Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

tinh thần đoàn kết của nhân dân hai miền nam bắc trong cuộc kháng chiến chống mỹ, thống nhất đất nước (1954 – 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 39 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh,
thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm khơng chỉ có đường lối
chiến lược, chiến thuật độc đáo, đúng đắn, mà còn phải kể đến nhân tố con
người - quyết định trực tiếp đến thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến tranh. Nhân
tố con người được kết tinh bởi lịng u nước, tinh thần đồn kết, ý chí tực lực
tự cường, tự tôn dân tộc của người Việt Nam u nước. Mỗi khi có giặc ngoại
xâm, mn người Việt Nam như một, đồn kết một lịng “Vua tơi đồng lịng, anh
em hịa thuận, cả nước góp sức” hay “Tướng sĩ một lịng phụ tử, hồ nước sơng
chén rượu ngọt ngào”. Lịng u nước, tinh thần đồn kết của một dân tộc u
chuộng hồ bình đã chống lại mọi áp bá cường quyền và sự xâm lược của các
thế lực ngoại quốc, bảo vệ nền độc lập chủ quyền. Phát huy truyền thống đánh
giặc, giữ nước của tổ tiên lên tầm cao mới thời đại Hồ Chí Minh, cùng với
đường lối đúng đắn, sáng tạo, độc lập tự chủ, nghệ thuật mở đầu và kết thúc
chiến tranh nhân dân, về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại… Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
coi trọng bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người Việt Nam trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước - một bài học hết sức quý giá không chỉ làm nên thắng lợi
của Đại thắng Mùa xn năm 1975 mà cịn có ý nghĩa sâu sắc đối với phát huy
nhân tố con người vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
Chiến tranh không chỉ là thử thách khắc nghiệt đối với mỗi cộng đồng dân
tộc mà đối với mỗi con người, thử thách còn khắc nghiệt gấp bội phần, vì mỗi
người đều phải trực tiếp giải quyết các mâu thuẫn giữa nghĩa vụ và quyền lợi,
giữa sự sống và cái chết, giữa gia đình và Tổ quốc… nảy sinh từ chính cuộc
chiến tranh. Và, trong mỗi con người Việt Nam, ý thức sâu sắc về vận mệnh của
đất nước, sự tồn vong của dân tộc luôn được đặt lên hết thảy. Đó cũng là lý do
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mọi người Việt Nam từ hậu phương tới
tiền tuyến đều nhận rõ vai trò và trách nhiệm của mình, đặt sang một bên quyền
1



lợi riêng, lấy lợi ích và quyền dân tộc làm mục đích sống, phương châm chiến
đấu. Thế hệ cha anh của chúng ta đã hy sinh cho sự nghiệp giữ gìn và bảo vệ
tồn vẹn lãnh thổ , để chúng ta có được cuộc sống hịa bình ấm no. Vì vậy, mỗi
người con của đất nước phải luôn nhớ về và biết ơn lớp thế hệ cha anh đi trước,
đồng thời phải trau dồi cho mình khơng chỉ là kiến thức thời đại mà cần phải
hiểu biết về lịch sử dân tộc theo tinh thần:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
Để từ đó phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc điều chỉnh
hồn thiện bản thân, góp sức mình vào cơng cuộc xây dựng quê hương đất nước
ngày càng giàu đẹp.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về tinh thần đoàn kết của nhân dân hai miền
Nam Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước (1954 – 1975)
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Đề tài tập trung phản ánh trong phạm vi thời gian của
cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975) .
Phạm vi không gian: Đề tài tập trung phản ánh những hoạt động, xây
dựng và kết hợp chiến đấu của nhân dân hai miền Nam Bắc Việt Nam
Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung làm rõ tinh thần đoàn kết dân tộc của
nhân dân hai miền Nam Bắc trên cả hai phương diện vừa chiến đấu ,vừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận khi thực hiện đề tài là dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng
Sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: bao gồm phương pháp lịch sử và phương
pháp logic. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp liên ngành: điều tra xã hội

2


học, điền dã dân tộc học, phỏng vấn báo chí… nhằm đảm bảo tính khoa học của
q trình phân tích, lí giải các sự kiện.
4. Đóng góp của luận văn
Luận văn đem đến một bức tranh toàn cảnh về tinh thần đoàn kết của
nhân dân hai miền Nam Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thống nhất Tổ
Quốc (1954- 1975). Trên cơ sở phân tích những hoạt động xây dựng, hỗ trợ, kết
hợp chiến đấu của nhân dân hai miền để đánh giá tầm quan trọng và yếu tố
không thể thiếu của tinh thần đoàn kết toàn dân trong bất kỳ cuộc kháng chiến
giải phóng của dân tộc nào. Luận văn là nguồn tham khảo tốt cho cơng việc tìm
hiểu về cội nguồn, về lịch sử dân tộc, về những nhân tố làm nên thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước.
5. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Biểu hiện của tinh thần đoàn kết của nhân dân hai miền Nam,
Bắc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thống nhất Tổ Quốc (1954 –
1975) .
Chương 3: Tinh thần đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước
hiện nay.

3


NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận
Lịch sử nghiên cứu:


1.1.

Đề tài tinh thần đồn kết dân tộc khơng cịn xa lạ, đó là chủ đề được nhiều
nhà nghiên cứu dân tộc học lựa chọn vì tầm quan trọng cũng như sự ảnh hưởng
của nó đối với sự tồn tại và phát triển của một dân tộc. Từ xưa đến nay có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu về tinh thần dân tộc được coi là tổng hợp tri thức
cách mạng và hiểu biết của nhân loại như:
-

Trong học thuyết lý luận chính trị của chủ nghĩa Mác – Lênin:
+ Trong quan niệm về tinh thần đoàn kết trên phạm vi rộng hơn đó là tinh
thần đồn kết các dân tộc bị áp bức bóc lột ở các nước thuộc địa.
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vơ sản muốn thực hiện
được vai trị lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc; liên minh công nông là
cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng.

-

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần đại đoàn kết dân tộc với quan điểm:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”

-

Hiện nay, có nhiều giáo sư, tiến sĩ, các nhà sử học đề cập và nghiên cứu về tinh
thần dân tộc ở nhiều khía cạnh. Tiêu biểu có giáo sư Trần Lâm Biền khi nói đến
điểm mạnh-yếu của người Việt trên con đường hội nhập GS Trần Lâm Biền cho

rằng: “Tinh thần đồn kết chính là sức mạnh lớn nhất của người Việt, giúp người
Việt giữ và xây dựng đất nước bao đời nay…”.

1.2.

Một số khái niệm
4


Khái niệm Dân tộc:

1.2.1.

Dân tộc là một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước
khi dân tộc xuất hiện, lồi người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp
đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau,
trong đó có hai nghĩa được dùng phỏ biến nhất.
Một là: dân tộc chỉ mọt cộng đồngngười có mối liên hệ chặt chẽ, bền
vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngơn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc
thù, Xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là bộ phận của quốc
gia- Quốc gia có nhiều dân tộc.
Hai là: dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một
nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức
về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh
tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong cuộc suốt quá
trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ
nhân dân của quốc gia đó- Quốc gia dân tộc.
Khái niệm Đồn kết:


1.2.2.

Đồn kết là kết hợp các cá thể trong một khối chung, tập hợp những người
có chung một mục đích thành một khối thống nhất, khăng khít với nhau. Có
được sự kết hợp ấy ắt hẳn sẽ đạt được thắng lợi và cũng có thể gặt hái được
nhiều thành cơng vang dội.
Hay nói cách khác đoàn kết là tập hợp mọi người thành một khối thống
nhất gắn kết chặt chẽ với nhau không thể tách rời, cùng đồng lòng chung sức,
hỗ trợ nhau để giải quyết cơng việc
Khái niệm Đại đồn kết dân tộc:

1.2.3.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc bao gồm:
- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định thành
cơng của cách mạng.
-

Đại đoàn kết là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
5


-

Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.

-

Đại đoàn kết phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ
chức thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự

lãnh đạo của Đảng.

1.3.

Khái quát về đặc điểm và vai trị tình đồn kết của nhân dân Việt Nam
trong suốt chiều dài dựng nước và giữ nước
Đoàn kết dân tộc là truyền thống và di sản văn hóa quý báu của dân tộc ta,
được hun đúc qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Nhờ truyền
thống đó mà dân tộc ta đã đánh thắng biết bao kẻ thù xâm lược, giữ vững độc
lập, chủ quyền, xây dựng đất nước ngày càng phát triển. Sinh thời Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy: “Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết - Thành cơng, thành cơng,
đại thành cơng”. Đồn kết là chìa khố của thành cơng. Có lần Người cịn căn
dặn:“Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì
mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân”. Đoàn kết là truyền thống quý báu
ngàn đời của dân tộc ta, là sức mạnh vô địch để dân tộc ta chiến đấu và chiến
thắng, vượt qua thách thức của lịch sử. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng
khối đại đồn kết dân tộc chính là xây dựng khối đại đồn kết tồn dân. Chữ dân
được hiểu đó là đồng bào cả nước, đồng bào các thành phần dân tộc Việt Nam
dù ở bất cứ nơi nào trên trái đất này. Đó là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là vấn
đề sinh tồn của dân tộc. Chỉ có đồn kết dân tộc mới tồn tại, nhân dân và chế độ
mới tồn tại.
Kế thừa truyền thống quý báu đó, ngay từ khi thành lập, Đảng ta luôn
luôn coi trọng việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp,
đồn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, khơng phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn
giáo, tạo nên sức mạnh vô địch đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân
ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giữ vững độc lập dân tộc, xây dựng đất
nước Việt Nam ngày càng hùng cường, phát triển.
Ngày nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn là nguồn lực
quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất để Đảng ta, nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn,
6



thử thách, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hội nhập quốc tế, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.

7


Chương 2: Biểu hiện của tinh thần đoàn kết của nhân dân hai miền
Nam Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975)

2.1. Đặc điểm cách mạng hai miền Nam,Bắc trong nội dung đường lối
kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975)
2.1.1. Trong giai đoạn 1954 – 1964


Bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng 7–1954
Sau Hội nghị Giơnevơ, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới,
vừa đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp.
Thuận lợi: Hệ thống của xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế,
quân sự, khoa học – kỹ thuật, nhất là Liên Xô; Phong trào giải phóng dân tộc
tiếp tục phát triển ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ latinh; phong trào hịa bình,
dân chủ lên cao ở các nước tư bả chủ nghĩa; miền Bắc được hồn tồn giải
phóng, làm căn cứ địa vững chắc cho cả nước, thế và lực của cách mạng đã lớn
mạnh sau hơn chín năm kháng chiến có ý chí độc lập thống nhất Tổ quốc của
nhân dân từ Bắc chí Nam.
Khó khăn: Đế Quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu
làm bá chủ thế giới với các chiến lược toàn cầu phản Cách mạng; thế giới bước
vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và

tư bản chủ nghĩa; xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là
Liên Xô và Trung Quốc; đất nước ta bị chia làm hai miền, kinh tế miền Bắc
nghèo nàn lạc hậu, miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ và Đế quốc
Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta.
Một Đảng lãnh đạo hai cuộc cách mạng khác nhau, ở hai miền đất nước
có chế độ chính trị khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam Việt
Nam sau tháng 7 – 1954. Đặc điểm bao trùm và các thuận lợi, khó khăn nêu
trên là cơ sở để Đảng ta phân tích hoạch định đường lối chiến lược chung cho
cách mạng cả nước trong giai đoạn mới.
8




Nội dung đường lối:
Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương chính là
q trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước, được
hoàn chỉnh tại Đại hội III của Đảng.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày
10- 9-1960. Đại hội đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn mới. Cụ thể là:
Nhiệm vụ chung: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh
giữ vững hịa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời
đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống
nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần
tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hịa bình ở Đông Nam Á và thế giới”
Nhiệm vụ chiến lược: “Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có
hai nhiệm vụ chiến lược. Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc. Hai là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của chủ nghĩa Đế quốc Mỹ
và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoạt thành độc lập và dân tộc dân

chủ trong cả nước”. “ Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng
ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyêt yêu
cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm
vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta và đế
quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu trước mắt là hịa bình
thống nhất Tổ quốc”.
Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện một mục tiêu
chung nên “hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác
dụng thúc đẩy lẫn nhau”.
Vai trị nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền đối với cách mạng cả nước:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo
vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hôi về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự
9


phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất
nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trị quyết
định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của Đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Con đường thống nhất đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng, Đảng kiên trì con đường hịa bình thống nhất gtheo tinh thần
Hiệp nghị Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hịa bình
thống nhất Việt Nam, vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máu cho
dân tộc ta và phù hợp với xu hướng chung của thế giới. “ Nhưng chúng ta phải
luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu Đế quốc
Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hịng xâm lược miền
Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng hoàn thành
độc lập và thống nhất Tổ quốc”.

Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện
thống nhất nước nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ
phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam.
Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum
họp một nhà, cả nước sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.1.2. Trong giai đoạn 1965-1975


Bối cảnh lịch sử:
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự
phá sản của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ
và quân các nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành “cuộc chiến tranh cục bộ”
với quy mô lớn; đồng thời dùng không quân, hải quân hùng hổ tiến hành cuộc
chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã quyết
định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên phạm vi toàn quốc.
Thuận lợi: Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cách
mạng thế giới đang ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã
10


đạt và vượt các mục tiêu về kinh tế, văn hóa . Sự chi viện sức người sức của của
miền Bắc cho cách mạng miền Nam được đẩy
Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn trong những năm 1962-1962, từ
năm 1963, cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có bước phát triển mới. Ba “chỗ
dựa” của “chiến lược chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến
mức cao nhất đã cơ bản bị phá sản.
Khó khăn: Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt
và khơng có lợi cho cách mạng Việt Nam. Việc đế quốc Mỹ mở rộng “cuộc
chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu vào
trực tiếp xâm lược miền Nam đã làm cho tương quan lực lượng trở nên bất lợi

cho ta.
Tình hình đó đặt ra u cầu mới cho Đảng ta trong việc xác định quyết
tâm và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Nội dung đường lối:
Trước hành động gây “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam tiến hành chiến
tranh phá hoại ra miền Bắc của Đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương lần thứ 11
(tháng 3-1965)và lần thứ 12 (tháng 12-1965) đã tập trung đánh giá tình hình và
đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả nước.
Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng cho
rằng, cuộc “chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là một
cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế
thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. từ sự
phân tích và nhận định đó, Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, trong toàn quốc, coi chống Mỹ, cứu nước là nhiệm
vu thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.
Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu “quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược”, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của
Đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
11


Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước tiến tớ
thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà”.
Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh
nhân dân chống chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động
chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc; thực hiện
kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh và cố

gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở cuộc tiến công
lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn
trên chiến trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: Giữ vững và
phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiên cơng: “tiếp tục kiên
trì phương châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận
dụng ba mũi giáp công”, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Trong giai đoạn
hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí
ngày càng quan trọng.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo
đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phịng trong
điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động
viên sức người sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải
phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong
trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng “chiến tranh cục bộ” ra cả nước.
Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc
chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền
Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc
xã hội chủ nghĩa là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức
tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm bảo đảm chi viện đắc lực cho
miền Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau,
12


mà mật thiết găn bó với nhau. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là
“tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
2.2. Thực hiện đường lối của Đảng, tinh thần đoàn kết được phát huy
cao độ trong thực tiễn đấu tranh.

Việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước là sự tiếp nối đường lối đoàn kết dân tộc của Đảng ta trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; mà theo đó, tư tưởng “Đồn kết, đồn
kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng” của lãnh tụ Hồ Chí
Minh đã được vận dụng một cách sáng tạo, với nhiều hình thức phong phú, vào
điều kiện lịch sử mới - điều kiện đất nước tạm thời bị chia làm hai miền, cả nước
đồng thời thực hiện hai chiến lược cách mạng, dưới sự lãnh đạo của một Đảng.
2.2.1. Ở miền Bắc
Trên miền Bắc, trong điều kiện mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được
thành lập để tăng cường củng cố khối thống nhất nhân dân, thực hiện nhiệm vụ
vừa xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vừa thực hiện nghĩa vụ hậu
phương lớn chi viện cho chiến trường miền Nam, vừa chiến đấu. Trong quá trình
hoạt động, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã thực sự phát huy được sức mạnh mới
của tồn dân, của cả dân tộc trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc,
đồng thời phát huy vai trò quyết định của hậu phương chiến lược đối với cơng
cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Nhận xét về cơng tác tổ chức,
động viên đồn kết trên miền Bắc, nhà sử học Mỹ Gabriel Kolko đã viết:
“Đường lối quần chúng và sự động viên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tỏ ra
là một phương pháp rất có hiệu quả và nếu khơng làm được như vậy thì sự sống
cịn của Việt Nam Dân chủ Cộng hịa sẽ bị nguy hại hay ít ra sẽ khơng đủ khả
năng để duy trì cuộc chiến tranh ở miền Nam”.
Phát huy vai trò của hậu phương miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, với đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Dựa trên nền tảng chế độ xã hội mới được xây dựng trong 10 năm hịa bình
(1954 1964), được củng cốvà bảo vệ vững chắc trong hai cuộc chống chiến
13


tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, Đảng và Nhà nước đã ban hành và
thực hiện nhiều biện pháp nhằm làm cho miền Bắc phát huy đầy đủ, liên tục vai

trị,tác dụng có ý nghĩa quyết định đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Trên nền tảng của chế độ xã hội mới, giải quyết mối quan hệ giữa chiến
đấu và sản xuất, giữa nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài, Đảng, Nhà nước
đã đề ra và thực hiện có hiệu quả chính sách động viên sức người, sức của cho
chiến trường phù hợp với điều kiện thực tế của từng thời kỳ, từng địa
phương.Đồng thời với cơng tác động viên, Đảng, Nhà nước cịn thường xun
quan tâm và đề ra những biện pháp nhằm bồi dưỡng sức dân. Trong những năm
chiến tranh, Đảng, Nhà nước chỉ đạo các cấp, các ngành, kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước,địa phương khơng ngừng củng cố, hồn thiện quan hệ sản xuất
mới, đặc biệt là củng cố các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Hệ thống hợp tác
xã sản xuất nông nghiệp được củng cố đã cho phép hậu phương miền Bắc động
viên cao độ sức người, sức của phục vụ kháng chiến.

Nông dân miền Bắc đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các biện pháp thâm
canh, tăng vụ nhằm tăng nhanh sản lượng lương thực, đáp ứng chi viện cho
chiến trường miền Nam

14


Ở miền Bắc, suốt mấy chục năm, khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả
vì miền Nam ruột thịt” đã ăn sâu vào máu thịt, thơi thúc tồn dân vừa sản xuất
vừa chiến đấu. Là công nhân hay nông dân, là trí thức hay thợ thủ cơng, là nam
giới hay phụ nữ, là người cao tuổi hay là học sinh đang học tập dưới mái trường
XHCN… mọi người đều nhận thức cụ thể, nghiêm túc về trách nhiệm và nghĩa
vụ. Các phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Ruộng
đất là chiến trường, nhà nông là chiến sĩ” đã trở thành biểu tượng cho ý chí của
miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Dù đời sống vật chất còn rất nhiều thiếu thốn, nhưng
từ nhà máy, công trường tới ruộng đồng, mọi người đều cố gắng thi đua lập
thành tích trong sản xuất để chi viện miền Nam. Cũng từ miền Bắc, hàng vạn,

hàng vạn thanh niên ưu tú được giáo dục, đào tạo theo phương châm “vừa hồng,
vừa chuyên” đã tiếp bước cha anh lên đường vào chiến trường, như câu thơ Tố
Hữu từng viết: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương
lai”. Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh, miền Bắc trở thành chiến trường ác
liệt. Dưới mưa bom bão đạn, nhân dân miền Bắc vẫn sản xuất và chiến đấu nêu
cao khẩu hiệu “thóc khơng thiếu một cân, qn khơng thiếu một người. Vì miền
Nam ruột thịt, miền Bắc làm việc bằng hai”. Với ý chí và nghị lực ấy, quân và
dân miền Bắc vừa làm nên những “cánh đồng năm tấn” vừa bắn rơi hàng nghìn
máy bay của không quân Mỹ, bắt sống hàng trăm giặc lái, làm nên những kỳ
tích mà trận “Ðiện Biên Phủ trên khơng” là ví dụ điển hình cho nghị lực, quyết
tâm của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền Bắc, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao
của chiến trường.
Tại hậu phương miền Bắc, dựa vào tính ưu việt của chế độ xã hội mới,
Đảng, Nhà nước ban hành và tổ chức các chính sách kinh tế, văn hóa xã hội,
chính sách phân phối thu nhập, chế độ tiền lương, chính sách thuế... theo định
hướng bảo đảm duy trì và ổn định đời sống nhân dân trong chiến tranh. Ngoài
ra, việc học hành, chữa bệnh cũng được Nhà nước bao cấp phần lớn. Trong điều
kiện chiến tranh ác liệt, chi viện cho chiến trường ngày càng tăng, việc thực hiện
chính sách phân phối thu nhập quốc dân, bảo đảm định lượng cho mọi người
15


dân, ổn định được đời sống nhân dân là cố gắng to lớn của Đảng và Nhà nước
ta. Nhằm bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, chính quyền các cấp luôn
luôn chú trọng công tác sơ tán, phịng tránh, vận động và tổ chức tồn dân làm
nhiệm vụ phịng khơng nhân dân. Nhờ thế, dù chiến tranh kéo dài và ngày càng
ác liệt nhưng miền Bắc đã hạn chế được tối đa những tổn thất về người và cơ sở
vật chất trước sự đánh phá của không quân và hải quân Mỹ. Nhìn chung, suốt
những năm chiến tranh, đặc biệt là trong hai cuộc chống chiến tranh phá hoại lần
thứ nhất và lần thứ hai của không quân, hải quân Mỹ, Đảng và Nhà nước đã đề

ra và vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, biện pháp nhằm xây dựng và
bảo vệ vững chắc miền Bắc, từ đó phát huy vai trị, tác dụng của hậu phương lớn
đối với tiền tuyến lớn một cách mạnh mẽ, liên tục.
Ngay sau Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 khóa III, miền Bắc bắt đầu
tổ chức chi viện sức người, sức của cho miền Nam, cho cách mạng Lào và sau
đó là cách mạng Campuchia. Sự chi viện đó ngày càng tăng, đáp ứng địi hỏi
ngày càng cao của chiến trường. Nếu như năm 1959, miền Bắc mới chỉ chi viện
cho miền Nam 542 người thì đến năm 1964, con số đó tăng lên 17.475 người.
Trong thời gian diễn ra những cuộc tiến công chiến lược (1968, 1972, 1975),
nhân lực động viên từ miền Bắc phục vụ nhu cầu chiến tranh tăng lên gấp từ 4
đến 5 lần so với trước đó. Khơng tính số qn bảo vệ miền Bắc, làm nhiệm vụ
dự bị chiến lược và chiến đấu, công tác trên tuyến vận tải chiến lược 559, chỉ
riêng số quân từ miền Bắc vào chiến trường ở miền Nam trong những năm kể
trên như sau: năm 1968: 141.081 người; năm 1972: 152.974 người; năm 1975:
117.193 người. Năm 1975, năm cuối của cuộc kháng chiến, tổng số nhân lực
miền Bắc động viên theo nhu cầu quốc phòng chiếm tới 30% lực lượng lao động
xã hội ở miền Bắc; 60 65% trong số đó vào lực lượng vũ trang. Giai đoạn 1973
1975, 50% số quân bộ đội tập trung ở miền Nam là lực lượng do miền Bắc tăng
cường. Ngoài lực lượng trực tiếp chiến đấu, các lực lượng vận tải, bảo đảm giao
thông, mở đường và các lực lượng bảo đảm khác... bao gồm hàng triệu lượt
người cũng đều được động viên ở miền Bắc. Đại bộ phận lực lượng được động
16


viên phục vụ nhu cầu chiến tranh thời kỳ này là thanh niên. Đó là những người
trưởng thành trong chế độ xã hội mới, dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, có giác
ngộ chính trị cao, có trình độ văn hóa, phẩm chất đạo đức, và sức khỏe tốt. Do
vậy, đây là lớp người có trình độ, nắm vững và sử dụng thành thạo hiệu quả các
loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, là lớp người với tinh thần chiến đấu với
niềm tin và ý thức giác ngộ chính trị cao. Khơng những huy động lực lượng con

người cho chiến trường mà phần lớn vũ khí, thiết bị chiến tranh, lương thực,
thuốc men... phục vụ công tác chiến đấu và ổn định vùng giải phóng ở miền
Nam và chiến trường Đông Dương đều do miền Bắc trực tiếp chi viện.

Thanh niên miền Bắc hăng hái lên đường vào miền Nam chiến đấu,
năm 1968
Miền Bắc đã tiếp nhận hàng triệu tấn vật chất, phương tiện kỹ thuật do
các nước anh em viện trợ, tổ chức nghiên cứu, thiết kế, cải biên, cải tiến nhiều
loại vũ khí, khí tài chiến đấu, vận chuyển vượt hàng nghìn kilơmét dưới bom
đạn đánh phá của địch, đưa các loại vật chất, hàng hóa quân sự vào các mặt trận,
các vùng giải phóng.

17


Đồn xe vận tải 238 vận chuyển hàng hóa cho chiến dịch Tây Nguyên
Trong những năm 1965 đến năm 1968, miền Bắc đã tổ chức vận chuyển
vào miền Nam một khối lượng vật chất lớn gấp 10 lần so với những năm 1961
1964. Tổng khối lượng vật chất miền Bắc chi viện cho miền Nam trong những
năm chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” cịn tăng gấp nhiều lần so với
thời kỳ chiến lược “Chiến tranh cục bộ”.
Như vậy, nhân lực và vật chất hai nhân tố chiến lược quan trọng trong
chiến tranh đã được hậu phương miền Bắc đáp ứng kịp thời, đầy đủ, liên tục và
ngày càng cao. Quân và dân hậu phương miền Bắc đã góp phần rất quan trọng
cùng tiền tuyến lớn miền Nam đánh bại các bước leo thang chiến tranh của
không quân, hải quân Mỹ, làm thất bại các mục tiêu chiến lược chủ yếu của cuộc
chiến tranh này, đập tan mưuđồ xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Thành quả của công cuộc xây dựng miền Bắc, sự ổn định của miền Bắc trong
những năm chống chiến tranh phá hoại, sự phục hồi nhanh của lực lượng cách
mạng miền Nam sau năm 1972 là một trong những cơ sở để Đảng ta đề ra chủ

trương chiến lược giải phóng miền Nam, hoàn thành độc lập dân chủ trong hai
năm 1975 1976. Nhằm động viên cao độ sức mạnh toàn diện của miền Bắc cho
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, trong hai năm 1973 1974, hơn
25 vạn thanh niên miền Bắc được động viên vào lực lượng vũ trang, 15 vạn
18


quân từ biệt hậu phương vào chiến trường chiến đấu, hàng vạn cán bộ, nhân viên
kỹ thuật, thanh niên xung phong miền Bắc tới các vùng giải phóng, góp phần ổn
định tình hình. Lực lượng cơng binh, Bộ đội Đồn 559, ngành vận tải miền Bắc
cùng hàng vạn dân công miền Bắc dồn sức mở rộng đường Trường Sơn, đặt
thêm đường ống dẫn dầu. Trong hai năm này, 379.000 tấn vật chất từ miền Bắc
được chuyển vào các mặt trận, bằng 54% tổng khối lượng vật chất giao cho
chiến trường trong suốt 16 năm trước đó. Được sự chi viện mạnh mẽ của miền
Bắc, thế và lực của cách mạng miền Nam trở nên mạnh mẽ hơn. Trên miền Bắc,
các lực lượng dự bị chiến lược được tăng cường, các quân đoàn chủ lực gồm
nhiều binh chủng hợp thành lần lượt ra đời. Các quân binh chủng cũng xây dựng
tăng cường thêm nhiều đơn vị mới. Tồn bộ tình hình trên đây là cơ sở để Trung
ương Đảng và Bộ Chính trị đi đến quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn
miền Nam trong năm 1975. Thực hiện quyết tâm đó, 4 tháng đầu năm 1975,
miền Bắc đưa nhanh vào miền Nam hơn 110.000 cán bộ, chiến sĩ, 230.000 tấn
vật chất hàng hóa các loại. Như vậy, vào giai đoạn cuối cuộc chiến tranh, miền
Bắc đã dốc toàn bộ sức mạnh của mình cho miền Nam mở cuộc Tổng tiến cơng
và nổi dậy mùa Xn 1975 giành thắng lợi hồn tồn.
Sau ngày miền Nam giải phóng, với những kinh nghiệm tiếp quản thành
thị và vùng bị địch chiếm đóng những năm 1954 1955, đội ngũ cán bộ, đảng
viên, nhân viên kỹ thuật từ miền Bắc đưa vào đóng vai trị quan trọng trong việc
tiếp quản các đô thị và vùng mới giải phóng; góp phần thắng lợi nhanh chóng ổn
định tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội miền Nam. Nhờ có tinh thần
yêu nước nồng nàn và đường lối tập hợp, đoàn kết toàn dân đúng đắn, sáng tạo

của Đảng ta đã tạo nên sức mạnh to lớn, góp phần quyết định đánh thắng đối
phương có sức mạnh của một siêu cường hàng đầu thế giới.
2.2.2. Ở miền Nam
Tại miền Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn ra vô cùng ác
liệt. Từ phong trào đấu tranh cách mạng của quân và dân miền Nam Thành
đồng, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập
19


(20/12/1960) với chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp,
các dân tộc, các đảng phái, đồn thể, tơn giáo và thân sỹ u nước, khơng phân
biệt xu hướng chính trị, đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập
đoàn tay sai, thực hiện độc lập, dân chủ, hịa bình, trung lập, tiến tới hịa bình
thống nhất nước nhà. Ngay sau khi thành lập, Mặt trận ra lời kêu gọi: “Tất cả
hãy đứng lên, tất cả hãy đoàn kết lại. Hãy siết chặt hàng ngũ chiến đấu dưới
ngọn cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ
và Ngơ Đình Diệm”.

Hưởng ứng phong trào đấu tranh của thanh niên và nhân dân miền
Nam, học sinh, sinh viên miền Bắc xuống đường với khẩu hiệu: "Đả đảo đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm".
Ngồi ra, những hình thức ngồi Mặt trận cũng được Đảng chỉ đạo xây
dựng để thu hút mọi người dân có cảm tình với cách mạng, các tầng lớp trung
lập, những người có khuynh hướng hịa bình... như việc thành lập Liên minh các
lực lượng dân tộc, dân chủ và hịa bình Việt Nam, các tổ chức hội, các nhóm
hoạt động... Những khẩu hiệu đấu tranh địi tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh,
hịa bình trung lập.. là những mục tiêu phù hợp thực sự thu hút các tầng lớp trí
thức, học sinh, sinh viên, tín đồ các tôn giáo, ngoại kiều, tư sản dân tộc, lớp dưới
20



trong bộ máy quân đội và chính quyền Việt Nam cộng hòa... vào cuộc đấu tranh
chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đó thực sự là một sáng tạo của đường lối đại đoàn
kết toàn dân. Một học giả nước ngoài nhận xét: “Ngoài những chiều cạnh về thể
chất và về quân sự rất đặc biệt của Việt Nam, kẻ thù đó của Mỹ cịn có những
vốn q về chính trị và về tri thức rất nguy hiểm cho Mỹ bởi vì phương pháp
luận sáng tạo của cách mạng có thể áp dụng khơng phải chỉ ở Việt Nam mà cịn
ở khắp nơi khác nữa. Mỹ đã chọn nhầm một nước để thử lịng tin của mình”.

“Đội qn tóc dài”
Ðồng cam, cộng khổ, chịu đựng mọi gian khổ, thiếu thốn, cán bộ, chiến sĩ
và đồng bào miền Nam từ nông thôn tới thành thị, từ đồng bằng tới miền núi,
không phân biệt già trẻ, gái trai, không phân biệt sắc tộc và tôn giáo đã cùng
đứng trong một đội ngũ, chủ động và sáng tạo tìm ra cách đánh hiệu quả nhất,
lập nên vô vàn chiến công hiển hách, làm kẻ thù phải kinh ngạc, khiếp sợ, chịu
thất bại sau khi quân và dân Việt Nam tiến hành cuộc Tổng tiến cơng và nổi dậy,
giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước với Chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử. Trong cuộc chiến đấu hào hùng ấy, hàng triệu người con ưu tú của
dân tộc đã ngã xuống trên chiến trường. Các anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi,
Bùi Ngọc Dương, Mai Quốc Ca, Lê Anh Xuân… trở thành tấm gương tiêu biểu
21


cho thế hệ con người Việt Nam mới, trung thành với lý tưởng cộng sản và hiến
dâng thân mình cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại, giải phóng Tổ quốc.
2.3. Sự kết hợp nhuần nhuyễn trong chiến đấu của nhân dân hai miền
Nam, Bắc đã làm nên những chiến thắng vẻ vang trong những năm kháng
chiến chống Mỹ (1954-1975)
Để đáp ứng nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới mà
Trung ương Đảng xác định đó là “trụ cột bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hịa bình”,

qn đội ta nhanh chóng bước vào xây dựng theo kế hoạch quân sự 5 năm lần
thứ nhất (1955-1960). Nhiệm vụ và phương châm lúc này là: Tích cực xây dựng
quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy, hiện đại. Đến
năm 1960, quân đội ta đã hoàn thành các nhiệm vụ theo kế hoạch quân sự 5 năm
lần thứ nhất; có bước trưởng thành mới, từ lực lượng chủ yếu là bộ binh với tổ
chức chưa thật thống nhất, vũ khí trang bị cịn thiếu thốn đã trở thành quân đội
chính quy, ngày càng hiện đại, gồm các qn chủng: Lục qn, Hải qn, Phịng
khơng-Khơng qn. Đồng thời, với việc xây dựng lực lượng, sắp xếp lại tổ chức,
biên chế, tăng cường sức mạnh chiến đấu, quân đội ta đã tích cực tham gia cơng
tác tiếp quản các thành phố, thị xã và các vùng do quân Pháp chiếm đóng ở miền
Bắc; bảo vệ thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tích cực tham gia
lao động sản xuất, góp phần khơi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh.
Ở miền Nam, tháng 6/1954, Mỹ dựng chính phủ Ngơ Đình Diệm và ráo
riết thực hiện chính sách khủng bố tàn bạo, gây ra những tổn thất nặng nề cho
cách mạng miền Nam. Trước tình hình đó, tháng 1/1959, Hội nghị lần thứ 15
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) mở rộng đã xác định hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam và vạch rõ con đường cơ bản của cách
mạng miền Nam là sử dụng bạo lực cách mạng.
Ngày 28/8/1959 nhân dân nhiều xã trong huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi)
nổi dậy giành chính quyền. Ngày 17/1/1960, nhân dân các huyện Mỏ Cày, Minh
Tân, Thạnh Phú tỉnh Bến Tre nhất loạt nổi dậy, phá thế kìm kẹp, tạo nên phong
trào “Đồng khởi” lan rộng ra nhiều tỉnh ở Nam Bộ, Khu 5. Từ phong trào “Đồng
22


khởi”, lực lượng vũ trang và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp của ta từng bước
hình thành. Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
ra đời. Ngày 15/2/1961, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Quân Giải
phóng miền Nam Việt Nam, bộ phận trực tiếp của Quân đội nhân dân Việt Nam
thực hiện nhiệm vụ chiến đấu ở miền Nam.

2.3.1. Đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ
(1961-1965)
Trên hậu phương lớn miền Bắc, quân đội ta đã khẩn trương xây dựng theo
kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961-1965), nâng cao một bước quan trọng
trình độ chính quy, hiện đại. Nhiệm vụ và phương châm là: Xây dựng quân đội
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy, hiện đại. Với phương
hướng xây dựng đúng đắn, quyết tâm cao, tổ chức thực hiện tốt, quân đội ta đã
nâng cao một bước rõ rệt sức mạnh chiến đấu. Đồng thời, đã tạo ra những cơ sở
thuận lợi cho việc mở rộng lực lượng, hoàn thành những nhiệm vụ xây dựng và
chiến đấu ngày càng lớn, khẩn trương và phức tạp trong những bước tiếp theo.
Từ năm 1961, để đối phó với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới
và phong trào cách mạng miền Nam, đế quốc Mỹ thực hiện “Chiến tranh đặc
biệt”. Chúng sử dụng quân đội Sài Gòn làm lực lượng chủ yếu; cung cấp vũ khí,
phương tiện kỹ thuật quân sự, tài chính và chỉ huy bằng hệ thống cố vấn quân sự
và dân sự từ Trung ương đến các tỉnh, đặc khu, các sư đoàn và tiểu đoàn; đồng
thời, thực hiện ba biện pháp chiến lược cơ bản: Tìm diệt bộ đội chủ lực và cơ sở
cách mạng, bình định để nắm dân, phá hoại miền Bắc bằng biệt kích và phong
tỏa biên giới, vùng biển để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc.
Với kinh nghiệm đấu tranh, quân và dân miền Nam đã sáng tạo nhiều hình
thức tiến cơng, đánh 15.525 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 28.966 tên, vùng giải
phóng được giữ vững và mở rộng; chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ
đứng trước nguy cơ bị phá sản. Nhằm hạn chế những tổn thất và cứu nguy cho
thất bại ở chiến trường miền Nam, sau khi dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”
(8/1964), ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc
23


bằng khơng qn và hải qn lần thứ nhất hịng ngăn chặn sự chi viện của hậu
phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam. Chúng đánh ồ ạt các khu vực sơng
Gianh (Quảng Bình), Cửa Hội (thành phố Vinh), Lạch Trường (Thanh Hoá), Bãi

Cháy (Quảng Ninh). Các đơn vị hải qn, phịng khơng, dân qn tự vệ đã nâng
cao cảnh giác, hiệp đồng chặt chẽ, mưu trí dũng cảm, chiến đấu ngoan cường,
bắn rơi 8 máy bay, bắn bị thương nhiều chiếc khác, bắt sống nhiều giặc lái Mỹ.
Ngày 5/8 trở thành Ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Bộ đội Hải quân
nhân dân Việt Nam. Tháng 10/1964, các lực lượng vũ trang miền Nam mở đợt
hoạt động Đông- Xuân 1964-1965, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ
lực ngụy, mở rộng vùng giải phóng. Sau chiến thắng Bình Giã (2/12/19643/1/1965), Ba Gia (5/1965), Đồng Xồi (10/5-22/7/1965), chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” của Mỹ hoàn toàn bị phá sản, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của quân và dân ta bước sang một giai đoạn mới.Cùng toàn dân đánh
bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ
nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968) .Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt”, từ giữa năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến
lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa lực lượng chiến đấu của Mỹ vào trực tiếp tham
chiến trên chiến trường miền Nam. Hỗ trợ cho nỗ lực quân sự ở miền Nam, Mỹ
dùng không quân, hải quân mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Vừa
xây dựng, vừa chiến đấu và phát triển lực lượng, bộ đội ta trên các chiến trường
miền Nam đã tổ chức các trận tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân quy mơ
lớn của Mỹ - qn đội Sài Gịn, mở ra phong trào “tìm Mỹ mà diệt”, “nắm thắt
lưng Mỹ mà đánh”, đánh bại kế hoạch hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định”
của địch, tạo điều kiện đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước phát triển lên
một bước mới, làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
Ở miền Bắc, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, đánh trả không quân,
hải quân địch, giành những thắng lợi lớn. Trong 4 năm (1964-1968), quân và
dân miền Bắc đã bắn rơi 3.243 máy bay các loại, bắt sống nhiều giặc lái, bắn
chìm và bắn cháy 143 tàu chiến. Giữa lúc cuộc chiến tranh leo thang của đế
24


quốc Mỹ đến đỉnh cao nhất, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968)

nhằm tạo bước ngoặt lớn, chuyển chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ
mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Chỉ trong một thời gian ngắn, quân và
dân ta đã giành chiến thắng. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng
loạt Xuân Mậu Thân 1968 trên toàn chiến trường miền Nam, cùng với việc đánh
thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc
đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, làm phá
sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ chấp nhận đàm phán với ta tại
Hội nghị Pari.

Bộ đội hành quân trong cuộc tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1968
2.3.2.Đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và cuộc tập
kích bằng khơng qn, hải qn lần thứ hai vào miền Bắc của đế quốc Mỹ
(1969-1972).
Thất bại trên chiến trường miền Nam, từ năm 1969, Mỹ chuyển sang thi
hành “Học thuyết Níchxơn” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đồng
thời tăng cường chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” ở Lào và
Campuchia. Quân và dân ta đã phối hợp chặt chẽ với nhân dân Lào và
25


×