nước Đơng Dương là khơng cịn phù hợp
với tình hình thực tế lịch sử khi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức ra
được mỗi nước, mỗi dân tộc có những thời cơ khác nhau trong cơng cuộc
cách mạng.
Có nhiều ý kiến khi Hồ Chí Minh cùng Đảng ta quyết định tách đảng ở
mỗi nước như nói Người và Đảng ta ích kỷ, chỉ biết cho lợi ích của giai
cấp, dân tộc mình, điều đó là hồn tồn trái với ý chí và nguyện vọng của
Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh. Việc tách đảng tạo nên cho mỗi nước tự
11


quyết định lấy số phận đất nước của mình khi có những cơ hội hay thách
thức đặt ra.
Đảng Lao động Việt Nam sau khi được lấy tên sau Đại hội II thực sự

đã ngẩng cao đầu như tuyên bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và những
người cộng sản trên tồn thế giới và cơng khai hoạt động và mục đích
chiến đấu của mình là bảo vệ nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Việc quyết định chia tách Đảng có ý nghĩa to lớn đối với lịch sử nước
ta, nó thể hiện rõ sự kết hợp giữa trí tuệ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh lãnh đạo với thực tiễn, hoàn cảnh lịch sử của kháng chiến của nhân
dân ta và hướng vào việc giải quyết những vấn đề cơ bản, cụ thể của sự
nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cuộc kháng chiến của dân
tộc Việt Nam. Sự kiện này góp phần không nhỏ trong thắng lợi của cách
mạng Việt Nam sau này.
Câu 4: Phân tích bài học kinh nghiệm của cách mạng tháng 8
Cách mạng tháng 8 năm 1945 có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với cách
mạng Việt Nam. Bên cạnh đó, cách mạng tháng 8 cịn để lại cho Đảng và
nhân dân ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
Thứ nhất, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến
Đảng ta xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong
kiến không thể tách rời nhau, trong đó nhiệm vụ chống đế quốc là nhiệm
vụ chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ
chông đế quốc và phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu thích hợp
như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công, chia ruộng đất của bọn phản
động cho dân cày nghèo, tiến tới cải cách ruộng đất. Thắng lợi của cách
mạng tháng 8 là thắng lợi của sự kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế
quốc Pháp và chống phong kiến.
Thứ hai, toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công nông.
Thắng lợi của của các mạng tháng tám là sự đoàn kết thống nhất của
tất cả các tầng lớp, giai cấp ở trên đất nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam mà đội tiền phong của nó là giai cấp cơng nhân.
Đảng ta đã xây dựng được khối đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc tổng khởi
nghĩa giành chính quyền và đã giành được thắng lợi.

Thứ ba, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
12


Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lợi dụng mâu thuẫn giữa chủ nghĩa
đế quốc và chủ nghĩa pháy xít, giữa chủ nghĩa đế quốc và thế lực địa chủ
phong kiến. Lợi dụng được những mâu thuẫn trong hàng ngũ tay sai của kẻ
thù, lập kẻ thù hợp lý và tranh thủ hoặc trung lập những phần tử chưa rõ
ràng về tư tưởng cách mạng. Từ những biện pháp trên mà cách mạng tháng
8 giành được thắng lợi nhanh chóng mà ít đổ máu.
Thứ tư, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực
cách mạng thích hợp để đập tan nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước mới
của nhân dân.
Thắng lợi của cách mạng tháng 8 là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng
chính trị với lực lượng vũ trang, sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp với
từng hồn cảnh, từng điều kiện cụ thể. Khởi nghĩa tháng từng phần tiến tới
tổng khởi nghĩa giành thắng lợi ở tổng khởi nghĩa để đập tan bộ máy nhà
nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước mới của nhân dân.
Thứ năm, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời
cơ.
Đảng ta coi khởi nghĩa là một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của
chủ nghĩa Mác lênin và kinh nghiệm của các cuộc cách mạng trên thế giới,
vừa tổng kết những kinh nghiệm từ các cuộc khởi nghĩa ở trong nước.
Cách mạng tháng tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là
lúc bọn cầm quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi
Nhật đầu hàng đồng minh; nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như
trước được nữa. Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt về chủ trương, lực
lượng và tập dượt qua Cao trào chống Nhật cứu nước. Đó là những điều
kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước giành
thắng lợi.

Sáu là, xây dựng một Đảng Mác – Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi
nghĩa giành chính quyền.
Ngay từ đầu Đảng ta đã xác định đúng đường lối, chiến lược và sách
lược cách mạng, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển đường lối
chiến lược và sách lược trong từng thời kỳ cách mạng. Điều đó đòi hỏi
Đảng phải biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể của nước ta, kịp thời tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng.
Câu 5: Quá trình đổi mới tư duy của Đảng về Cơng nghiệp hoá trong
giai đoạn đổi mới.
13


a, Đại hội VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ
trương Cơng nghiệp hố thời kỳ 1960 – 1985
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12 năm 1986)
với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”
đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương cơng
nghiệp hố thời kỳ 1960 – 1985, mà trực tiếp là mười năm, từ năm 1975 –
1985. Đó là:
- Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về
xây dựng cơ sở vật chât – kỹ thuật, cải tạo xã hội chue nghĩa và quản lý
kinh tế…Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vơi, muốn bỏ qua những
bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hố
trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế
- Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu
tư, thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt
chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý,
thiên về xây dựng cơng nghiệp nặng và những cơng trình quy mô lớn,
không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm,

hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả
thấp
- Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lần thứ V,
như: vẫn chưa thực sự coi nông nghiệp là mật trận hàng đầu, công nghiệp
nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ
b, Quá trình đổi mới tư duy về cơng nghiệp hố từ Đại hội V đến
Đại hội X
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hố
nội dung chính của Cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa trong những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là thực hiện cho bằng
được ba Chương trình mục tiêu: lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu.
Hội Nghị TW 7 khoá VII (tháng 1 năm 1994) đã có bước đột phá mới
trong nhận thức về cơng nghiệp hố. Bước đột phá này thể hiện trước hết ở
nhận thức về khái niệm cơng nghiệp hố, hiện đại hố. “Cơng nghiệp hố,
hiện đại hố là q trình chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động
14


thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công
nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển
côing nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao”
Đại hội VIIIcủa Đảng (tháng 6 năm 1996) nhìn lại đất nước sau mười
năm đổi mới đã có nhận định quan trọng: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ q độ là
chuẩn bị tiền đề cho cơng nghiệp hố đã cơ bản hoàn thành cho phép
chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước. Đại hội tiếp tục khẳng định quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại

hoá nêu ra ở Hội nghị TW 7 khoá VII.
Đại hội nêu ra sáu quan điểm về cơng nghiệp hố, hiện đại hố và định
hướng những nội dung cơ bản của cơng nghiệp hố, hiện đại hố trong
những năm còn lại của thập kỷ 90, thế kỷ XX. Các quann điểm và định
hướng này đến nay về cơ bản vẫn đúng và có giá trị chỉ đạo thực tiễn.
Đến Đại hội IX (tháng 4 năm 2001) và Đại hội X (tháng 4 năm 2006)
Đảng đã tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới về cơng nghiệp
hố.
- Con đường cơng nghiệp hố ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian so với các nước trước đây. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm
sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có điều kiện tận dụng những kinh
nghiêm, kỹ thuật, công nghiệp và thành quả của các nước đi trước, tận
dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.
Tuy nhiên,tiến hành cơng nghiệp hố theo kiểu rút ngắn thời gian so
với các nước đi trước, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu, như: phát triển
kinh tế và cơng nghiệp phải co những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt;
phát huy những lợi thế của đất nước, gắn cơng nghiệp hố với hiện đại hố,
từng bước phát triển kinh tế tri thức, phát huy nguồn lực trí tuệ và sức
mạnh tinh thần của con người Viêt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực
cho cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
- Hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta là phải phát triển
nhanh và co hiệu quả các sản xuất, các nghành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp
ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
15


- Cơng nghiệp hố, hiện đại hố phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành

cơng nghiệp hố trong nền kinh tế mở, hướng ngoại.
- Đẩy nhanh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp nông thôn
hướng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng, sản phẩm nơng nghiệp.
Câu 6: Q trình đổi mới nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường thời
kỳ đổi mới
Đại hội IX của Đảng (tháng 4 năm 2001) xác định nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của nước
ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hố
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ
nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến
nhận thức coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vậy thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Đại hội
IX xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ
chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ
sở và chịu sự dẫn dắt chị phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội”. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị trường” được sử
dụng để “phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở
vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, cịn
tính “định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên cả ba mặt của quan
hệ sản xuất: cớ sở, tổ chức quản lý và phân phối nhằm mục đích cuối cùng
là “Dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội cho nhân dân
làm chủ, nhân ái, có văn hố, có kỷ cương, xố bỏ áp bức và bất cơng, tạo
điều kiện cho mọi ngưới có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết đó
khơng phải kinh tế kế hoạch hố tập trung, cũng chưa hồn tồn là kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa, vì chưa có đầy đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa.
Tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” làm cho mơ hình kinh tế thị trường ở
nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

16


Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội
dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị
trường ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là:
Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thể hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng
bằng, dân chủ, văn minh” giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xố đói giảm nghèo,
khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp người khác
thốt nghèo và từng bước khá giả hơn.
Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải
phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống cho mọi
người, mọi người đều được hưởng những thành quả phát triển. Ở đây thể
hiện sự khác biệt với mục đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các
nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản.
Về phương hướng phát triển: Phát triển kinh tế với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi
thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền,…phát huy tối đa
nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành
phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu của Nhà
nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế Nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế
bằng trình độ khoa học, cơng nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh
cao chứ không phải dựa vào bao cấp, cơ chế xin – cho hay độc quyền kinh
doanh. Mặt khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu nền kinh tế phải
được dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất.
Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã

hội ngay trong từng bước và trong từng chính sách phát triển; tăng trưởng
kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục
và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con
người. Hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện
qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc
lợi xã hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển
chúng ta cịn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực
khác.
17


Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, đảm bảo vai
trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản
giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mọi người.
Hồn thiện nhận thức và chủ trương về kinh tế nhiều thành phần, Đại
hội X khẳng định “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu, tồn dân, tập thể, tư nhân”
hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thê, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh
tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh
tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều
tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh
tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai

trị quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”
Câu 7: So sánh hệ tthoongs chun chính vơ sản với hệ thống chính trị.
 Hệ thống chun chính vơ sản:
Chun chính vơ sản là sự thống trị về chính chị của giai cấp vô sản.
Theo Mác; đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chun chính vơ sản đó chỉ là
sự úa độ tiến lên một xã hội khơng giai cấp; Chun chính vô sản là một
chiến lược gồm hai bước:
Bước 1; Là chuyển từ chuyên chính của kẻ thù sang chuyên chính của
đong minh, bao gồm giai cấp công nhân và giai cấp trung đẳng.
Bước 2; Là dùng con đường dân chủ tự do đầu phiếu lập ra chính phủ
cách mang và chế độ cách mạng.
Thời kỳ này thi C.Mác cung chỉ mới đề cập đến vấn đề chun chính vơ
sản do chưa đủ điều kiện thực tế khách quan.
Sau CM tháng 10 Nga thành cơng thì Leenin băt ttay vao việc xây dựng
nhhaf nước chun chính vơ sản đầu tiên trong lịch sử thế giới, những đòi
hỏi tất yếu khach quan xây dựng một thể chế chinh trị mới của GCVS đặt
18


ra một cách trực tiếp, nên Lê nin dã sử dụng thuật ngữ “ Hệ thống chun
chính vơ sản” như là một vấn đề tự nhiên một đòi hỏi tất yếu của lịch sử.
Theo Lê nin: hệ thơng chun chính vô sản là một hệ thông cơ cấu tổ
chức bao gồm: Đảng,bộ máy chính quyền Xơ Viết và một số đồn thể như:
Cơng đồn, đồn thanh niên, hội phụ nữ và hội nông dân.. do Đảng cộng
sản lãnh đạo.
Lê nin cũng đã phân tích, làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa các bộ phận
cấu thành trong hệ thông hoạt động một cách sống đọng có hiệu quả, phát
huy được quyên lan chủ của quần chúng nhaan dân lao động dưới sự lãnh
đạo của đảng Bơ-Sê-Vích, thơng qua hoạt động của bộ máy chính quyền
Xơ Viết.

 Hệ thống chính trị XHCN: được Đảng ta sử dụng chính thức từ Đại
hội VI khóa 6 (3/1989), hệ thống XHCN mà Đảng ta xây dựng là trụ
cột của nền chính trị XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN bao
gồm hệ thống cơ cấu tổ chức và các mói quan hệ giữa Đảng cộng sản
và chính quyền Nhà nước với các tổ chức chính trị xã hơi khác.
 Hệ thống chính trị:
Nước CHXHCNVN là nhà nước pháp quyền, hệ thống chính trị
hiện nay ra đời từ khi thiết lập Nhà nước Việt Nam DCCH,gồm các cấu
thành quyền lực chính trị sau:
_ Đảng CSVN. (Điều 4 Hiến pháp 1992)
_ Nhân dân trong hệ thống chính trị
_ Nhà nước CHXHCNVN
_ Quốc hội: (Điều 44 Hiến pháp 1992)
Quốc hội có 3 chức năng chinh:
+ Lập pháp;
+ Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước;
+ Giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước;
_ Chủ tịch nước: (Điều 101- 108 Hiến pháp 1992)
_ Chính phủ: ( Điều 109- 117 Hiến pháp 1992 )
_ TAND,VKSND ( Điều 126- 140 Hiến pháp 1992 )
Như vậy hệ thơng chính tri là sự kế thừa phát triển của hệ thống chun
chính vơ sản 2 hệ thống bộ may nhà nước này tồn tại không song song với
19


nhau mà là do tính tất yểu thay đổi của lịch sử nhân loại. 2 hệ thông bộ
máy nhà nước này có nhiều điểm tương đồng với nhau.
Câu 8: Phân tích quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển
nền văn hoá trong thời kỳ đổi mới.
Một là, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa

là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội
Theo ý kiến của nhiều nguyên là tổng giám đốc Unesco: Văn hoá phản
ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của
mỗi cá nhân và các cộng đồng) diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn
ra trong hiện tại; qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống
các giá trị, truyền thống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định
bản sắc riêng của mình.
- Văn hố là động lực thúc đấy sự phát triển
Kinh nghiệm đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ rằng, ngay bản thân sự
phát triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần tuý kinh tế tạo ra.
Nền kinh tế Việt Nam hơm nay đã có một bước tiến đáng kể so với thời kỳ
thực hiện chế độ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp. Ngun nhân khơng
cịn do sự đổi mới tư duy, đổi mới chính sách và chế độ quản lý, cịn do dự
giải phóng tư tưởng và bước phát triển mới về trình độ, năng lực của đội
ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, cán bộ quản lý và lực lượng lao động
nghĩa là động lực của sự đổi mới kinh tế một phần quan trọng nằm trong
những giá trị văn hoá quan trọng đang được phát huy.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hoá dựa vào tiêu chuẩn của
cái đúng, cái tốt, cái đẹp để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không
ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra
hàng hoá với số lượng và chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu cầu của
xã hội. Mặt khác, văn hoá sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống,
của đạo lý dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái
tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng hàng hố và đồng tiền “xuất hiện với
tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc bản chất con người cũng như
những mối liên hệ khác” dẫn tới suy thoái xã hội.
- Văn hoá là một mục tiêu của phát triển
20



Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” chính là mục tiêu văn hố.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000 xác định “mục tiêu và
động lực chính của sự phát triển là vì con người và do con người “, đồng
thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và cơng
bằng xã hội, phát triển văn hố, bảo vệ mơi trường”. Phát triển hướng tới
mục tiêu văn hố – xã hội mới đảm bảo phát triển bền vững, trường tồn.
- Văn hố có vai trị đăc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy
nhân tố con người và xây dựng xã hội mới.
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài
nguyên thiên nhiên, vốn,…Những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị
khai thác cạn kiệt. Chỉ cố tri thức con người mới là nguồn lực vơ hạn, có
khả năng tái sinh và tự sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ
khơng được sử dụng có hiệu quả nếu khơng có những con người đủ trí tuệ
và năng lực khai thác chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: muốn xây
dựng củ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Hai là, nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Tiên tiến là yêu nước và tiên bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì mọi con người. Tiên tiến khơng chỉ về nội
dung tư tưởng mà cả trong hình thức biều hiện, trong các phương tiện
chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hoá truyền thồng bền vững
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó la lịng u nước nồng nàn, ý
chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhângia đình-làng xã-Tổ quốc; đó là lịng nhân ái khoan dung, trọng tình nghĩa,
đạo lý, là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử,
tính giản dị trong lối sống…bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong các hình

thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
Để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta
chủ trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại. Bảo vệ bản sắc dân tộc phải mở rộng với giao lưu
quốc tế, tiếp thu có chon lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hoá các
dân tộc khác để bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội
21


nhập và giao lưu văn hoá với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới
của văn hoá Việt Nam đương đại. Xây dựng Việt Nam thành một địa chỉ
giao lưu văn hố khu vực và quốc tế.
Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi
thời trong phong tục, tập quán và lề thói cũ.
Ba là, nền văn hố Việt Nam là nền văn thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Nét đặc trưng nổi bật của văn hoá Việt Nam sự thống nhất mà đa dạng,
là sự hồ quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hoá các dân tộc
anh em cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi thành phần dân tộc có
truyền thống và bản sắc của mình, cả cộng đồng dân tộc Việt Nam có nền
văn hố chung nhất. Sự thống nhất bao hàm cả tính đa dạng; đa dạng trong
sự thống nhất. Khơng có sự đồng hố hoặc thơn tính, kỳ thị bản sắc văn
hoá của các dân tộc.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp chung của tồn
dân do Đảng lãnh đạo trong đó, đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng.
Để xây dựng đội ngũ trí thức, Đảng ta đã khẳng định: giáo dục và đào
tạo, cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu.
Văn hoá theo nghĩa rộng thì bao hàm cả giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ.
Phát triển nhận thức đã nêu ra từ Đại hội VI (1986) Hội nghị TW2,

khoá 8 tháng 12 năm 1996 khẳng định:
Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để
giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Khoa học và công nghê là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của
tất cả các nghành,các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và củng cố quốc phịng – an ninh.
Năm là, văn hố là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một
sự nghiệp cách mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì
thận trọng.
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo
nên những giá trị văn hoá mới, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc
sống toàn xã hội và buộc con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ vả
văn minh là một q trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp, địi hỏi
nhiều thời gian. Trong cơng cuộc đó, “xây” đi đôi với “chống”, lấy “xây”
22


làm chính cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn hoá quý báu
của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá thế giới, sáng tạo, vun đắp nên
những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các thủ tục,
các thói hưu tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng
văn hoá để thực hiện “Diễn biến hồ bình”.
Câu 9: Phân tích cơ hội, thách thức và tư tưởng chỉ đạo của Đảng về
công tác đối ngoại trong thời kỳ đổi mới.
Trong các văn kiện liên quan đến lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta đều chỉ
rõ cơ hội và thách thức của việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, trên cơ
sở đó Đảng xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo công tác đối
ngoại.
- Cơ hội và thách thức.

Về cơ hội: Xu thế hồ bình, hợp tác phát triển và xu thế tồn cầu hố
kinh tế tạo thuận lợi cho nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát
triển kinh tế. Mặt khác, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đã nâng cao thế và
lực của nước ta trên trường quốc tế, tạo tiển đề mới cho quan hệ đối ngoại,
hội nhập kinh tế quốc tế.
Về thách thức: Những vấn đề tồn cầu như phân hố giàu nghèo, dịch
bệnh, tội phạm xuyên quốc gia…gây tác động bất lợi đối với nước ta.
Nền kinh tế Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả ba
cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia; những biến động trên thị
trường quốc tế sẽ tác động nhanh và mạnh hơn đến thị trường trong nước,
tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn, thậm chí khủg hoảng kinh tế -tài chính.
Ngồi ra, lợi dụng tồn cầu hố, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài
“dân chủ”, “nhân quyền” chống phá chế độ chính trị và sự ổn định, phát
triển của đất nước ta.
Những cơ hội và thách thức nêu trên có mối quan hệ, tác động qua lại,
có thể chuyển hố lẫn nhau. Cơ hội không tự phát huy tác dụng mà tuỳ
thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội. Tận dụng cơ hội tốt sẽ tạo ra thế và
lực mới để vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại, nếu
khơng nắm bắt, tận dụng thì cơ hội có thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ tăng lên,
lấn át cơ hội, cản trở sự phát triển. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp,
nhưng tác động đến đâu còn thuộc vào khả năng và nỗ lực của chúng ta.
Nếu tich cực chuẩn bị, có biện pháp đối phó hiệu quả, vươn lên nhanh
23


trước sức ép của các thách thức thì khơng những sẽ vượt qua được thách
thức mà cịn có thể biến thách thức thành động lực phát triển.
- Tư tưởng chỉ đạo
Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế phải quan triệt đầy
đủ,sâu sắc các quan điểm:

Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc XHCN, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả
năng của Việt Nam.
Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quuan hệ quốc tế; cố gắng
thúc đẩy mặt hợp tác,nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ
thchs hợp với từng đối tác,; tránh trực diện đối đầu; tránh để bị vào thế cô
lập.
Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, khơng
phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hịa bình, hợp tác với
khu vực; chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu.
Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Xác định hội nhập kinh tế quốc tế là cơng việc của tồn dân.
Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc; bảo vệ mơi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng co hiệu quả các
nguồn lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; tạo ra và sử
dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh cuuar đất nước trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Trên cơ sở thực hiện các cam kết giia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải
cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định
hướng củ Đảng và Nhà nước.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thờ pháp huy vai trò
của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân, tơn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh khối đại đồn
kết tồn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

24




×