Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Bài kiểm tra giữa kỳ 2 môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.16 KB, 14 trang )

BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ 2
MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM

Câu 1: Phân tích đường lối kháng chiến độc lập tự chủ của Đảng trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
*Giai đoạn từ năm 1954 - 1965
- Bối cảnh lịch sử:
Sau Hiệp định Giơnevơ, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới. Hệ
thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật,
nhất là của Liên Xơ; phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở Châu Á,
Châu Phi và khu vực Mỹ La Tinh, phong trào hồ bình dân chủ lên cao ở các nước
tư bản; miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả nước; thế
và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau chín năm kháng chiến; có ý chí độc lập
thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí Nam.
Tuy nhiên, đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu làm bá
chủ thế giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng; thế giới bước vào thời kỳ
chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa; xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô
và Trung Quốc; đất nước ta bị chia làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc
hậu, miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ và đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù
trực tiếp của nhân dân ta.
Đứng trước tình hình trên, Đảng lãnh đạo đồng thời hai chiến lược cách mạng ở
hai miền khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam sau tháng 7/1954.
Đặc điểm bao trùm và các thuận lợi khó khăn nêu trên là cơ sở để Đảng ta phân tích,
hoạch định đường lối chiến lược chung cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
mới.
- Đường lối kháng chiến độc lập tự chủ của Đảng trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước trong giai đoạn từ năm 1954 - 1965



• Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh chóng xác định rõ kẻ thù, từ
đó vạch ra đường lối, mục tiêu và phương pháp cách mạng một cách kịp thời
và hiệu quả.
Phải sau bốn năm cuộc đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ của nhân dân ta
trải qua một chặng đường cách mạng đầy sóng gió với bao mất mát, hy sinh, đau
thương và vấp váp, cùng những biến động thăng trầm của tình hình chính trị thế giới
và chính sách đối ngoại của các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ
Chí Minh rút ra kết luận: Phải đặt cách mạng miền Nam trong cách mạng chung của
cả nước và cách mạng nước ta trong cách mạng thế giới, thì mới vạch ra được đường
lối và phương pháp cách mạng đúng đắn.
Trên tinh thần đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam lần thứ 15 (mở rộng) khóa II, tháng 1-1959 xác định: Miền Bắc phải tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Miền Nam phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, tiến lên
bằng con đường bạo lực cách mạng, ngồi con đường đó khơng cịn con đường nào
khác. Phương hướng cơ bản của cách mạng miền Nam là “Khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì
con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của
quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị
của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”. Đó là
con đường cơ bản của cách mạng, là mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta. Trong quá
trình đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp, ta dùng hình thức đấu tranh chính trị là
chủ yếu. Song, trong một chừng mực nhất định, ở những địa bàn nhất định, ta phải
dùng vũ trang tuyên truyền, vũ trang tự vệ hỗ trợ cho đấu tranh chính trị. Chủ trương
của Đảng nhấn mạnh đấu tranh vũ trang phải phục tùng chính trị nhằm mục đích
kiềm chế sự phản ứng của địch và thế giới, ngăn chặn Mỹ tăng cường quân sự sớm,
tạo điều kiện cho cách mạng miền Nam chuẩn bị.
Ngoài ra, Đảng ta cịn ln kiên trì với mục tiêu cách mạng giải phóng dân tộc,
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, kết hợp chặt
chẽ ba cuộc cách mạng đó trong q trình kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Chủ nghĩa đế quốc, thực dân tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta và duy

trì ách thống trị của chúng đối với nhân dân Việt Nam, bao giờ chúng cũng câu kết
chặt chẽ với giai cấp địa chủ, phong kiến, giai cấp tư sản mại bản phản động và
những phần tử chống lại Tổ quốc và dân tộc, sẵn sàng làm tay sai cho ngoại bang.


Để đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và đập tan ách thống
trị của chúng, nhân dân ta không chỉ làm một cuộc cách mạng giải phóng, mà phải
tiến hành cả ba cuộc cách mạng giải phóng, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Kết hợp ba cuộc cách mạng này là giữ vững định
hướng cho nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, ác liệt, đi đến đích cuối cùng của
chủ nghĩa xã hội, tăng thêm niềm tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng mà họ đang
theo đuổi, phấn đấu hy sinh, củng cố lòng tin vào Đảng và tiền đồ của cách mạng.
Hoàn thành thắng lợi ba cuộc cách mạng đó, Đảng ta, nhân dân ta mới thực sự giải
phóng được hồn tồn Tổ quốc, giải phóng được giai cấp, giải phóng xã hội, giải
phóng con người triệt để nhất; đồng thời giải quyết tốt, hài hịa giữa lợi ích dân tộc
với mục tiêu hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế
giới.
Dưới ánh sáng của đường lối và phương pháp cách mạng do Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh vạch ra, năm 1959-1960, nhân dân miền Nam làm cuộc Đồng khởi
thắng lợi, đưa cách mạng Việt Nam ở miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng lên thế tiến
công. Đồng khởi thắng lợi, cách mạng miền Nam chẳng những khơng bị cơ lập, mà
cịn được bạn bè ủng hộ. Điều đó chứng minh Nghị quyết Trung ương 15 của Đảng
là thành cơng điển hình về đường lối kháng chiến và phương pháp cách mạng độc
lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta.
• Đảng ta sớm xác định rõ nhiệm vụ chiến lược của hai miền Bắc – Nam,
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc phải kết hợp chặt chẽ với cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Tiếp tục cuộc Đồng khởi bằng chiến tranh cách mạng. Rút kinh nghiệm từ thực
tiễn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bổ sung, phát triển và từng bước hoàn
thiện đường lối kháng chiến, chiến lược và phương pháp cách mạng miền Nam. Tại

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, năm 1960, Đảng ta chủ trương: “Tăng cường
đoàn kết tồn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hịa bình, đẩy mạnh cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây
dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết
thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hịa bình ở Đơng Nam Á
và thế giới”. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã


hội, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền nước ta: cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Nhiệm vụ của miền Bắc là tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành
cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Đây là nhiệm
vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng nước ta. Nhiệm vụ cơ bản
của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc
và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng, góp phần xây dựng
một nước Việt Nam hịa bình, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đây là nhiệm vụ quyết
định trực tiếp đối với cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện hịa bình, thống
nhất Tổ quốc.
Mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ ở hai miền Bắc - Nam gắn bó nhau chặt chẽ, ảnh
hưởng và tác động qua lại, thúc đẩy nhau cùng phát triển và đều nhằm hồn thành
một mục tiêu cách mạng và mục đích chính trị. Nhiệm vụ chiến lược của miền Bắc
và miền Nam trên đây làm nổi rõ đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam trong
kháng chiến chống Mỹ xâm lược, là cùng một lúc tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng ở hai miền khác nhau, nhưng đều nhằm một mục tiêu chung của cách
mạng Việt Nam, do một đảng lãnh đạo, một nhà nước điều hành.
Đó là sự sáng tạo rất độc đáo, nó khẳng định đường lối cách mạng và kháng
chiến cũng như phương pháp cách mạng do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch
ra trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là đúng đắn, độc lập, tự chủ và

sáng tạo.
• Đảng và nhà nước ta đã biết phát huy lòng yêu nước của nhân dân và sức
mạnh đoàn kết dân tộc, tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện và đồng thời
hai chiến lược cách mạng ở hai miền dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. .
Trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9-1960) tại Hà Nội đã xác định
nhiệm vụ chung nhấn mạnh: "Tăng cường đoàn kết tồn dân, kiên quyết đấu tranh
giữ vững hồ bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời
đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hồ bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã
hội chủ nghĩa và bảo vệ hồ bình ở Đông Nam Á và thế giới".


Nhân dân ta có một lịng u nước nồng nàn và trở thành truyền thống quý báu
của dân tộc: “Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi
nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”5. Nhân dân ta đã
đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ năm 1954 là
một minh chứng hùng hồn sức mạnh của lòng yêu nước. Ngày nay, nước ta tạm thời
bị chia cắt thành hai miền, kẻ thù mới là đế quốc Mỹ và bè lũ bán nước Ngơ Đình
Diệm mạnh hơn lực lượng cách mạng miền Nam nhiều lần, phe xã hội chủ nghĩa nhất là Liên Xô, Trung Quốc bất đồng về đường lối, muốn giữ cách mạng trong thế
thủ, trong khi ta phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai
miền, điều đó đã gây cho nhân dân ta mn vàn khó khăn, phức tạp trên nhiều mặt.
Với quan điểm sự nghiệp cách mạng là của quần chúng, “việc gì khó dân liệu cũng
xong”, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh coi quần chúng nhân dân là gốc, là nền của
cuộc kháng chiến, là chỗ dựa vững chắc của cách mạng. Dựa hẳn vào dân, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng lãnh đạo nhân dân phát huy cao độ lòng yêu
nước, tạo nên sức mạnh mới để chống lại có hiệu quả cuộc chiến tranh xâm lược tàn
bạo của đế quốc Mỹ; đồng thời không ngừng chăm lo cho đời sống vật chất và tinh

thần cho nhân dân. Bồi dưỡng sức dân là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh và hệ thống chính trị của Đảng, Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, của tất cả các hợp tác xã và các ủy ban nhân dân các
cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln căn dặn đảng viên, cán bộ bất kỳ tình huống
nào cũng phải bám chắc lấy dân, dựa hẳn vào dân để hoàn thành nhiệm vụ cách
mạng trong phạm vi được phân công. Trong khi dựa vào dân phải làm cho dân mến,
dân tin, phải thực hiện phương châm “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ
trung thành” của nhân dân. Dựa vào dân là một trong những nội dung của đường lối
cách mạng và kháng chiến của Đảng ta trong chống Mỹ, cứu nước.
Hơn nữa, chúng ta luôn nêu cao đường lối chiến tranh nhân dân trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, mà nội dung của đường lối đó là: “Cả nước một lịng,
tồn dân đánh giặc, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, phát huy sức mạnh
chiến đấu của dân tộc, tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân để
đánh thắng quân đội của chủ nghĩa đế quốc”. Chiến tranh nhân dân của ta ngày nay
là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, kế thừa và phát
huy cao độ kinh nghiệm đánh giặc của tổ tiên và truyền thống “cả nước đánh giặc”,


“trăm họ cùng là binh”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Tiến hành chiến tranh
nhân dân toàn dân, toàn diện, phải nắm vững tư tưởng, chiến lược tiến công, kết hợp
chặt chẽ giữa tiến công quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận, đánh địch bằng hai
lực lượng, ba thứ quân trên cả ba vùng chiến lược. Chiến tranh nhân dân Việt Nam
phải phục tùng đường lối chính trị của Đảng là giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tiến hành chiến tranh nhân dân, trước
hết là cứu nước, cứu nhà, cứu mình, vì lợi ích của nhân dân, vì độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội và cũng vì nghĩa vụ đối với các dân tộc bị áp bức trên thế
giới. Phương châm chiến lược của chiến tranh nhân dân thời chống Mỹ là đánh lâu
dài, “dựa vào sức mình là chính, nhưng đồng thời chúng ta hết sức tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ và viện trợ quốc tế… Đi đôi với đấu tranh quân sự, chúng ta cần đẩy
mạnh đấu tranh chính trị và ngoại giao, góp phần củng cố sự đồn kết của phe xã hội

chủ nghĩa, luôn luôn giữ thế chủ động, nắm vững và nêu cao ngọn cờ độc lập và hịa
bình”
*Giai đoạn từ năm 1965 - 1975
- Bối cảnh lịch sử:
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản
của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ ào ạt đưa quân Mỹ và quân các
nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc "Chiến tranh cục bộ" với quy mô lớn;
đồng thời dùng không quân, hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với
miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã quyết định phát động cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc.
Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng thế giới đang
ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt các mục
tiêu về kinh tế, văn hoá. Sự chi viện sức người, sức của của miền Bắc cho cách mạng
miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và đường biển.
Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn trong những năm 1961 - 1962, từ năm
1963, cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có bước phát triển mới. Ba công cụ của
"Chiến tranh đặc biệt" (ngụy quân, ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị) đều bị quân
dân ta tấn công liên tục. Đến đầu năm 1965, chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của
đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã cơ bản bị phá sản.
Tuy nhiên, sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt và
khơng có lợi cho cách mạng Việt Nam. Việc đế quốc Mỹ mở cuộc "Chiến tranh cục


bộ", ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu vào trực tiếp xâm lược
miền Nam đã làm cho tương quan lực lượng trở nên bất lợi cho ta.
Tình hình đó đặt ra u cầu mới cho Đảng ta trong việc xác định quyết tâm và
đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
- Đường lối kháng chiến độc lập tự chủ của Đảng trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước trong giai đoạn từ năm 1965 – 1975

• Đảng ta đã chuyển hướng tư tưởng kịp thời, đưa ra các mục tiêu và
phương pháp phù hợp với hoàn cảnh của từng giai đoạn khác nhau, dần dần
tiến đến thắng lợi
Từ ngày 5-8-1964, sau khi dựng lên "Sự kiện vịnh Bắc Bộ" nhằm lấy cớ, đế quốc
Mỹ đã dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc nước ta. Cuộc chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ diễn ra rất ác liệt kể từ đầu tháng 2-1965, với ý đồ đưa
miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá; phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc; ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam; đè bẹp ý chí quyết tâm
chống Mỹ, cứu nước của cả dân tộc Việt Nam, buộc chúng ta phải kết thúc chiến
tranh theo điều kiện do Mỹ đặt ra.
Trước tình hình đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười một và lần thứ mười hai
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã đề ra nhiệm vụ đối với miền Bắc
là: Tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện
có chiến tranh, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để
bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người, sức của ở mức
cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực
chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng
"Chiến tranh cục bộ" ra cả nước.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã kịp thời xác định chủ trương chuyển hướng
và nhiệm vụ cụ thể của miền Bắc cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới trong hồn
cảnh cả nước có chiến tranh.
Một là, phải kịp thời chuyển hướng xây dựng kinh tế cho phù hợp với tình hình
có chiến tranh phá hoại, bảo đảm yêu cầu chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, tích cực
chi viện cho miền Nam, đồng thời vẫn phù hợp với phương hướng lâu dài của cơng
cuộc cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và chú ý đúng mức đến các yêu cầu về đời
sống của nhân dân. Nội dung chuyển hướng kinh tế bao gồm: đẩy mạnh việc phát


triển nông nghiệp, chú trọng phát triển công nghiệp địa phương và thủ cơng nghiệp,
xây dựng những xí nghiệp cơng nghiệp nhỏ và vừa, tích cực xây dựng và phát triển

kinh tế theo từng vùng chiến lược quan trọng, làm cho mỗi vùng có khả năng tự giải
quyết phần lớn nhu cầu ăn, mặc, ở, học tập, bảo vệ sức khỏe, bảo đảm đời sống nhân
dân, phục vụ sản xuất, xây dựng và chiến đấu. Điều chỉnh lại các chỉ tiêu xây dựng
cơ bản trong công nghiệp và danh mục các cơng trình đang hoặc dự định xây dựng
cho phù hợp với tình hình mới.
Hai là, phải tăng cường lực lượng quốc phịng cho kịp với sự phát triển tình hình
cả nước có chiến tranh; ra sức tăng cường cơng tác phòng thủ, đánh trả để bảo vệ
miền Bắc; đẩy mạnh cơng tác phịng khơng nhân dân, kiên quyết đánh bại kế hoạch
ném bom bắn phá, phong tỏa miền Bắc bằng không quân và hải quân của địch, tăng
cường công tác chống gián điệp, bảo vệ trật tự, trị an, cố gắng hạn chế tới mức thấp
nhất thiệt hại của ta do địch gây ra và gây thiệt hại cho địch tới mức cao nhất. Nắm
vững phương châm dựa vào sức mình là chính, đồng thời ra sức tranh thủ sự giúp
đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Ba là, ra sức chi viện cho miền Nam với mức cao nhất để đánh bại địch ở chiến
trường chính miền Nam.
Bốn là, phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức đi đôi với việc chuyển
hướng kinh tế và tăng cường quốc phịng cho phù hợp với tình hình mới.
• Giữ vững phương châm kết hợp ba mũi giáp công trên ba vùng chiến lược,
nâng đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị đóng vai trị
chính và đấu tranh ngoại giao
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ IX(tháng 11-1963) tiếp tục khẳng định đấu
tranh chính trị và đầu tranh vũ trang phải đi đôi, đẩy mạnh đánh địch bằng ba mũi
giáp cơng: qn sự, chính trị, binh vận. Đồng thời cũng khẳng định trong giai đoạn
này, đầu tranh quân sự có sự tác động trực tiếp và giữ vai trò ngày càng quan trọng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng trên các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, trên
cả chiến trường miền Nam và miền Bắc, đặc biệt phát huy sức mạnh tiến công của
bộ đội chủ lực làm phá sản chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Nichxơn. Ở
miền Bắc, quân và dân ta tổ chức bố trí trận địa phịng khơng đánh bại cuộc tập kích
đường khơng chiến lược của đế quốc Mĩ vào Hà Nội, Hải Phòng (từ 18 đến 30-121972). Thành công về nghệ thuật tổ chức phát hiện ý đồ, dự đoán đúng âm mưu đánh
phá của chiến lược khơng qn Mĩ, tổ chức và áp dụng hợp lí lực lượng phịng khơng



3 thứ quân, đánh các loại máy bay chiến lược, chiến thuật của địch cả ban đêm và
ban ngày.
Trong đấu tranh ngoại giao, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta quán triệt phải coi
trọng mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng giữa mặt trận ngoại giao với mặt trận quân
sự, mặt trận chính trị, kết hợp giữa “đánh và đàm”, đưa đến hiệu quả cao nhất. Người
đã chỉ rõ, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đấu tranh quân sự và đấu
tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường,
làm cơ sở thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành trên bàn hội
nghị cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường.
Câu 2: Vai trò của hậu phương miền Bắc đối với thắng lợi trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.
* Chủ trương của Đảng về xây dựng hậu phương miền Bắc
Đứng trước tình hình đất nước trong thời kì mới, Đảng đã chủ trương xây dựng
hậu phương miền Bắc trở thành hậu phương chiến lược, căn cứ địa cách mạng – chỗ
dựa vững chắc cho cách mạng miền Nam. Chính vì vậy ngay sau khi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp kết thúc, miền Bắc được giải phóng hồn tồn, Đảng
ln chú trọng việc xây dựng hậu phương miền Bắc trở thành căn cứ địa của cả nước.
Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 7 (3 – 12/3/1955) đã xác định phải củng cố
miền Bắc và đường lối đó được tái khẳng định một lần nữa tại Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ 8 (13 – 20/8/1955). Hội nghị nhấn mạnh: “Muốn thống nhất nước nhà,
điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc… đường lối củng cố miền Bắc là củng
cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc đến chủ
nghĩa xã hội, củng cố miền Bắc không thể tách rời chiếu cố miền Nam… miền Bắc
là chỗ đứng của ta, bất kể trong tình hình nào, miền Bắc cũng phải được củng cố”.
Tiếp đó, phát biểu trong Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc (tháng 9 1955), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ lực lượng đấu
tranh của nhân dân ta. Nền có vững, nhà mới chắc. Gốc có mạnh cây mới tốt”. Tại
Hội nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam (19/3/1958) và kì họp thứ
8 của Quốc hội khóa I (16/4/1958), chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiệm vụ

trước mắt của nhân dân ta là ra sức xây dựng và củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc
tiến dần lên CNXH, đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”.


Để củng cố miền Bắc trở thành nền tảng cho cuộc đấu tranh thống nhất nước
nhà, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III, năm 1960, đã chủ trương phải tiến
hành cách mạng XHCN ở miền Bắc; cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở miền
Bắc gắn bó chặt chẽ với cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và giữ
vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng của cả
nước, đối với cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Miền Bắc thực sự đã trở thành
căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt Nam trong cả nước, với một chế độ chính
trị ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh. Những thắng lợi trong
xây dựng CNXH ở miền Bắc là cơ sở vững chắc cho Đảng củng cố, giữ vững quyết
tâm chống Mỹ, cứu nước. Như vậy, ngay từ đầu, vai trị và vị trí của miền Bắc đã
được Đảng Lao động Việt Nam xác định rất rõ. Để làm tròn vai trị đó, trong kháng
chiến chống Mỹ, hậu phương miền Bắc cần được xây dựng theo một đường lối phù
hợp - đó là đường lối tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc; gắn chặt nhiệm vụ
xây dựng với nhiệm vụ bảo vệ vững chắc hậu phương; gắn chặt nhiệm vụ chiến lược
của hậu phương với nhiệm vụ chiến lược của tiền tuyến.
* Vai trò của hậu phương miền Bắc đối với thắng lợi trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước
1. Hậu phương miền Bắc khôi phục và cải tạo kinh tế, mở đường chi viện
cho Miền Nam trong giai đoạn 1954 – 1960
Từ khi hịa bình lập lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta ở miền Bắc đã
khắc phục mọi khó khăn gian khổ, hồn thành cải tạo ruộng đất, kết thúc thắng lợi
thời kỳ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và hăng hái thi đua ra sức
thực hiện kế hoạch nhà nước “3 năm”, “5 năm”, cải tạo kinh tế, phát triển kinh tế,
văn hóa,… Mục tiêu của miền Bắc là nâng cao thêm một bước đời sống vật chất và
văn hóa cho nhân dân và hơn hết làm nhiệm vụ hậu phương chi viện cho miền Nam,
cùng miền Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, từ đó làm cơ sở vững chắc

cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Miền Bắc khẩn trương tổ chức động
viên sức người, sức của nhằm chi viện nhanh chóng, kịp thời, liên tục đáp ứng yêu
cầu của chiến trường miền Nam trong các cuộc tiến công và nổi dậy.


Về xây dựng hệ thống chính trị, miền Bắc đạt nhiều thành tựu lớn, đảm bảo tốt
cho việc lãnh đạo và động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện tốt các kế
hoạch kinh tế - xã hội.
Về kinh tế - xã hội, trong quá trình chiến tranh, việc xây dựng, phát triển kinh tế
và cải thiện từng bước đời sống nhân dân được coi là vấn đề cốt lõi, nền tảng sức
mạnh của căn cứ địa hậu phương để kháng chiến lâu dài. Một nền tảng kinh tế phát
triển vững mạnh, cân đối là cơ sở và điều kiện cho sự vững mạnh về chính trị. Do
vậy, Đảng, Nhà nước đã đề ra và tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh tế, văn hóa, xã
hội ngắn hạn, nhằm biến đổi sâu rộng nền kinh tế miền Bắc
Về văn hóa, nền giáo dục ở miền Bắc đã phát triển nhanh chóng. Hệ thống giáo
dục đã được chấn chỉnh lại. Hai hệ thống giáo dục ở vùng tự do và tạm chiếm trước
đây được thống nhất thành hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm.
Về quân sự, năm 1960, ban hành Luật nghĩa vụ quân sự, đánh dấu bước phát
triển mới của sự nghiệp quốc phòng. Cuối 5/1959, theo con đường Trường Sơn, miền
Bắc đã đưa vào miền Nam 542 cán bộ, 1.667 súng bộ binh, 188 kg thuốc nổ, 788
dao găm và nhiều đồ dùng quân sự khác. Năm 1960, miền Bắc tiếp tục chi viện 51
tấn vũ khí đạn dược cho khu V.
Như vậy, ngay từ đầu Đảng và Nhà nước đã nhận thấy được tầm quan trọng, vai
trò quyết định của hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam. Đây là
một đường lối hoàn toàn đúng đắn của Đảng trong giai đoạn này. Về cơ bản miền
Bắc đã thực hiện vai trò bước đầu của một hậu phương lớn đó là tạo cơ sở vững
mạnh về mọi mặt và mở những tuyến đường mang tính chiến lược để chi viện cho
miền Nam chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.
2. Hậu phương miền Bắc xây dựng CNXH và tăng cường chi viện cho miền
Nam trong giai đoạn 1961 – 1965

Từ năm 1961 trở đi, miền Bắc bước vào một thời kỳ mới – thời kỳ lấy xây dựng
chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã
khẳng định: “Đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm cho miền Bắc vững mạnh
về mọi mặt thì chúng ta càng có lợi cho cách mạng giải phóng miền Nam”. Nếu như
ở giai đoạn đầu sau kháng chiến chống Pháp, hậu phương miền Bắc chủ yếu khôi


phục và cải tạo kinh tế, mở đường chi viện cho miền Nam thì ở giai đoạn này, miền
Bắc đã đạt nhiều thành tựu trong xây dựng XHCN, công tác chi viện cho miền Nam
đã được tiến hành và ngày càng tăng.
Dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù, miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất, tiếp tục
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khói lửa chiến tranh; duy trì, phát triển tiềm lực về
mọi mặt, tiếp tục tăng cường lực lượng ngày càng lớn cho tiền tuyến lớn, đồng thời
về cơ bản vẫn giữ vững đời sống nhân dân hậu phương ổn định, đảm bảo càng đánh
càng mạnh.
3. Hậu phương miền Bắc tiếp tục xây dựng và bảo vệ CNXH, cùng tiền tuyến
lớn miền Nam đánh Mỹ trong giai đoạn 1965 – 1968
Từ năm 1965 đến khi giải phóng hồn tồn miền Nam, miền Bắc phải đương đầu
và đánh thắng hai lần chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc
Mỹ. Mục tiêu phá hoại của đế quốc Mỹ là tập trung đánh phá giao thơng vận tải,
dùng mọi loại vũ khí hiện đại, bằng mọi biện pháp kỹ thuật thâm độc, nhằm cắt đứt
tuyến vận tải chi viện miền Nam, phong tỏa các bến cảng tiếp nhận vận chuyển chi
viện của quốc tế…, cả nước bước vào chiến tranh.
Vì vậy, trong giai đoạn này, hậu phương miền Bắc một mặt là chỗ dựa vững chắc
cho miền Nam, mặt khác miền Bắc cũng không ngừng đấu tranh để bảo vệ những
thành quả đã đạt được từ sau giải phóng.
Để phù hợp với tình hình mới, Đảng, Nhà nước quyết định chuyển hướng kinh
tế và mọi mặt của đời sống miền Bắc sang thời chiến, tiếp tục xây dựng miền Bắc
theo hướng XHCN, kết hợp chặt chẽ hơn nữa xây dựng kinh tế với tăng cường quốc
phòng. Trong điều kiện chiến tranh, miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa dốc

sức người, sức của chi viện chiến trường miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế với hai
nước bạn Lào và Campuchia. Mọi hoạt động của miền Bắc đã chuyển hướng chiến
lược với tinh thần “tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Từ năm 1965 đến năm 1975, miền Bắc đã động viên 2 triệu thanh niên tham gia
lực lượng vũ trang. Nhu cầu về nhân lực của nhiều ngành trực tiếp phục vụ chiến
tranh cũng tăng lên rất lớn. Riêng ngành Giao thông vận tải, vào năm địch đánh phá
ác liệt nhất (năm 1968) đã có trong biên chế chính thức 120.000 người, chưa kể hàng


chục vạn thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước được huy động trên các tuyến
đường. Chúng ta còn động viên tới 267 triệu ngày công theo chế độ dân công thời
chiến để đảm bảo giao thông hoặc phục vụ các yêu cầu khác của quân đội (làm trận
địa, sửa chữa sân bay, vận chuyển hàng bằng phương tiện thô sơ...). Tính đến năm
1972, tổng số lao động do Nhà nước động viên đã lên tới 2,5 triệu người, chiếm 11%
dân số miền Bắc. Trong các năm 1968, 1972, 1975 là những năm diễn ra tiến công
chiến lược lớn làm chuyển biến cục diện kháng chiến hoặc kết thúc chiến tranh, số
nhân lực động viên thường vượt quá số lao động xã hội tăng lên trong năm.
Ngày cũng như đêm, trên tuyến đường Hồ Chí Minh, trên mọi nẻo đường từ hậu
phương đến tiền tuyến, hàng chục vạn nhân dân và bộ đội sát cánh đánh địch, mở
đường và vận chuyển với tinh thần anh dũng, bền bỉ, thông minh và sáng tạo vô
song; đảm bảo cho chiến trường đủ súng, đủ đạn, đủ quân, ăn no đánh thắng.
Nhân lực động viên đến cuối năm 1972 cần tới trên 2 triệu người, chiếm khoảng
30% lao động xã hội miền Bắc, trong đó 70% là nam giới. Hai năm 1973-1974, miền
Bắc tiếp tục động viên 25 vạn thanh niên vào lực lượng vũ trang, bổ sung cho chiến
trường 15 vạn quân; chuyển hàng vạn thương binh, bệnh binh từ các chiến trường
về điều trị và giải quyết nhanh chính sách. Đến cuối năm 1974, trên 33 vạn tấn vật
chất các loại đã được giao cho các chiến trường. Chỉ trong 4 tháng (từ tháng 1 đến
tháng 4-1975), miền Bắc đã bổ sung vào chiến trường trên 110.000 cán bộ, chiến sĩ;
230.000 tấn vật chất các loại. Đảng và Chính phủ cử hàng vạn cán bộ dân chính đảng
đến các vùng mới giải phóng để tăng cường cho Đảng bộ và chính quyền cách mạng.

Trong 16 năm (từ 1959 đến 1975), tuyến giao thông vận tải quân sự chiến lược
Trường Sơn đã vận chuyển hàng triệu tấn, giao cho các chiến trường miền Nam, Lào
và Campuchia , bảo đảm hành quân cơ động, tiêu thụ trên tuyến. Có thể khẳng định,
tuyến vận tải quân sự Trường Sơn là một trong thông thành công kiệt xuất của Đảng
ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bộ đội Trường Sơn mang theo sức
mạnh của hậu phương lớn miền Bắc XHCN cả về sức người, sức của để “xẻ dọc
Trường Sơn”, “mở đường mà đi, đánh địch mà tiến”.
Như vậy ta có thể thấy, sự chi viện to lớn của miền Bắc là một trong những nhân
tố có tính quyết định thắng lợi của quân dân ta đánh thắng chiến lược “Chiến tranh


cục bộ” của Mỹ ở miền Nam, là chỗ dựa tinh thần vững chắc để nhân dân miền Nam
yên tâm chiến đấu giành độc lập, thống nhất Tổ quốc.
=> Kết luận
Những thành tựu mà nhân dân miền Bắc đạt được cũng như sự chi viện của miền
Bắc cho miền Nam đã nói lên những đóng góp của hậu phương lớn miền Bắc XHCN
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Với những nỗ lực của nhân dân miền Bắc và sự uyển chuyển trong đường lối
lãnh đạo của Đảng ở cả 2 miền trong từng giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ
đã tạo nên những thành quả đáng ghi nhận. Tiềm lực mọi mặt của miền Bắc ngày
càng được tăng cường, tạo cơ sở vững chắc để chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Trong những năm kháng chiến gian khổ ấy, miền Bắc vừa là căn cứ địa cách mạng,
hậu phương lớn của cả nước, vừa là hậu phương lớn của cách mạng miền Nam, vừa
là tiền tuyến trực tiếp chiến đấu ác liệt với máy bay và tàu chiến. Ngồi vai trị nguồn
cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến, căn cứ hậu phương miền Bắc còn là chỗ
dựa tinh thần, còn là nơi tạo ra thế và lực để phát huy sức mạnh tổng hợp giành chiến
thắng. Dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù, miền Bắc vẫn tiếp tục xây dựng CNXH.




×