Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

BAO VE TO QUOC XA HOI CHU NGHIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.01 KB, 70 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt đề tài, em xin trân trọng cảm ơn thầy giáo Đại tá
Trương Xuân Dũng trong tổ bộ môn Đường lối quân sự và cũng là giáo viên
trực tiếp giảng dạy em môn Đường lối quốc phòng - an ninh trong học kỳ vừa
qua. Trong thời gian qua dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy trưởng khoa
GDQP và góp ý chu đáo của các thầy trong khoa đã giúp đỡ tơi hồn thành đề
tài.
Trong q trình làm đề tài chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót,
kính mong q thầy cơ cùng bạn đọc đóng góp ý kiến bổ sung để cho đề tài
ngày càng được hoàn thiện và đạt kết quả tốt hơn. Rất mong nhận được sự quan
tâm, góp ý của thầy, cô và các bạn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, ngày 21 tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hương


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục quốc phòng và an ninh là một trong những nhiệm vụ quan trọng
góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tồn diện. Qua đó tạo điều kiện cho thế hệ
trẻ có điêù kiện tu dưỡng phẩm chất đạo đức và rèn luyện năng lực thực tế sẵn
sàng thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Việt Nam – dải đất thân thương hình chữ S, đang vươn mình hội nhập
cùng bạn bè thế giới. Để đạt được những thành công như ngày hôm nay, đất
nước chúng ta đã trải qua biết bao cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc, viết nên
trang sử hào hùng của dân tộc. Tiêu biểu với hai cuộc kháng chiến thần thánh
chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giữ vững non sông Việt Nam. Hơn 30
năm kể từ thời khắc lịch sử đó, thời khắc thống nhất hai miền Nam – Bắc với
chiến dịch mùa xuân năm 1975 đến hôm nay Việt Nam chúng ta đã đạt được


những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Để có
những thắng lợi vẻ vang đó cịn là nhờ vào vai trị to lớn, sự lãnh đạo tài tình của
Đảng đã đưa ra những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn đưa cách
mang Việt Nam đi đến thành công giữ vững nền độc lập thống nhất của tổ quốc.
Ngày nay, trong thời kì đất nước đang từng bước hội nhập, phát triển thì vai trị
của Đảng càng được đề cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “ Giành được chính quyền đã khó
nhưng bảo vệ đợc chính quyền lại càng khó hơn”. Quả đúng như lời Người dạy,
việc đảm bảo được nền an ninh trong tình hình mới là rất khó khăn với bao thử
thách. Là một thanh niên, một sinh viên trong thời đại mới, tôi nhận thấy mình
phải có trách nhiệm với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa của dân tộc.
Chính vì lý do đó tơi quyết định chọn đề tài này với mong muốn được nâng cao
hiểu biết về vai trò, sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới. Từ đó đưa ra những giải pháp đánh đổ âm mưu của

2


kẻ thù góp phần vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc cho đồng bào nói chung và thế
hệ trẻ nói riêng.
2. Mục đích
Nắm vững những quan điểm chỉ đạo và một số giải pháp cơ bản của Đảng
về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới góp phần bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trang bị những kiến thức cơ bản về tính chất đặc điểm,quan điểm, nội
dung của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, làm cơ sở nghiên cứu nắm vững
quan điểm chỉ đạo của Đảng trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
3. Nhiệm vụ

Xác định trách nhiệm, thái độ đúng đắn trong học tập mơn học, tích cực
tham gia xây dựng, củng cố nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân ngay
sau khi học tập, rèn luyện.Vận dụng quan điểm chỉ đạo của Đảng góp phần bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết như phân tích, tổng hợp,
phân loai, hệ thống hố…
5. Bố cục
Ngồi phần mở đầu và kết luận đề tài gồm có 2 phần:
Chương I: Khái quát những quan điểm chỉ đạo và một số giải pháp cơ bản
của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Chương II: Quan điểm chỉ đạo và một số giải pháp cơ bản của Đảng về
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

3


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG CHÂM,
YÊU CẦU NHIỆM VỤ CỦA ĐẢNG VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG
TÌNH HÌNH MỚI
1. Quan điểm, phương châm về bảo vệ Tổ quốc
Dựng nước đi đôi với giữ nước là chân lý lịch sử đã được đúc kết từ thực
tiễn tồn tại và phát triển suốt mấy nghìn năm của dân tộc ta. Việc bảo đảm an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh đang là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn Đảng, tồn
qn, tồn dân ta. Vì vậy, nắm vững quan điểm, phương châm, nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới là việc cần thiết đối với các cấp, các ngành và mọi
cán bộ, đảng viên- nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là mưu lược (kế sách) để xác định mục tiêu,
quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả thi nhằm tạo nên sức mạnh
tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ quốc phòng – an ninh để bảo
vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững hòa bình ổn định đất nước, ngăn chặn, đẩy lùi
chiến tranh, làm thất bại mọi âm mưu DBHB , bạo loạn lật đổ, ly khai, can thiệp,
xâm lược của giặc ngoài, thù trong, phục vụ cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.
Tình hình trong nước và trên thế giới đã tác động trực tiếp đến sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ TQ.
Tình hình thế giới và khu vực nói trên đã tác động trực tiếp đến sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vừa tạo ra nhiều thuận lợi mới rất quan trọng, đồng
thời cũng gây ra những khó khăn, thách thức nghiêm trọng đối với nước ta.
Trước tình hình thế giới diễn ra phức tạp, trước những thắng lợi mà Đảng
lãnh đạo nhân ta đã giành được trong quá trình đổi mới, trên cơ sở phân tích
điều kiện khách quan và chủ quan, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 BCH TW
Đảng (khóa IX) xác định mục tiêu của sự nghiệp bảo vệ bảo vệ Tổ quốc trong
giai đoạn hiện nay như sau: một là, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống
4


nhất toàn vẹn lãnh thổ; hai là, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; ba là,
bảo vệ sự nghiệp đổi mới, CNH,HĐH đất nước; bốn là bảo vệ lợi ích quốc
gia,dân tộc; năm là, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội và nền văn
hóa; sáu là, giữ vững ổn định chính trị và mơi trường hịa bình, phát triển đất
nước theo định hướng XHCN.
Nghị quyết cũng xác định các quan điểm chỉ đạo là:
Một là, giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; lấy việc
giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển KT-XH là lợi ích cao nhất
của Tổ quốc.

Ba là, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc VN XHCN. Sức mạnh bên trong là nhân tố quyết
định, nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then
chốt. Kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Bốn là, xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã
hội, văn hóa, quốc phịng, an ninh, đối ngoại ; phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết tồn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước. Lực lượng vũ trang làm nòng cốt;
tăng cường tiềm lực quốc phịng, an ninh, khơng ngừng xây dựng thế trận quốc
phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân phù hợp với hoàn cảnh mới.
Năm là, ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác
mọi thuận lợi ở bên ngoài. Quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, kiến trì chính
sách đối ngoại mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa theo phương châm “ thêm
bạn, bớt thù”, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cố gắng gia tăng hợp tác, tránh xung
đột, đối đầu; tránh bị cô lập, lệ thuộc.
Sáu là, chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố
bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi.

5


Trên cơ sở quan điểm trên, chúng ta cần nắm vững ba phương châm chỉ
đạo :
Thứ nhất, kiên định các nguyên tắc chiến lược, đi đôi với sự vận dụng linh
hoạt sách lược, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận
quốc tế; phân hóa, cô lập các phần tử chống đối, ngoan cố nhất, các thế lực
chống phá VN hung hăng nhất.
Thứ hai, đối với nội bộ, lấy việc phát huy dân chủ, giáo dục, thuyết phục,
phịng ngừa là chính, đi đơi với giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, xử lý nghiêm minh
các sai phạm. Đối với các thế lực chống đối ở trong nước, cần phân hóa, cơ lập

bọn đầu sỏ, ngoan cố; xử lý nghiêm minh, kiên quyết với những người cố tình
chống đối, đi ngược lại với lợi ích dân tộc. Giáo dục, lơi kéo những người lầm
đường, khơng để hình thành tổ chức đối lập dưới bất cứ hình thức nào.
Thứ ba, thường xuyên đi sát cơ sở, nắm chắc tình hình, xử lý kịp thời mọi
mầm mống gây mất an ninh, không để bị động, bất ngờ.
2. Yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ TQ trong tình hình mới được Nghị quyết đề
ra
Giữ vững hồ bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước theo định hướng XHCN. Xây dựng Đảng là then chốt, kết hợp chặt chẽ
với bảo vệ Đảng, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ. Phát triển kinh tế
gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; đồng thời chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mở rộng dân chủ xã
hội chủ nghĩa đi đôi với việc tăng cường trật tự kỷ cương, chú trọng giải quyết
các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường quốc phòng, giữ
vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên
của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Qn đội nhân dân và Cơng an
nhân dân là lực lượng nòng cốt. Tiếp tục triển khai thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hố, đa dạng hố. Chủ động và tích cực hội
6


nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác.
Kiên trì chủ trương Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ
BẢN CỦA ĐẢNG VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI.
I. THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
Công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an tồn xã hội trong

tình hiện nay đang được Đảng và Nhà nước quan tâm rất nhiều.
An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chủ nghĩa và nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sự bất khả xâm phạm độc lập chủ
quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc. An ninh quốc gia bao gồm an
ninh trên các lĩnh vực, chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, xã hội quốc phịng
đối ngoại… Trong đó an ninh chính trị là cốt lõi xuyên suốt.
Bảo vệ an ninh quốc gia là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn đấu tranh
làm xâm hại an ninh quốc gia.
1. Một số nét về tình hình an ninh quốc gia
Sau khi Liên Xơ Đơng Âu tan rã đã có tác động tiêu cực và tạo thuận lợi
cho các hoạt động chống phá tổ chức, hệ lực phản động cả ở trong nước lẫn bọn
phản động lưu vong bên ngoài. Hoạt động chống phá của các tổ chức và thế lực
phản động nhằm cản trở công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ta cũng có
những diễn biến rất phức tạp.
- Trước hết là hoạt động của các tổ chức phản động người Việt Nam ở
nước ngồi. Hiện nay có khoảng 200 tổ chức chính trị phản động người Việt lưu
vong tại các nước tư bản núp dưới các danh nghĩa khác nhau bao gồm các tổ
chức phản động mang tính chính trị rõ nét, các tổ chức tập hợp bọn ngụy quân
ngụy quyền, các tổ chức lợi dụng nhân quyền hoặc núp dưới các danh nghĩa tự
thiện. Các tư tưởng này có tư tưởng vật chất tương đối khá gồm 50 nhà sản xuất,
500 tờ báo Việt ngữ, 6 chương trình truyền hình, 10 đài phát thanh. Hầu hết các
tổ chức hoạt động lưu vong này đều kêu gọi các nước nước cấm vận động trừng
7


phạt Việt Nam bằng mọi thủ đoạn, chúng lợi dụng khó khăn thiếu sót trong quản
lý của ta để thực hiện kế hoạch “chuyển lửa về quê” đưa ra các lời kêu gọi lật đổ
và tiếp tay kích động cho các hoạt động của bọn hoạt động trong nước.
- Tình hình an ninh kinh tế trong những năm qua cịn nhiều bất cập phá
hoại tư tưởng là một dạng đặc biệt của chiến tranh lạnh, một hình thức chủ yếu

trong cuộc đấu tranh tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc chống chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm qua các hoạt động phá hoại tư tưởng được các bọn phản động
nhất là bọn phản động bên ngồi tiến hành thơng qua hoạt động của các đài phát
thanh, mạng Internet. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm vào xuyên tạc, nói xấu
kích động nhằm gây mất ổn định trong nước.
- Trong những năm qua tình hình lộ bí mật, mất thơng tin bí mật về kinh
tế đã xẩy ra ở nhiều cơ quan, xí nghiệp và đã gây ra nhiều thiệt hại. Các hoạt
động nhằm phá hoại về kinh tế được tiến hành cả bề rộng lẫn bề sâu thông qua
các hoạt động lấy cắp bí mật kinh tế, tuyên truyền và lôi kéo cán bộ quản lý kinh
tế và khoa học kỹ thuật phá hoại cơ sở vật chất. Trong tình hình hiện nay chúng
nhằm vào phá hoại các chủ trương đường lối kinh tế, các cơng trình trọng điểm
của ta.
- Tình hình an ninh biên giới cịn nhiều phức tạp, các vụ xâm nhập qua
biên giới diễn ra với nhiều hình thức, hoạt động xuất cảnh trái phép nhất là khu
vực giáp giới. Lợi dụng mối quan hệ của các dân tộc hai bên biên giới, các đối
tượng bên ngồi qua lại móc nối, lơi kéo chia rẽ các dân tộc, dòng họ trong nước
hòng làm suy yếu, tiến tới gây bạo loạn ở những nơi này.
- Trong nhiều năm qua xuất hiện nhiều điểm nóng về an ninh trật tự, xuất
phát từ những bức xúc, bất bình của nhân dân trước những việc làm sai trái thiếu
sót của cán bộ cơ sở trong việc giải quyết đền bù đất đai… Do làm chưa triệt để,
chưa công bằng nên đã để một bộ phận nhân dân bị một số phần tử quá khích
kích động dẫn đến manh động làm rối loạn an ninh trật tự ở một số địa phương.
2. Tình hình về trật tự, an tồn xã hội

8


Những năm qua, chúng ta cũng đã được những thành tựu đáng kể về cơng
tác giữ gìn trật tự xã hội. Tuy nhiên, tình hình trật tự, an tồn xã hội vẫn cịn rất
nhiều vấn đề phức tạp, thậm chí có lúc, có nơi cịn để xảy ra rất nghiêm trọng.

Trật tự an tồn xã hội thời gian qua có những nét nổi bật sau:
- Tình hình tội phạm xâm phạm trật tự xã hội, tội phạm kinh tế, tội phạm
ma túy trong những năm qua có những diễn biến rất phức tạp.
Số vụ phạm tội hàng năm bị phát hiện có sự gia tăng khơng đều trong đó
các vụ trọng án có chiều hướng tăng. Bình qn hàng năm có khoảng 70.000 vụ
phạm tội được phát hiện trong đó có các vụ án giết người, cướp của, cướp giật
có xu hướng tăng. Trong các vụ án giết người thì nguyên nhân chủ yếu là
nguyên nhân xã hội.
Các loại tội phạm trật tự, an tồn xã hội ngày càng có xu hướng chuẩn bị
trước, tình hình băng nhóm tội phạm câu kết với nhau tạo thành những tổ chức
tội phạm rất nguy hiểm gây nhức nhối, bức xúc cho xã hội.
Thành phần đối tượng phạm tội rất đa dạng, đủ các loại người, có cả lưu
manh cũng như nơng dân, cán bộ, đảng viên, tri thức, sinh viên. Trong đó đáng
lo ngại là các vụ trả thù cá nhân do mâu thuẫn nội bộ rồi đi thuê giang hồ xã hội
đen trả thù.
Thủ đoạn gây án của bọn phạm tội hình sự rất đa dạng xảy ra ở tất cả
những loại hình, từ những thủ đoạn đơn giản cổ điển nhưng hiệu quả, đến những
thủ đoạn tinh vi xảo quyệt của bọn giết người dùng các loại độc chất khó phát
hiện.
Về địa bàn hoạt động tội phạm xâm phạm trật tự xã hội xảy ra ở tất cả các
địa bàn trong cả nước nhưng tập trung vào các thành phố lớn.
Các loại hình kinh tế, tuy số vụ khơng tưng nhiều nhưng quy mơ, tính chất
rất nghiêm trọng, trong đó nổi lên những vụ chiếm đoạt thuế VAT, các vụ tham ô
với số tiền chiếm đoạt lên tới hàng ngàn tỉ đồng.
- Tình hình về tệ nạn xã hội, tai nạn, ơ nhiễm mơi trường xảy ra phức tạp
thậm chí rất nhiêm trọng.
9


Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội tiêu cực gây ra những hậu quả vô

cùng to lớn. Nó cịn là bạn đồng hành, là sân sau của các loại tội phạm. Trong
những năm qua, các loại tệ nạn ở nước ta vẫn chưa giảm, thậm chí có loại còn
tăng như mại dâm, cờ bạc, nghiện hút…
Tệ nạn xã hội diễn ra hầu hết ở các địa phương trong cả nước, nó có một
số đặc điểm sau:
+ Tệ nạn xã hội mang tính phổ biến.
+ Tệ nạn xã hội mang tính lây lan rất nhanh, tệ nạn xã hội có mối quan hệ
chặt chẽ với tội phạm.
Hậu quả do tệ nạn xã hội gây ra những ảnh hưởng lớn đến hạnh phúc gia
đình, xã hội và nó cịn là một những nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỉ HIV,
AIDS.
+ Cùng với tệ nạn xã hội, tình trạng tai nạn giao thông, tai nạn lao động,
tai nạn nghề nghiệp rủi ro xảy ra rất nghiêm trọng và có chiều hướng gia tăng.
Trong các loại tai nạn thì tai nạn giao thông chiếm tỉ lệ cao nhất, các vụ tai nạn
giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy hàng năm cướp đi sinh mạng của
hàng chục nghìn người và hàng trăm người trở thành phế nhân, tài sản bị hư
hỏng rất nghiêm trọng. Nguyên nhân của các vụ tai nạn giao thông như. Do số
lượng phương tiện giao thông tăng rất nhanh, nhất là ô tô, xe máy.
3. Dự báo tình hình an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội trong
thời gian tới
3.1. Tình hình quốc tế trong thời gian tới sẽ diễn biến phức tạp hơn
- Một là, sau cuộc chiến tranh Irắc, các thế lực hiếu chiến tiếp tục thực
hiện chiến lược “đánh đòn phủ đầu” lợi dụng địn tấn cơng chống lại “chủ nghĩa
khủng bố” ra sức lộng hành đe dọa hịa bình chủ quyền của các quốc gia dân tộc.
- Hai là, quan hệ giữa các nước lớn tiếp tục đan xen cả hai mặt đấu tranh
và thỏa hiệp.
- Ba là, phong trào nhân dân thế giới chống chiến tranh bảo vệ hòa bình,
độc lập dân tộc tiếp tục phát triển.
10



- Bốn là, xu thế tồn cầu hóa về kinh tế sẽ tiếp tục phát triển.
- Năm là, tình hình kinh tế thế giới sẽ tiếp tục không ổn định.

11


3.2. Tình hình khu vực Đơng Nam á vẫn cịn tiềm ẩn nhiều nguyên tố
mất ổn định
- Chủ nghĩa khủng bố vẫn hoạt động ở một số nước gây ra những thảm
họa cho nhân dân và chính quyền ở nơi đó. Mâu thuẫn về sắc tộc, tơn giáo làm
bùng nổ những cuộc xung đột ở một khu vực khá nghiêm trọng.
- Trước tình hình đó sự gắn kết trong ASEAN và vị trí của hiệp hội trên
trường quốc tế sẽ gặp nhiều thách thức, nhưng ASEAN tiếp tục là nhân tố quan
trọng đối với hịa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực.
3.3. Những thuận lợi và khó khăn trong cơng tác bảo vệ an ninh quốc
gia, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội ở Việt Nam trong những năm tới
a. Thuận lợi
- Tiềm lực và vị thế quốc tế của nước ta được tăng cường sau hơn 20 năm
đổi mới.
- Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước, đoàn kết, tin tưởng và
Đảng và chế độ.
- Đảng cộng sản Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng, dày dạn kinh
nghiệm, đường lối đổi mới của Đảng đã được kiểm chứng qua thực tiễn là đúng
đắn.
- Lực lượng vũ trang cách mạng tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ
quốc, nhân dân, vươn lên làm trịn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
b. Khó khăn
- Thách thức lớn nhất đối với an ninh trật tự ở nước ta là các mối đe dọa,
tụt hậu xa về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nạn tham

nhũng và tệ nạn quan liêu.
- Những yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính
trị, các vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
- Hoạt động “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch
sẽ gia tăng. Các thế lực phản động tiếp tục sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân
quyền để can thiệp vào nội bộ nước ta.
12


- Các hành động xam hại độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ nước ta
vẫn sẽ tiếp tục.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỆ BẢO VỆ TỔ QUỐC
TRONG TÌNH MỚI
1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chiến tranh bảo vệ tổ quốc
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng cách mạng là sự nghiệp quần chúng,
Ănghen khẳng định: “ Một dân tộc muốn dành độc lập cho mình thì khơng được
giới hạn trong những phương thức thông thường để tiến hành chiến tranh. Khởi
nghĩa quần chúng, chiến tranh cách mạng, các đội du kích ở khắp nơi đó là
những phương thức duy nhất nhờ đó mà một dân tộc nhỏ có thể chiến
thắng…”Ơng nhấn mạnh: “ Trong chiến tranh, thắng lợi và thất bại đều rõ ràng
là phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào nhân
lực và vũ khí, nghĩa là vào chất lượng, số lượng của dân cư và cả kỹ thuật nữa”.
Lênin cho rằng: “ Ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai đứng vững được trong
quần chóng nhân dân hơn thì người ấy sẽ giành được thắng lợi trong chiến
tranh”
Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội có tính lịch sử đó là cuộc
đấu tranh vũ trang có tính chất giữa các giai cấp nhà nước hoặc liên minh giữa
các giai cấp nhà nước nhằm đạt mục đích chính trị nhất định. Theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Leenin thì chiến tranh là một kết quả của những quan hệ

giữa người với người trong xã hội. Nhưng nó khơng phải là mối quan hệ giữa
người với người nói chung, mà là mối quan hệ giữa những tập đoàn người có lợi
ích cơ bản dối lập nhau. Chiến tranh được thể hiện dưới một nình thức đặc biệt,
sử dụng cơng cụ đặc biệt đó là bạo lực vũ trang.
Chế độ công xã nguyên thủy tồn tại trải qua hàng vạn tranh năm nhưng
chưa hề có chiến tranh, tuy nhiên thỉnh thoảng có sự xung đột tranh giành giữa
các bộ lạc về khu vực chăn thả, trồng trọt, nguồn nước, bãi cỏ vùng săn bắn…đó
hồn tồn mang tính ngẫu nhiên tự phát.
13


Từ khi có chế độ chiếm hữu nơ lệ, có giai cấp, đối kháng, đã nảy sinh mâu
thuẫn và giải quyết mâu thuẫn. Giai cấp cầm quyền sử dụng lực lượng và các
phương tiện để duy trì lợi ích về chính trị và kinh tế cho giai cấp thống trị. Lênin
còn chỉ rõ còn chủ nghĩa đế quốc là còn nguy cơ xảy ra chiến tranh, chiến tranh
là bạn đường của chủ nghĩa đế quốc
1.2. Quan điểm của Đảng về chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
Đảng ta chỉ rõ: “ Chiến tranh phải do toàn dân tiến hành, chủ yếu là nhân
dân lao động, dưới sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân. Vì nhân dân lao động có
một tinh thần cách mạng kiên quyết và bền bỉ, vì giai cấp công nhân là giai cấp
triệt để cách mạng nhất. Trong điều kiện lịch sử hiện nay của nước ta, rõ ràng
chiến tranh là do tồn dân tiến hành vì những quyền lợi cơ bản của nhân dân
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân”
Chiến tranh là cuộc chiến tranh do đơng đảo quần chúng nhân dân tiến
hành vì lợi ích của nhân dân, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, dưới sự lãnh
đạo của giai cấp tiến bộ; đấu tranh với địch một cách toàn diện bằng mọi hình
thức và vũ khí có trong tay chống lại sự xâm lược từ bên ngoài hoặc chống áp
bức thống trị bên trong. Mục đích chính trị của chiến tranh nhân dân càng triệt
để, sự lãnh đạo càng đúng đắn thì lực lượng tham gia càng đơng đảo, mạnh mẽ,
sức mạnh và nghệ thuật của chiến tranh nhân dân tạo điều kiện cho các dân tộc

nhỏ có thể đánh thắng những kẻ thù xâm lược có quân đội lớn mạnh hơn.
Tiến hành chiến tranh trong nhân dân, toàn dân đánh giặc lực lượng vũ
trang làm nòng cốt. Kết hợp tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương với tác
chiến của binh đoàn chủ lực.
Đây là quan điểm cơ bản xuyên suốt thể hiện tính nhân dân sâu sắc trong
chiến tranh với tinh thần đầy đủ nhất là điều kiện để phát huy sức mạnh tống
hợp trong cuộc chiến tranh. Trong điều kiện mới, ta vẫn phải lấy nhỏ thắng lớn
lấy ít thắng nhiều để đánh thắng những quân đội mạnh hơn ta gấp nhiều
lần.Đảng ta không chỉ dựa vào lực lượng vũ trang mà còn phải dựa vào sứa
mạnh của toàn dân, tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc. Động
14


viên và tổ chức quần chúng cùng lực lượng vũ trang nhân dân trực tiếp chiến
đấu và phục vụ chiến đấu chống lại chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Đánh giặc
bằng mọi thứ vũ khí có trong tay bằng những cách đánh độc đáo sáng tạo…Toàn
dân đánh giặc phải có lực lượng nịng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3
thứ quân: dân quân tự vệ, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực. Dân quân tự vệ
làm lực lượng nòng cốt cho phong trào đấu tranh của toàn dân đánh giặc ở cơ
sở: bộ đội địa phương và dân quân tự vệ làm lực lượng nòng cốt cho phong trào
chiến tranh nhân dân ở địa phương. Bộ đội chủ lực cùng lực lượng vũ trang địa
phương làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc trên chiến trường cả nước.
Tiến hành chiến tranh tồn dân, đó là truyền thống, đồng thời là quy luật
giành thắng lợi trong chiến tranh của dân tộc ta chống những kẻ thù xâm lược
mạnh hơn ta nhiều lần: tổ tiên ta đã tiến hành chiến tranh nhân dân để đánh
thắng các triều đại phong kiến phương bắc xâm lược cũng như dưới sự lãnh đạo
của đảng, dân tộc ta đã thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.ngày nay
ta phải kế thừa và phát huy truyền thống ấy lên một trình độ mới phù hợp với
điều kiện mới thực hiện toàn dân đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược của
địch.

Trên cơ sở những quan điểm đó Đảng ta đã đưa ra một số biện pháp thực
hiện như:
- Tăng cường giáo dục quốc phòng cho mọi tầng lớp nhân dân nhất là
thế hế trẻ tuổi nói chung và sinh viên nói riêng
- Khơng ngừng chăm lo xây dựng các lực lượng vũ trang vững mạnh
toàn diện đặc biệt là chất lượng chính trị.
- Khơng nhừng nghiên cứu nghệ thuật quân sự, nghiên cứu các cuộc
chiến tranh gần đây trên thế giới để phát triển nghệ thuật quân sự lên một tầm
cao mới. Xây dựng tỉnh(TP) thành khu vực phòng thủ vững chắc
- Tiến hành chiến tranh toàn diện, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân
sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa và tư tưởng, lấy đấu tranh quân sự là

15


chủ yếu, lấy thắng lợi trên chiến trường là yếu tố quyết định để giành thắng lợi
trong chiến tranh.
- Chuẩn bị mọi mặt trên cả nước cũng như từng khu vực để đủ sức đánh
lâu dài, ra sứ thu hẹp không gian, rút ngắn thời gian chiến tranh giành thắng lợi
càng sớm càng tốt.
- Kết hợp kháng chiến với xây dựng vừa kháng chiến vừa xây dựng, ra
sức sản xuất thực hành tiết kiệm giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta càng đánh
càng mạnh.
- Kết hợp đấu tranh quân sự với đảm bảo an ninh chính trị, giữ gìn trật
tự an toàn xã hội, trấn áp kịp thời mọi âm mưu hành động phá hoại gây bạo loạn.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tinh thần tự
lực tự cường tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới.
1.3.Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với chiến tranh nhân dân
bảo vệ Tổ quốc
1.3.1. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân

dân xuất phát từ quan điểm của Người về vai trị của nhân dân; về tính chất
chính nghĩa, động lực của cuộc kháng chiến là bảo vệ độc lập dân tộc và
thống nhất Tổ quốc.
Mở đầu Lời kêu gọi Tồn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
Chúng ta muốn hồ bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần
nữa. Không Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ; Bằng sự khẳng định đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã xác định mục đích chính nghĩa của cuộc kháng chiến và lòng tin tưởng của
Người vào sức mạnh ý chí bảo vệ độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc của nhân
dân các dân tộc Việt Nam. Cái mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã kế thừa
những tinh hoa quân sự của lịch sử nhân loại, vận dụng phát triển sáng tạo học
thuyết Mác - Lênin về chiến tranh quân đội kết hợp với truyền thống quân sự
độc đáo “cả nước một lòng chung sức đánh giặc” của dân tộc để huy động mọi
16


tiềm năng của nhân dân với tinh thần thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, không chịu làm nô lệ. Tinh thần ấy trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước được Người khái quát thành chânlý:Không có gì q hơn độc lập tự
do.
Thực tiễn lịch sử thế giới xưa và nay cũng như toàn bộ lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc đã xác nhận ý nghĩa quyết định của mục đích chính
nghĩa của cuộc chiến tranh đối với xây dựng và động viên sức mạnh chính trị
tinh thần của nhân dân. Nội dung chính trị của cuộc chiến tranh là nhân tố quyết
định đến tinh thần của nhân dân và quân đội. Nếu chính trị của giai cấp nhà
nước tiến hành chiến tranh mà tiến bộ, đáp ứng các quyền lợi của nhân dân, thì
mục đích tiến bộ chính nghĩa của cuộc chiến tranh có tác dụng to lớn đối với xây
dựng và động viên sức mạnh chính trị - tinh thần của nhân dân. V.I.Lênin đã
từng khẳng định niềm tin của quần chúng nhân dân vào tính chất của cuộc chiến

tranh chính nghĩa, sự nhận thức cần thiết phải hy sinh tính mạng cho hạnh phúc
của anh em mình… khiến cho họ chịu đựng được những gánh nặng chưa từng
thấy.
Đối với dân tộc Việt Nam, lịng quyết tâm, ý chí bảo vệ độc lập dân tộc và
thống nhất Tổ quốc của nhân dân các dân tộc Việt Nam là sức mạnh tinh thần
bảo đảm cho dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn và chịu đựng được bất kỳ thử
thách nào của chiến tranh đánh thắng bọn xâm lược, dù chúng có tàn bạo và
hung ác đến đâu.
1.3.2. Quan điểm về phát huy sức mạnh của dân tộc, thực hiện toàn
dân kháng chiến, lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
Trong Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già
người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì
phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc… Hỡi anh em binh sỹ, tự vệ,
dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ
gìn đất nước. Đây chính là thể hiện ý chí tồn thể dân tộc Việt Nam quyết “đem
17


tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải” để bảo vệ nền tự do và độc
lập của mình mà Người đã tun bố trong Tun ngơn độc lập trước toàn thế
giới.
Đây là quan điểm cơ bản xuyên suốt tư tưởng về chiến tranh nhân dân của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xuất phát từ quan điểm về con người, lòng tin vào sức
mạnh của nhân dân - có dân là có tất cả. Vì vậy phải dựa vào dân khơi nguồn
sức mạnh, sức sáng tạo của nhân dân. Nhân dân đối với Hồ Chí Minh là tồn
dân Việt Nam không phân biệt già trẻ, trai gái, giai cấp, đảng phái, dân tộc.
Người giải thích tồn dân kháng chiến nghĩa là ai cũng phải đánh giặc. Bất kỳ
đàn ông, đàn bà, người già người trẻ ai cũng tham gia kháng chiến. Tổ quốc là
Tổ quốc chung. Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do, nếu mất nước thì ai

cũng phải làm nơ lệ. Cái mới trong tư tưởng của Người về toàn dân kháng chiến
là ở chỗ người đã tìm thấy điểm tương đồng, chất keo kết dính các tầng lớp, giai
cấp, dân tộc chính là lợi ích tối cao của dân tộc. Đây là nguyên tắc sống cịn
được Người khái qt ngắn gọn nhưng vơ cùng sâu sắc: dân tộc trên hết, Tổ
quốc trên hết. Phát triển tư tưởng đó, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh cục
bộ ở miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân
ra miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi quân dân cả nước: 31 triệu đồng bào
ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là 31 triệu chiến sỹ anh dũng diệt
Mỹ, cứu nước quyết tâm giành thắng lợi cuối cùng. Quan điểm này của Người
khác hẳn với quan điểm quân sự phong kiến, tư sản, thường chỉ nhấn mạnh vai
trò của quân đội của các tướng lĩnh, của binh khí kỹ thuật mà khơng thấy vai trò
to lớn của nhân dân trong chiến tranh.
Cùng với kêu gọi tồn dân kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi
anh em binh sỹ, tự vệ dân quân phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn
non sơng đất nước. Đây chính là sự cụ thể hố quan điểm về thực hiện tồn dân
kháng chiến lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt mà Người đã đề cập trong Chỉ
thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng qn: Vì cuộc kháng chiến
của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn
18


dân. Cho nên khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy
trì lực lượng vũ trang các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về
mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt các đội vũ trang
của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm
cho các đội này trưởng thành mãi lên. Quan điểm đó của Người đã được Đảng ta
vận dụng phát triển sáng tạo trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
cứu nước. Trên cơ sở động viên toàn dân kháng chiến, Đảng đã tập trung xây
dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương ,
dân quân tự vệ. Đây chính là phương thức tổ chức lực lượng thích hợp nhất để

động viên và tổ chức tồn dân đánh giặc, kết hợp được lực lượng nòng cốt với
lực lượng rộng khắp của toàn dân lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ trên cả
nước và từng khu để diệt thù.
1.3.3.Quan điểm kháng chiến toàn diện, đánh địch bằng mọi lực lượng,
mọi khí.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hành kháng chiến toàn diện là mỗi
ngành, mỗi giới, mỗi lĩnh vực công tác, chiến đấu sản xuất, công tác đều nỗ lực
tạo ra hiệu quả to lớn để phục vụ cuộc kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
diễn đạt một cách dễ hiểu về tính tồn diện của cuộc kháng chiến: Nó lấy vũ lực
ta khơng sợ. Nó lấy chính trị ta khơng mắc mưu, nó lấy kinh tế phong toả ta lấy
kinh tế đánh nó. ở tiền tuyến, chiến sỹ hy sinh xương máu để bảo vệ non sơng. ở
hậu phương tồn dân gia sức tăng gia sản xuất… thế là cùng ra sức tham gia
kháng chiến
Phát huy truyền thống quân sự của dân tộc “ cả nước đánh giặc, trăm họ là
binh”…, Người kêu gọi: “Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, khơng
có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân
Pháp cứu nước”. Tư tưởng kháng chiến toàn diện, đánh giặc bằng mọi loại vũ
khí sau này được Người tiếp tục phát triển trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước với tinh thần mỗi người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xã là một pháo đài,
mỗi chi bộ là một bộ tham mưu; và ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ
19


khí, nhà nơng là chiến sỹ; văn hố nghệ thuật cũng là một mặt trận, mỗi văn
nghệ sỹ là chiến sỹ trên mặt trận đó.
Quan điểm về chiến tranh nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lời
kêu gọi Toàn quốc kháng chiến được diễn đạt giản dị, dễ hiểu, phù hợp với trình
độ của từng người dân, nhưng lại thể hiện những vấn đề có tính quy luật của
chiến tranh nhân dân ở một nước nhỏ chống lại chiến tranh xâm lược của chủ
nghĩa đế quốc. Những quan điểm ấy đã thấm vào lòng dân, trở thành sức mạnh

vật chất to lớn đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp và chủ nghĩa thực dân
mới của Mỹ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mác-xê-la Lôm-bác-đô, một học giả thuộc trung tâm nghiên cứu
triết học - chính trị và xã hội Mê-hi-cơ viết: Chúng ta có thể khẳng định rằng
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và tư tưởng của Người
về chiến tranh nhân dân đã góp phần làm phong phú học thuyết Mác- Lênin về
phương pháp mà các dân tộc phải làm theo khi tiến hành một cuộc cách mạng
dân chủ. Điều đó giải thích tại sao Người có thể tập hợp tồn dân tộc vào mặt
trận cách mạng và tại sao tất cả mọi người Việt Nam tham gia vào cuộc kháng
chiến với chủ nghĩa yêu nước vĩ đại. Đó là cống hiến của Người vào cuộc đấu
tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Quan điểm về chiến tranh nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến là sự vận dụng sáng tạo học thuyết quân sự Mác Lênin, kế thừa phát triển truyền thống quân sự của dân tộc trong thời đại mới.
Những quan điểm của Người về chiến tranh nhân dân tiếp tục chỉ đạo toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở lập trường duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng
giá bản chất, quy luật cua chiến tranh, tác động của chiến tranh đến đời sống xã hội.
Khi nói về bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh đã khái qt
hình ảnh “con đỉa hai vòi”, một vòi hút máu nhân dân lao động chính quốc, một
vịi hút máu nhân dân lao động thuộc địa. Trng hội nghị Véc – Xây, Hồ Chí
Minh đã vạch trần bản chất, bộ mặt thật của sự xâm lược thuộc địa và chiến
20


tranh cướp bóc của thực dân Pháp. “Người Pháp khai hóa văn minh bằng riệu
lậu và thuốc phiện”. nói về mục đích cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
Người khẳng định: “Ta chỉ giữ gìn non sơng, đất nước của ta. Chỉ chiến đấu cho
quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Cịn thực dân phản động pháp thì
mong ăn cướp nước ta, mong bắt dân ta làm nô lệ”.
Như vậy Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cuộc chiến tranh của thực dân Pháp tiến

hành ở nước ta là cuộc chiến tranh xâm lược. Ngược lại cuộc chiến tranh của
nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược là cuộc chiến tranh nhằm bảo vệ độc
lập chủ quyền và thống nhất đất nước.
Trên cơ sở mục đích chính trị của chiến tranh, Hồ Chí Minh đã xác định
tính chất của chiến tranh, chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, chiến tranh chống
xâm lược là chính nghĩa, từ đó xác định thái độ của chúng ta là ủng hộ chiến
tranh chính nghĩa và phản đối chiến trnh phi nghĩa. Kế thừa và phát triển tư
tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực cánh mạng, Hồ Chí Minh đã vận
dụng sáng tạo vào thực tiễn chiến tranh cách mạng Việt Nam. Người khẳng
định: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực, độc lập tự
do khơng phải cầu xin mà có được, phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo
lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”.
Bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh được tạo bởi sức mạnh
của toàn dân, bằng cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ
giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Hồ Chí Minh khẳng định: Ngày
nay chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta là chiến tranh nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Chủ tịch Hồ Chi Minh luôn coi
con người là nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Người chủ trương
phải dựa vào dân, coi dân là gốc, là cội nguồn của sức mạnh để “xây dựng thắng
lợi”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân là một trong những di sản
quý báu của Người. Tư tưởng này được Hồ Chi minh trình bày một cách giản dị,
dễ hiểu nhưng sinh động và rất sâu sắc. Chiển tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo
21


của Đảng là cuộc chiến tranh toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn
dân và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cọng sản. Tư tưởng của Người được thể
hiện rõ nét trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp ngày
19 – 12 – 1946: “Bất kì đàn ơng, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia

tôn giáo, đảng phái, dân tộc…hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực
dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, khơng
có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân
Pháp cứu nước”
Để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Người tiếp tục khẳng định: “Ba mươi
mốt triệu đồng bào ta ở cả hai miền,bất kì già trẻ, gái trai, phải là ba mươi mốt
triệu chiến sỹ anh dũng diệt Mỹ cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giặc phải bằng sức mạnh của tồn dân,
trong đó phải có lực lượng vũ trang nhân dân làm nịng cốt. kháng chiến tồn
dân phải đi đơi với kháng chiến toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
dân, đánh địch trên tát cả các mặt trận: Qn sự, chính trị, kinh tế, văn hóa…
2. Quan điểm của chỉ đạo của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
2.1. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nhân dân làm chủ, cơng an
là lực lượng nịng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn
trật tự, an tồn xã hội
- Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt là nhân tố quyết định
thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, trong đó có cơng tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an
tồn xã hội. Chỉ có Đảng lãnh đạo mới có thể huy động được sức mạnh tổng hợp
của tồn bộ hệ thống chính trị, của tồn xã hội, bảo đảm thắng lợi trọn vẹn và
triệt để trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự xã hội.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc
gia và trật tự an toàn xã hội.
22


Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội là sự nghiệp của
nhân dân, là nghĩa vụ đồng thời cũng là lợi ích thiết thân của nhân dân. An ninh

quốc gia, trật tự an toàn xã hội có được bảo vệ tốt hay khơng thì vấn đề rất quan
trọng là do sự giác ngộ của nhân dân về quyền làm chủ của mình trên lĩnh vực
đó. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân thực chất đó là cuộc vận động phong
trào cách mạng của quần chúng nhằm xây dựng trật tự an ninh, trật tự nhân dân
từ cơ sở. Nhân dân có điều kiện và khả năng để thực hiện quyền làm chủ đó.
- Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực bảo vệ an ninh
tổ quốc, trật tự an toàn xã hội.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước là công cụ sắc bén để nhân dân
lao động thực hiện quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực, trong đó cơng tác
bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội. Nhà nước có mạnh thì
quyền làm chủ của nhân dân mới được bảo đảm vững chắc.
- Công an là lực lượng nóng cốt.
Lực lượng cơng an là chỗ dựa trực tiếp và thường xuyên cho các ngành,
các cấp và quần chúng trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự, an tồn
xã hội. Lực lượng cơng an phải tập trung giải quyết những khâu cơ bản nhất, tổ
chức hướng dẫn các lực lượng khác nhau thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh
quốc gia an toàn xã hội. Qua thực tiễn tiến hành cuộc đấu tranh, lực lượng công
an phải làm tham mưu cho Đảng, Nhà nước về những vấn đề có liên quan đến
cơng tác bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an tồn xã hội có liên
quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội. Do đó để đảm bảo
thắng lợi hoàn toàn và triệt để trong cuộc đấu tranh, lực lượng công an phải biết
kết hợp tính tích cực cách mạng của quần chúng với cơng tác nghiệp vụ của các
cơ quan chuyên môn. Sự kết hợp đó thể hiện: Quần chúng phát hiện cung cấp
tình hình, cơ quan chun mơn thu thập ý kiến đó. Những ý kiến đó phải được
tổng hợp, kết hợp với nghiệp vụ chun mơn của các ngành để tìm ra bản chất

23



của vấn đề và biện pháp xử lý. Phải coi trọng cả hai mặt đó, khơng được coi nhẹ
mặt nào.
2.2. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là truyền thống của dân tộc ta trong quá
trình dựng nước và giữ nước. Đảng, Nhà nước ta đã kế thừa và phát huy truyền
thống đó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Sự ổn định và phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội là nền tảng vững
chắc của an ninh trật tự và ngược lại an ninh trật tự được giữ vững mới có điều
kiện ổn định phát triển đất nước về mọi mặt. Cần nhận thức an ninh trật tự được
giữ vững cũng cố và phát triển trên nền tảng kinh tế, xã hội ổn định và phát
triển. Hiện nay kết hợp giữa quốc phòng an ninh là một yêu cầu khách quan của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Nội dung cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì q độ được đại hội
đại biểu tồn quốc lần thứ VII của Đảng thông qua xác định: “xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ ciến lược của cách mạng Việt
Nam.
Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn
nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phịng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng"(1). Cương lĩnh coi đó là
một trong những phương hướng cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Quan điểm kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chính là thể hiện sự nhận thức quy luật dựng
nước đi đôi với giữ nước của dân tộc trong thời kỳ lịch sử mới; quy luật xây
dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo lý
luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, quy luật đó được thể hiện ở hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ
nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
24



Nhìn lại lịch sử, từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay, dân tộc ta chưa
bao giờđược yên ổn tập trung sức xây dựng phát triển kinh tế - xã hội. Từ khi đất
nước tiến hành công cuộc đổi mới, các thế lực thù địch không ngừng tiến hành
các hoạt động chống phá nước ta hòng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự lãnh
đạo của Đảng, nhằm xóa bỏ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ tình hình
thế giới và trong nước trong những thập niên 90 của thế kỷ 20 và thập niên đầu
thế kỷ 21, Đảng đã định hình rõ hơn các nguy cơ đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chỉ ra các nhân tố có khả năng gây mất ổn
định chính trị - xã hội, phá hoại an ninh quốc gia và sự nghiệp quốc phòng, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến hết sức phức tạp
với những biến động bất trắc khó lường, tiềm ẩn cả những thuận lợi và khó
khăn, thời cơ và nguy cơ, tích cực và tiêu cực đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia dân tộc. Cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ hiện đại có bước tiến nhảy vọt
tác động đến mọi quốc gia và các quan hệ quốc tế trong thế giới đương đại. Tồn
cầu hóa kinh tế là một xu thế tất yếu tác động đến tất cả các quốc gia với cả thời
cơ và nguy cơ, tích cực và tiêu cực. Bên cạnh xu thế hịa bình, hợp tác và phát
triển thì cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc vẫn diễn ra gay gắt, quyết
liệt. Xung đột giữa các dân tộc, sắc tộc; chạy đua vũ trang, chiến tranh cục bộ,
khủng bố, bạo loạn lật đổ vẫn là mối đe dọa độc lập, chủ quyền, an ninh của các
quốc gia dân tộc trên thế giới. Trong bối cảnh tồn cầu hóa và cịn tồn tại các
nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau, cịn có sự phân cực, chênh lệch giữa
các nước phát triển và đang phát triển thì hai mặt hợp tác và đấu tranh là hai mặt
luôn tồn tại song song. Những điều đó đặt ra nhiều vấn đề mà mỗi quốc gia, dân
tộc phải đặc biệt quan tâm vấn đề quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong
hoạch định chiến lược phát triển của mình.
Bảo vệ Tổ quốc khơng chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời,
vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước,

nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới, lợi ích quốc gia,
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×