Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Đại hội dân tộc phi và cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa apacthai của tổ chức này ở nam phi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.12 KB, 74 trang )

1

MỤC LỤC

Trang
Tên các đề mục:
Phần A: Dẫn luận.
I. Lý do chọn đề tài.

2

II. Lịch sử nghiên cứu đề tài.

3

III. Phương pháp nghiên cứu.

4

IV. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu

4

V. Bố cục của đề tài.

4

VI. Bảng viết tắt.

7
Phần B: Nội dung.



Chương 1: Sự ra đời của Đại hội dân tộc Phi (ANC) và thời kì đầu trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa Apacthai của tổ chức này.
6
1.1. Hoàn cảnh ra đời.

6

1.2. Đại hội dân tộc Phi và thời kì đấu tranh dưới hình thức bất bạo động.

16

Chương 2: Bước chuyển biến mới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
Apácthai của Đại hội dân tộc Phi (ANC).

33

2.1. Chủ nghĩa Apacthai được tăng cường.

33

2.2. Sự kết hợp đấu tranh chính trị và khởi nghĩa vũ trang của Đại hội
dân tộc Phi.

35

2.3. Bước ngoặt lịch sử ở Nam Phi.

58


Phần C: Kết luận.


2
Tài liệu tham khảo.

65


3

PHẦN A- DẪN LUẬN
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Đã từ lâu nay, chúng ta thường nói đến chủ nghĩa phân biệt chủng tộc như
một tội ác của nhân loại. Không chỉ Liên Hợp Quốc mà toàn thể nhân loại tiến
bộ đều lên án một cách sâu sắc chủ nghĩa Apacthai. Những chính sách, đạo luật
của chủ nghĩa này gây ra sự chia rẽ, xung đột giữa các tộc người, cản trở đến sự
phát triển chung của nhân loại. Những chính sách, đạo luật của chủ nghĩa này
gây ra sự chia rẽ, xung đột giữa các tộc người, cản trở đến sự phát triển chung
của nhân loại. Trên cơ sở những chính sách và nội dung của chủ nghĩa Apacthai,
có thể khẳng định nó là “di sản”, là con đẻ của chủ nghĩa thực dân cũ. Sự tồn tại
của chủ nghĩa Apacthai là cơ sở, chỗ dựa cho chủ nghĩa thực dân mà các nước đế
quốc đã và đang theo đuổi. Chính vì vậy khi xu hướng tồn cầu đang vươn tới
một thế giới hồ bình, đồn kết, dân chủ thì việc đánh đổ chủ nghĩa thực dân nói
chung và chủ nghĩa Apacthai nói riêng đều cùng chung một mục đích.
Khi nói đến cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trên thế
giới, khơng ít ai khơng nhắc tới nhân dân Nam Phi với cuộc đấu tranh bền bỉ
kiên cường chống lại chủ nghĩa Apacthai, càng không thể quên được Đại hội dân
tộc Phi ( ANC) một tổ chức chính trị đã lãnh đạo nhân dân Nam Phi đồn kết

mọi tầng lớp xã hội đấu tranh chống lại chính quyền da trắng. Nhân loại tiến bộ
trên thế giới luôn ủng hộ và giúp đỡ ANC vượt qua những thách thức lớn để đạt
được những mục tiêu đề ra, là xây dựng một nhà nước Nam Phi dân chủ thủ tiêu
hồn tồn chủ nghĩa Apacthai mà chính quyền da trắng đang thi hành ở Nam
Phi.
Với thắng lợi trong cuộc bầu cử đa chủng tộc đầu tiên ở Nam Phi năm
1994, Đại hội dân tộc Phi đã lên nắm quyền lãnh đạo Nam Phi, xây dựng một


4
nhà nước Nam Phi dân chủ. Cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Nam Phi
dưới sự lãnh đạo của ANC đã giành thắng lợi. Với thắng lợi của nhân dân Nam
Phi, chủ nghĩa Apacthai về cơ bản trên thế giới nói chung ở Nam Phi nói riêng
đã bị thủ tiêu. Thắng lợi này là tiếng chuông cảnh tỉnh cho những Đảng phái da
trắng đang nắm quyền lãnh đạo đất nước trên thế giơí, đặc biệt là ở Châu lục
đen.
Tìm hiểu về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Apacthai của Đại hội dân tộc
Phi ( ANC). Không chỉ phục vụ một phần quan trọng trong q trình học tập, mà
cịn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn cho chúng ta.
Xuất phát từ lí do trên tơi quyết định chọn đề tài nghiên cứu tiểu luận tốt
nghiệp của mình là: “Đại hội dân tộc Phi và cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
Apacthai của tổ chức này ở Nam Phi”.
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.

Nghiên cứu trực tiếp về Nam Phi cũng như về Đại hội dân tộc Phi, có một
số tài liệu bằng tiếng Anh và tiếng Trung. Song phần dịch ra tiếng Việt chưa có
một tài liệu chuyên khảo nào. Một số tài liệu viết về vấn đề này chỉ mang tính
chất giới thiệu qua. Vì vậy việc sử dụng tài liệu tham khảo rất bị hạn chế.
Ở Việt Nam, có một số nhà nghiên cứu cũng mới bắt đầu tìm hiều về Nam
Phi và đại hội dân tộc Phi, song cịn rất ít. Có thể tìm thấy ở một số tài liệu sau:

- Hoà hợp dân tộc nhân tố đảm bảo sự ổn định và phát triển ở Châu Phi:
Nguyễn Văn Du (1998) - Luận án tiến sĩ. Hà Nội.
- Châu Phi, lục địa đen đang dần sáng: (3/1998)Tạp chí cộng sản số 5.
- Châu Phi vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội: Ngô Phương Bá, Võ Kim
Cương (1986), NXBKHXH.
Ngồi ra cịn nhiều bài báo, bài viết đăng trên các báo, các tạp chí như:
báo Nhân dân, Tạp chí Thơng tin tư tưởng, Tạp chí cộng sản …


5
Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có một tài liệu nào nghiên cứu cụ thể về Nam
Phi nói chung và tổ chức Đại hội dân tộc Phi nói riêng trong cuộc chống chủ
nghĩa Apacthai. Hy vọng rằng bài nghiên cứu này sẽ bổ sung vào việc nghiên
cứu về Đại hội dân tộc Phi và cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Apacthai ở Nam
Phi.
Đây chỉ mới là một bài tiểu luận khoa học lịch sử, nên nó khác với các bài
viết trên các sách, Tạp chí nêu trên. Cùng với một nguồn tài liệu ít ỏi và kinh
nghiệm của một sinh viên năm thứ tư cịn hạn chế. Vì vậy, trong q trình
nghiên cứu khơng tránh khỏi sai sót. Mặc dầu vậy, tơi vẫn cố gắng để hồn thành
tốt nhất bài nghiên cứu của mình, rất mong sự góp ý của thầy cô và bạn bè.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

Đây là một đề tài khoa học xã hội, vì vậy phương pháp tốt nhất là sưu tầm
tài liệu, trích dẫn, thống kê. Từ đó đưa ra những nhận xét so sánh và phân tích
một cách cụ thể.
IV. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI.

Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Apacthai của Đại hội dân tộc Phi nói
riêng và của nhân dân Nam Phi nói chung, mặc dù về cơ bản đã giành thắng lợi,
song với sự tồn tại lâu đời của tệ phân biệt chủng tộc này ở Nam Phi cũng như

những biến chứng của nó rất khó có thể xố sạch ngay được. Cho tới nay chính
phủ Nam Phi (mới) vẫn tiếp tục xố bỏ những tàn tích của nó.
Vì vậy, bài nghiên cứu này chỉ giới hạn từ khi Đại hội dân tộc Phi ra đời
(1912) đến khi bản Hiến pháp mới được Quốc hội Nam Phi thông qua (1996).
V. BỐ CỤC ĐỀ TÀI.

Tiểu luận này, ngoài phần Dẫn luận, Kết luận, cịn có hai chương sau:


6
Chƣơng 1: Sự ra đời của Đại hội dân tộc Phi (ANC) và thời kì đầu trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa Apacthai của tổ chức này.
Chƣơng 2: Bước chuyển biến mới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
Apacthai của Đại hội dân tộc Phi (ANC).
Tiểu luận này được hoàn thành nhờ sự giúp đỡ, hướng dẫn của PGS-TS.
Nguyễn Công Khanh. Em chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy.
VI. BẢNG VIẾT TẮT.

- ANC: Đại hội dân tộc Phi.
- MK: Tổ chức vũ trang “Ngọn lao dân tộc”.


7

PHẦN B - NỘI DUNG
CHƢƠNG 1:
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠI HỘI DÂN TỘC PHI (ANC)VÀ THỜI KÌ ĐẦU
TRONG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA APACTHAI CỦA
TỔ CHỨC NÀY.
1.1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI:


Cho đến cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI, trong khi khu vực Bắc Phi với
“Sự trỗi dậy của Hồi giáo” ở hầu hết các quốc gia. Kết quả là sự lệ thuộc ngày
càng lớn của các nước này vào Xun-Tan Thổ Nhĩ Kì, để rồi trở thành miếng mồi
béo bở và mục tiêu cho các đoàn thuyền thực dân phương Tây vượt qua Địa
Trung Hải khi đế quốc Ốttơman (Thổ Nhĩ Kì) suy yếu. Khu vực châu Phi đen
(nam Xahara) hầu hết cư dân ở đây vẫn cịn sống cách biệt với thế giới bên
ngồi. Sự giao lưu duy nhất của cư dân ở đây với thế giới bên ngồi là thơng qua
những đồn lạc đà xun qua sa mạc Xahara của người da trắng Ảrập và người
Bec-Be ở Bắc Phi. Tuy nhiên sang thế kỷ XV những đồn bn bằng lạc đà này
ngày càng thưa và giảm sút bởi sự suy yếu của thế giới Ảrập nói chung, nhất là ở
Bắc Phi.
Thay thế những con đường bn nóng bỏng và khó khăn trên sa mạc là
những con đường biển thơng thương mới được mở ra. Đó là lúc tư sản châu Âu
trẻ trung đang sức dài vai rộng cùng với lòng tham nguồn hương liệu rẻ của bọn
lái buôn, thèm khát vàng bạc của bọn phong kiến, máu giang hồ kiếm ăn của bọn
kị sĩ. Chúng đã quện lại với nhau thôi thúc người châu Âu đi tìm những con
đường bn mới, những vùng đất mới.
Những cuộc phát kiến địa lý được tiến hành, đầu tiên là của người Tây
Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tháng 8/1486, nhà thám hiểm Bồ Đào Nha B.L.DaiDơ
đã tiến hành một cuộc thám hiểm xuống vùng biển cực Nam châu Phi. Một trận


8
bão lớn đã thổi bật đồn thuyền của ơng ra xa xuống phía Nam và bất ngờ đi tới
mũi cực Nam Châu Phi - Mũi Hảo Vọng mà lúc đầu ông đặt tên là mũi Bảo Táp.
Tiếp theo B.L.Daixơ là cuộc thám hiểm của V.Gama; của nhà thám hiểm người
Tây Ban Nha C.Colômbô. Phần cực nam của châu Phi trở thành nơi dừng chân
lý tưởng của các đoàn thám hiểm khi đi vào lục địa Ấn Độ hay đi vòng quanh thế
giới.

Cùng với điểm dừng chân lý tưởng đó, các nhà thám hiểm người Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan đã phát hiện ra khu vực Nam Phi là một nơi lý tưởng
cả về nguồn hương liệu, châu báu và khoáng sản quý hiếm. Đi theo các con
đường biển mới tìm ra, các đồn thuyền bn của thực dân phương Tây cũng bắt
đầu hạ neo ở đây.
Một sự thay thế mang tính chất “Cách mạng” từ con đường đến phương
tiện và tính chất, đã mở đầu cho một thời kỳ dài đầy đau khổ cực nhục của người
dân châu Phi nói chung và người dân Nam Phi nói riêng bởi sự xâm lược, thống
trị của thực dân phương tây. Cũng như những di hài của nó để lại đặc biệt là chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc giữa người da trắng và người da đen trên hầu hết các
quốc gia châu Phi.
Ở thế kỷ XV, khi mới phát hiện ra châu lục này do còn bỡ ngỡ và lạ lùng
nên các đồn thuyền bn phương Tây mới chỉ lảng vảng dọc các bờ biển phía
tây, nam để tìm hương liệu và vàng, đá quý. Nhưng từ thế kỷ thứ XVI, nghề
bn chính của các đồn thuyền này là nơ lệ da đen. Những nhà lái buôn của Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha đã chuyển từ hình thức lảng vảng tìm hương liệu sang
dùng tiền bạc và súng ống để buôn nô lệ da đen. Bọn thực dân phương Tây
không chỉ cướp bóc, khai thác các nguồn tài nguyên của châu lục này mà còn cả
bản thân con người chúng cũng chà đạp lên tất cả để kiếm tiền kể cả biệc biến
người dân ở đây thành nô lệ, thành hàng hoá trao đổi.


9
C. Mác trong bộ Tư Bản tập III đã nhận xét một cách cay nghiến rằng:
“Việc tìm thấy những vùng có mỏ vàng và mỏ bạc ở châu Mỹ, việc tuyệt diệt
người bản xứ bắt họ làm nô lệ và chôn vùi họ trong các hầm mỏ, việc bắt đầu đi
chinh phục và cướp bóc miền Đơng ấn biến châu Phi thành khu vực cấm để săn
bắt buôn bán người da đen. Đó là buổi bình minh của thời đại sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Những quá trình thơ mộng ấy là những yếu tố chủ yếu của sự tích luỹ
ban đầu.

“Mật ngọt ruồi bâu”, từ những món lợi kếch xù của các lái buôn người Bồ
và Người Tây Ban Nha. Cuối thế kỷ XVI người Anh, Pháp, Hà Lan cũng đua
nhau làm nghề buôn bán bỉ ổi này. Chúng đưa những món hàng tạp phẩm ở
Châu Âu sang để đổi lấy nguồn hàng mới có giá trị trao đổi cao hơn đó là nơ lệ
da đen. Người da đen bị bắt ở châu Phi được các “nhà buôn tốt bụng” quẳng lên
tàu bị xích lại như những con vật chở sang châu Mỹ đổi lấy tiền cho các ông chủ
bên ấy. Dọc bờ biển của châu Phi mọc lên những điểm tụ tập để chờ bốc lên tàu
sang châu Mỹ. Mặc dù là kẻ đến sau song thực dân Anh lại là kẻ vỗ ngực ngẩng
đầu cao hơn các chiến hữu khác vì đội thương thuyền của Anh sử dụng trong
nghề buôn này nhiều nhất. Cả nhân loại tiến bộ nói chung và châu Phi nói riêng,
giật mình khi hơn 60 triệu người da đen ở châu Phi bị bắt làm nơ lệ sang châu
Mỹ, trong số đó chỉ có 20 triệu người là cập bến cịn lại là phần lớn là chết hoặc
bỏ trốn dọc đường.
Việc buôn bán nô lệ để lại hậu quả hết sức nặng nề cho châu Phi nói
chung. Trong ba thập kỷ diễn ra việc buôn người này, châu Phi đã trực tiếp mất
đi khoảng 150 triệu người, đó là một tổn thất khơng thể nào hàn gắn được. Nhìn
chung tồn bộ châu Phi đã bị kiệt quệ hẳn sau những thế kỷ đầy tủi nhục. Đặc
biệt là ở khu vực nam Xahara khi mà xã hội đang ở vào thời kỳ phát triển thấp
của lịch sử. Sự tiếp xúc với nền văn hoá Ả Rập có mang lại ít nhiều yếu tố tích


10
cực cho xã hội ở khu vực này. Nhưng sự nảy nở vừa mới chớm thì ba thập kỷ
bn bán nô lệ của bọn thực dân phương Tây đã vùi dập tất cả mọi mầm sống.
Để biện hộ cho những hành động bỉ ổi này của bọn lái buôn phương Tây, giáo
hội Công giáo cũng như giáo hội Tin Lành đều khơng lên tiếng phản đối mà
ngược lại cịn lợi dụng kinh thánh dựa vào màu da đen để thuyết minh: đó là
định mệnh dành cho người da đen. Theo như những lời biện hộ và thuyết minh
của giáo hội Thiên Chúa, thì hậu quả nặng nề mà châu Phi phải gánh chụi kể từ
khi bọn thực dân phương Tây đặt chân lên nơi này không phải là bằng chứng cho

sự dã man, bỉ ổi có phần thú tính của thực dân phương Tây. Đồng thời việc
những người châu Phi kể từ khi sinh ra với màu da đen đã mang cho mình “một
định mệnh cay nhục”. Định mệnh đó đến khi nào chỉ là vấn đề thời gian. Thế kỷ
thứ XVI là mốc đánh dấu cho sự kết thúc thời gian tốt đẹp, tự do săn bắt kiếm ăn
trên mảnh đất của mình để rồi người châu Phi phải đảm nhận “định mệnh nô lệ
của mầu da”. Quả là một sự biện hộ, một “thuyết minh” sặc mùi thực dân giáo
lý.
Bước sang đầu thế kỷ XIX, với sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh ở châu Âu, mà đặc biệt ở Anh ,Pháp ,Hà Lan , Bắc Mỹ... tư bản
thương mại dần dần mất đặc quyền và ngày càng lệ thuộc vào tư bản công
nghiệp. Thương nghiệp lúc này chủ động vai trị mơi giới cho công nghiệp. Chế
độ buôn bán nô lệ trở thành một vật cản cho sự phát triển của tư bản cơng nghiệp
nói chung và Bắc Mỹ nói riêng. Thế là những nhà công nghiệp Anh, Mỹ tức là
những kẻ đang đẩy giai cấp cơng nhân ở đây vào tình trạng khốn khổ vô tận, bắt
đầu tố cáo sự dã man của chế độ bắt và buôn bán nô lệ ở châu Phi. Những hành
động này xem ra nó như là xuất phát từ lịng bác ái, nhân văn hay vì “ý thức văn
minh” của các nước tư bản tiên tiến. Nhưng thực chất cách mạng cơng nghiệp
địi hỏi cơng nhân vô sản tự do làm thuê tập trung trong các xí nghiệp, chứ


11
không phải nhân công nô lệ ở các đồn điền hầm mỏ. Kết quả của “ý thức văn
minh” đó là những đạo luật, những sắc lệnh vào các năm 1807, 1815, 1817,
1833, 1848 của chính phủ Anh, Pháp, Hà Lan chế độ buôn bán nô lệ dã man về
danh nghĩa đã bị huỷ bỏ, nghiêm cấm. Việc lên án rồi đi đến nghiêm cấm và huỷ
bỏ tình trạng bắt và bn bán nơ lệ ở châu Phi của chính quyền tư sản Anh,
Pháp, Hà Lan. Phải chăng đây là dấu hiệu của một thời kỳ mới, đầy triển vọng
tươi sáng mà thực dân phương Tây sẽ giành cho châu Phi sau một thời kỳ đau
thương và tủi nhục. Thực tế lịch sử đã đi ngược lại điều đó. Thậm chí sau thời kỳ
đen tối khu vực Phi da đen nói riêng và châu Phi nói chung phải chịu ách thống

trị trực tiếp hoặc gián tiếp của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Một thời kỳ đau
khổ mới cho người dân châu Phi nhất là người Phi da đen.
Đi cùng với việc phát hiện ra cực Nam châu Phi, và những cuộc trao đổi
buôn bán nô lệ người Phi. Thực dân phương Tây đã tiến hành những cuộc thám
hiểm vào sâu trong lục địa của châu lục này. Những khu vực thương điếm mọc
lên ở khu vực dọc bờ biển châu Phi, bây giờ không chỉ làm nhiệm vụ tập trung
nô lệ bị bắt chờ những chuyến tàu đến để trao đổi rồi “bốc” họ đi sang bán cho
những mỏ, đồn điền ở châu Mỹ. Đây còn trở thành các căn cứ đóng quân của
bọn thực dân để tiến hành những cuộc hành quân đổ bộ vào sâu trong lục địa
châu Phi nhằm khám phá thị trường nội địa ở đây.
Trong khi ở khu vực Bắc Phi (Bắc Xahara) hầu hết các quốc gia ở đây đã
được hình thành và bước đầu đã có sự phát triển nhất định do sự giao lưu và tiếp
xúc với thế giới Ả Rập mà đặc biệt là đế quốc Ốttô man (Thổ) cũng như khu vực
niền nam châu Âu. Thì ở Nam Phi vẫn nằm trong tình trạng lạc hậu và phát triển
khơng đồng đều. Bên cạnh một số quốc gia đã ra đời, thì phần lớn cư dân ở khu
vực này cho đến thế kỷ XV - XVI chưa có quốc gia, lãnh thổ nhất định. Họ vẫn
còn sống trong những liên minh bộ lạc, liên minh thị tộc và thường diễn ra


12
những cuộc chiến tranh giữa các liên minh với nhau để tranh giành lãnh thổ và
địa vị mà đặc biệt là khu vực cực Nam châu Phi.
Mặc dầu người Bồ Đào Nha tìm ra và đặt chân lên cực Nam châu Phi với
cuộc thám hiểm của nhà hàng hải Báctơlơnidialơ vào năm 1486. Song Hà Lan lại
là người đầu tiên biến vùng đất đầy nguyên sơ này thành thuộc địa của mình,
cũng như đưa cư dân da trắng của mình sang đây sinh sống và khai phá.
Ngày 6/ 4/ 1652, tên thực dân Riebeeks - người Ba ren thuộc Hà Lan, đã
dẫn đầu một đội quân xâm lược tiến hành đổ bộ vào Nam Phi. Lợi dụng sự lạc
hậu cũng như các cuộc chiến tranh giữa những bộ lạc, thị tộc ở đây cộng với ưu
thế về tính giang hồ kiếm ăn cùng vũ khí trang bị đầy đủ hơn. Người Hà Lan đã

xua đuổi hoặc thuần phục cư dân da đen bản địa và lập ra xứ thuộc địa đầu tiên
của mình ở khu vực này, đó là xứ “Thuộc địa Kếp”.
Nhận thấy nơi đây có nguồn tài nguyên phong phú đặc biệt là các loại đá
quý cũng như điều kiện sinh sống màu mỡ. Bọn thực dân Hà Lan đã đưa cư dân
của mình sang đây cướp đất hoặc khai hoang, lập đồn điền phát triển kinh tế và
dần dần họ định cư lại đây, biến vùng đất “ăn cướp” này thành đất đai lãnh thổ
và chủ quyền của mình. Những người di thực Hà Lan đã lập ra chính quyền của
mình ở đây và cai trị vùng đất này. Ngoài thuộc địa Kếp ra người di thực Hà Lan
cịn thành lập ra hai nước cộng hồ khác là Orăng và Tơranxơvan do người Hà
Lan thống trị. Những người Hà Lan di thực định cư ở đây còn gọi là người Bơơ.
Theo chân những đồn thuyền bn người Anh, Bồ Đào Nha, Bỉ, Tây Ban Nha
cũng sang đây và định cư lại vùng đất này. Mang theo trong mình những dịng
máu kiếm ăn khác nhau, do đó ở những nước cộng hoà này nảy sinh mâu thuẫn
giữa người Hà Lan và cư dân của các nước khác đến đặc biệt là người Anh. Họ
cũng địi có quyền lợi của mình ở khu vực này như người Hà Lan.


13
Cuối thế kỷ XIX, ở châu Âu với thắng lợi của các cuộc cách mạng công
nghiệp đã thúc đẩy nhanh sự phát triển quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa, nước
Anh trở thành cơng xưởng của châu Âu nói riêng và thế giới tư bản nói chung.
Sự lớn mạnh đó của cơng nghiệp Anh địi hỏi nhu cầu ngày càng lớn về thị
trường nhiên liệu và nhân công. Thuộc địa trở thành cái “hầu bao” để đáp ứng
những đòi hỏi trên.
Cũng như Ấn Độ và nhiều nơi khác trên thế giới, mặc dù luôn là kẻ đến
sau, nhưng thực dân Anh với bản lĩnh của một tên đã từng vỗ ngực tự hào trước
các chiến hữu thực dân của mình trong những cuộc mua bán, trao đổi nơ lệ da
đen ở châu Phi. Cùng với ưu thế về vũ khí và lực lượng, thực dân Anh đã lần
lượt hạ nốc ao những đối thủ cạnh tranh với mình trên võ đài thực dân sặc mùi
chết chóc. Ở khu vực Nam Phi, sau khi đã chiếm được xứ thuộc địa Kếp của

người Hà Lan vào đầu thế kỷ XIX và chiếm thêm lãnh thổ Nam Tan năm 1843.
Thực dân Anh muốn biến khu vực giàu khoáng sản và hương liệu này thành
thuộc địa riêng của mình. Mục tiêu của thực dân Anh là hai nước cộng hồ của
người Bơơ đó là Orăng và Tơvanxvan. Lấy cớ bảo vệ quyền lợi của những công
dân Anh đến định cư ở hai nước này trước chính quyền của người Hà Lan. Thực
dân Anh đã tiến hành cuộc chiến tranh với người Bôơ, mà lịch sử gọi là cuộc
chiến tranh đế quốc đầu tiên giữa thực dân Anh đi xâm lược và người Bô ơ bảo
vệ thuộc địa của mình ở Nam Phi.
Cuộc chiến tranh này nổ ra vào cuối năm 1899 với ưu thế hơn hẳn về
nhiều mặt cũng như kinh nghiệm của kẻ “cướp sau”.
Ngày 25/5/1900, thực dân Anh đã chiếm được nước Cộng Hồ Orăng và
tiếp đó ngày 1/9/1900 chiếm ln cả nước cộng hồ cịn lại của người Bơơ là
Tơranxơvan. Với thắng lợi đó, Anh đã biến những người đứng đầu hai nước


14
cộng hoà này phải ký hiệp định Virinirig (1902) kết thúc cuộc chiến tranh. Theo
hiệp định thì hai nước cộng hoà này sẽ trở thành thuộc địa của thực dân Anh.
Ngày 1/7/1907 , do kết quả đấu tranh mạnh mẽ đòi độc lập, nhà nước
Orăng nhận được quyền tự trị hạn chế. Sự đấu tranh của những người Bôơ và
những người da trắng di thực đến từ nhiều nước kể cả người Anh. Do đó tháng
5/1910, hai nước Orăng vàTơ ran xơ van cùng với xứ thuộc địa Kếp và Namtan
đã ký kết với chính quyền thực dân Anh, thoả thuận thành lập Liên bang Nam
Phi với tư cách là một xứ tự trị nằm trong khối liên hiệp Anh. Chế độ chính trị ở
đây sẽ theo nền quân chủ lập hiến, mà đứng đầu là nữ hoàng Anh ở chính quốc.
Như vậy khác với hầu hết các nước châu Phi, đều bị chính quyền thực dân
phương Tây trực tiếp cai trị. Còn ở liên bang Nam Phi sớm giành được quyền tự
trị trong khối liên hiệp Anh. Tính chất cai trị ở đây mang tính gián tiếp, vì vậy ít
hay nhiều sẽ hạn chế hơn những tàn bạo và khắc nghiệt của sự cai trị thực dân
đối với thuộc địa. Nói như vậy khơng có nghĩa là nhân dân châu Phi da đen ở

liên bang Nam Phi sẽ có cuộc sống ấm no, đầy đủ và tự do hơn so với các nước
thuộc địa khác. Ngược lại, sự “nương tay” đó của chính quyền Anh như báo
trước cho những người da đen ở đây một dấu hiệu tồi tệ hơn. Thực tế lịch sử
Nam Phi đã chứng minh điều này: người da đen, da màu ở Nam Phi đã bị đối xử
thậm tệ chẳng khác nào là thân phận “nơ lệ ngay trên quốc gia của mình” [12;
22]. Chính quyền người da trắng ở đây đã thi hành chính sách phân biệt chủng
tộc một cách cực đoan và thâm độc, một thứ chủ nghĩa phản động và đáng
nguyền rủa của nhân loại chủ nghĩa Apacthai.
V.I. Lê Nin trong khi phân tích nguyên nhân thúc đẩy các nhà chiến lược
tư bản chủ nghĩa quan tâm đến chính trị và hệ tư tưởng chủng tộc chủ nghĩa, đã
chỉ ra một xu hướng lịch sử là: “ Xu hướng của giai cấp tư sản và bọn cơ hội chủ
nghĩa muốn kiếm một số ít dân tộc rất giàu có, và có đặc quyền thành những ký


15
sinh trùng sống vĩnh viễn trên lưng bộ phận khác của lồi người. Muốn tận
hưởng việc bóc lột người đa đen, người Ấn Độ ... bằng cách dùng nhiều chế độ
quân Phiệt hiện đại được trang bị những phương tiện giết người rất lợi hại để
hãm họ vào tình trạng quy phục”. Chủ nghĩa đế quốc chăm bón cho chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc, sử dụng nó như một cơng cụ nơ dịch của dân tộc, do đó chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc trở thành một bộ phận hợp thành hệ tư tưởng và chính
trị của chủ nghĩa đế quốc “trong số những hình thức phân biệt chủng tộc chủ
nghĩa thì trắng trợn nhất, cơng khai và thơ bạo nhất đó là chủ nghĩa Apacthai mà
điển hình nhất là ở Cộng Hoà Nam Phi” [2;197].
Apacthai (apartheid) ghép từ hai tiếng ở Hà Lan nói ở châu Phi: “Aparth”
nghĩa là tách biệt và “heid” nghĩa là “chủng tộc” theo đó chủ nghĩa Apacthai có
nghĩa là chủ nghĩa tách biệt chủng tộc cực đoan và tàn bạo. “Apacthai có nghĩa
như là sự chia rẽ, sự tách biệt một cách lạnh lùng, là sự tập hợp tất cả những thứ
gọi là luật lệ áp đặt hàng trăm năm lên người da đen biến họ thành những người
hoàn toàn lệ thuộc vào người da trắng” [11; 74]. Những người theo chủ nghĩa

Apacthai lập luận rằng: người da trắng và người da đen không thể sống bình
đẳng được, khơng thể sống với nhau mà phải sống tách biệt và chỉ có sự tách biệt
theo màu da thì mới có thể đảm bảo được sự phát triển của chủng tộc và quốc gia
[4;283].
Theo Lê Nin, “nguồn gốc sinh ra quyền lực chính trị của thực dân da trắng
ở các thuộc địa là sự độc chiếm của bọn chủng tộc chủ nghĩa đối với tư liệu sản
xuất”. Do đó ngay từ đầu khi mới đặt chân lên mũi Hảo Vọng rồi tiến vào cực
Nam lục địa châu Phi, thực dân Hà Lan đã xua đuổi, bắt bớ cư dân bản địa đang
sống. Trong tình trạng liên minh bộ lạc, thị tộc để chiếm đất đai canh tác của họ.
Đồng thời bằng bạo lực hay tiền bạc mua chuộc các tù trưởng của liên minh bộ
lạc, người Hà Lan đã thuần phục cư dân ở đây và biến họ dần dần lệ thuộc vào


16
mình. Thực chất của những hành động này là cướp hết tư liệu sản xuất của cư
dân ở đây, thiết lập ra chính quyền của mình và tiến hành bóc lột dân bản địa dồn
ép. Họ lệ thuộc vào hoàn tồn chính quyền của người da trắng mới lập nên.
Dưới sự thống trị của chính quyền thực dân da trắng, người dân da đen, da
màu ở Nam Phi phải chịu cuộc sống khổ cực, tủi nhục tối tăm, họ bị đối xử
chẳng khác nào nơ lệ. Nhìn vào bất cứ hướng nào cũng thấy người da đen lam lũ,
đói rách, mình phủ đầy chất bụi, mệt mỏi, đơi mắt trắng dã, lưng còng. Họ phải
sống trong những khu lều trại lụp xụp trên những khu đất của mỏ khai thác [11;
46]. Người da đen Nam Phi trở thành kẻ bị khuất phục và họ trở thành nô lệ ngay
trên đất nước của mình. Họ khơng có sức mạnh, khơng có quyền lực, không
được quyết định vận mệnh và số phận của mình. Họ bị lệ thuộc hồn tồn vào
người da trắng, phần cịn lại của cuộc đời mình họ bị vùi chôn trong những hầm
mỏ tối tăm của các ông chủ da trắng. Để rồi đối lập với những khu lều lụp xụp,
cuộc sống thiếu thốn, tủi nhục là những tồ lâu đài, những ngơi nhà sang trọng
và sự phè phỡn của các viên chức người da trắng.
Chính quyền Prêtơria khẳng định rằng: người Phi da đen là dân nhà quê,

chỉ được sống trên đồng ruộng, trong các hầm mỏ và đó là sứ mệnh của họ. Biểu
tượng cho sự đối xử tách biệt của người da trắng và người da đen ở Nam Phi đó
là “ Thẻ thuế thân”. Mọi người dân Nam Phi từ 16 tuổi trở lên đều phải mang
trong mình tấm “Thẻ thuế thân”, phải trình cho bất cứ một viên chức da trắng
nào khi chúng u cầu. Nếu từ chối việc trình thẻ cũng có nghĩa là phải vào tù,
cịn khơng có thẻ nghĩa là phạm tội. Nhìn vào “Thẻ thuế thân” chính quyền da
trắng sẽ biết được người Phi da đen này sống ở khu vực nào thuộc quyền quản lý
của ai và người này đã nộp thuế hay chưa.
Sự phân biệt đối xử giữa người da trắng và người da đen thể hiện trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ kinh tế -chính trị, văn hố - giáo dục…
và trên bất cứ lĩnh vực nào luật pháp cũng nghiêng về những người da trắng và


17
ngược lại với người da đen. Điều này được NenxơnManđela trong cuốn hồi ký
của mình viết: “Một đứa trẻ người Phi chỉ sinh ra trong một bệnh viện, một nhà
hộ sinh giành cho người Phi, chỉ được bước lên xe bus giành riêng cho người
Phi, chỉ được ở trong vùng quy định riêng cho người Phi và chỉ có thể đến
trường nếu nơi đó có trường học giành cho người Phi. Chỉ được thuê một nơi che
mưa, nắng giành cho người Phi và lúc nào cũng có thể bị chặn lại giữa đường và
buộc phải xuất trình giấy tờ tuỳ thân, và nếu người Phi ấy quên mang theo thẻ
căn cước thì lập tức bị ném vào nhà giam” [2; 61]. Sống trên đất đai của mình,
quốc gia mình nhưng người Phi da đen, da màu phải chịu sự đối xử đến mức họ
phải tự kêu lên: “Chúng ta không có độc lập, chúng ta khơng có tự do, chúng ta
khơng có gì hết’’. [12; 61].
Trước sự thống trị của chính quyền da trắng khơng phải tất cả người Phi
da đen đều cam chịu sự tủi nhục đó. Mà ngay từ khi bọn thực dân da trắng lập ra
chính quyền ở đây, cuộc đấu tranh của những người Nam Phi yêu nước đã diễn
ra. Mặc dù với những vũ khí thô sơ như ngọn lao, cung, nỏ... nhưng họ đã gây
cho chính quyền thực dân những tổn thất lớn và sự kinh hồng bởi cuộc chiến

đấu này. Chính quyền thực dân da trắng đã gọi cuộc chiến đấu này là cuộc chiến
tranh của những “Người bụi cây”(Bus men). Bởi vì họ không chiến đấu trực diện
với súng đạn của thực dân, mà họ ẩn nấp sau những bụi cây và tấn cơng một
cách bí mật, lặng lẽ. Tinh thần u nước của người dân Nam Phi không chỉ thể
hiện trong các mũi tên, con lao, bụi cây... mà ngay cả trong ngôn ngữ của họ.
Bấy giờ người Nam Phi thường truyền nhau câu ngạn ngữ của mình:
“ Đất khơ cằn khát khao yêu nước
Người khô cằn cô độc xa người”
Tuy nhiên những cuộc đấu tranh của người dân Nam Phi chống lại chính
quyền da trắng khơng thống nhất, mà lẻ tẻ mang đậm màu sắc tôn giáo và chiến
tranh bộ lạc. Vì vậy hiệu quả khơng cao, chính quyền da trắng đã tổ chức những


18
cuộc tấn cơng nhanh chóng tiêu diệt sự chống đối này. Yêu cầu lịch sử đặt ra cho
người dân Nam Phi lúc này là cần phải có một tổ chức chung đại diện cho những
người bị chính quyền Apacthai bóc lột, để tập trung lịng u nước và nói lên
tiếng nói đấu tranh của mình. Để đáp ứng nhu cầu lịch sử đó ngày 8/1/1912 một
tổ chức chính trị tiên tiến nhất cho xu hướng yêu nước của người Phi da đen đã
ra đời ở Cộng hồ Nam Phi đó là “Đại hội dân tộc Phi” (ANC).
1.2. ĐẠI HỘI DÂN TỘC PHI (ANC) VÀ THỜI KỲ ĐẤU TRANH
CHỐNG CHỦ NGHĨA APACTHAI DƯỚI HÌNH THỨC BẤT BẠO ĐỘNG.

Ngày 8/1/1912, những người Nam Phi yêu nước đã đứng ra thành lập một
tổ chức chính trị riêng cho mình lấy tên là “Đại hội dân tộc Phi” (ANC) - (Cụm
từ: African National Congress). Người được bầu làm chủ tịch ANC đầu tiên là
Xuma một người Phi da đen yêu nước. Ngay khi vừa mới ra đời, những người
trong ban lãnh đạo ANC đã cơng bố mục tiêu đấu tranh của mình đó là: Đấu
tranh đòi thủ tiêu chế độ Apacthai, giành lại quyền độc lập dân tộc cho người
Phi, xây dựng một xã hội dân chủ và bình đẳng. Với mục tiêu đấu tranh này có

thể nói “ANC như là một chiếc động cơ làm thay đổi tình hình Nam Phi, đây sẽ
là nơi tập trung những hy vọng và những cố gắng không mệt mỏi của người Phi
da đen”. [12; 63]
Là tổ chức yêu nước của người Phi da đen chống lại chính quyền da trắng.
Song khơng phải vì thế mà ANC là một tổ chức khép kín cục bộ, mà ANC là tổ
chức chính trị duy nhất mở rộng cánh cửa để đón chào mọi người Phi: da trắng,
da đen, da màu có tinh thần yêu nước và chống lại chủ nghĩa Apacthai da nhập
vào hàng ngũ của mình. Tổ chức này được coi như là “chiếc dù cực lớn che chở
cho mọi người Phi”.
Dưới ách thống trị và đối xử tàn bạo của thực dân phương Tây ở Nam Phi
nói riêng và ở châu Phi nói chung. Những tổ chức, đảng phái của người Phi yêu
nước thực hiện đường lối đấu tranh bạo lực vũ trang, lấy khẩu hiệu “ném bọn


19
thực dân da trắng xuống biển” làm phương châm hành động của mình. Cũng là
một tổ chức chính trị u nước của người Phi, đấu tranh chống lại chính quyền
phân biệt chủng tộc Prêtôria. Song ANC lại đề ra những đường lối đấu tranh
riêng cho mình: đó là đấu tranh bằng phương pháp hồ bình, chính trị, khơng sử
dụng bạo lực cách mạng, và đường lối này trở thành nền tảng chỉ đạo của tổ
chức. Mọi hành động đấu tranh chống chính quyền Prêtơria đều trên cơ sở đường
lối này. Sự không “ăn khớp” trong đường lối đấu tranh mà ANC đưa ra với
phong trào đấu tranh chung của nhân dân châu Phi, đã đưa đến sự ngờ vực của
nhiều người dân Nam Phi yêu nước muốn gia nhập vào tổ chức ANC. Khơng ít
người cho rằng ANC là một tổ chức của chính quyền thực dân lập ra để mua
chuộc người dân Phi yêu nước. Ngay cả NenxơnManđela (sau này là chủ tịch
của ANC và là Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi) buổi đầu cũng nghi
ngờ tổ chức yêu nước này. Ông cho rằng: Tại sao một tổ chức của người Phi đấu
tranh chống lại thực dân da trắng, mà trong thành phần của ANC lại có cả thành
viên da trắng, hơn nữa trong khi hầu hết các tổ chức, cá nhân yêu nước đang sử

dụng khẩu hiệu “ném bọn thực dân da trắng xuống biển”. Thì ANC đưa ra đường
lối đấu tranh hồ bình, khơng bạo lực vũ trang phải chăng đây là sự lừa gạt
người Phi yêu nước? Tuy nhiên khi đi sâu vào tổ chức, hoạt động dưới sự chỉ
đạo của tổ chức, ông mới nhận ra sự sáng suốt, đúng đắn của ANC trong việc đề
ra đường lối đấu tranh này.
Theo sự biện giải của N . Manđela thì sở dĩ ANC không đề ra đường lối
đấu tranh vũ trang, tập hợp quần chúng làm cách mạng bạo lực là vì ANC không
muốn trên lãnh thổ Nam Phi lại nổ ra một cuộc nội chiến đau thương mà trước
đây đã từng diễn ra giữa thuộc địa của Anh với hai nước Cộng Hoà Orăng và
Tơranxơvan, hậu quả là những người Phi da đen phải gánh chịu mọi tổn thất
nặng nề về người. Nếu phát động một cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại chính
quyền da trắng ở Nam Phi, sẽ dẫn đến một cuộc chiến kéo dài và hết sức tàn


20
khốc giữa người Phi da đen và người Phi da trắng thực dân, tất nhiên chịu hậu
quả nặng nề hơn sẽ là người Phi da đen. Mặt khác lúc bấy giờ mặc dù thi hành
các chính sách phân biệt chủng tộc cực kỳ khắc nghiệt của chính quyền da trắng,
song chính quyền này vẫn chưa ra mặt sử dụng bạo lực để đàn áp, bắt bớ ANC.
Ban lãnh đạo ANC cho rằng: trên cơ sở đấu tranh chính trị của đông đảo những
người Phi yêu nước, cùng với sự ủng hộ và liên tiếp phản đối chủ nghĩa Apacthai
của toàn thể nhân dân u chuộng hồ bình, tự do trên thế giới, đặc biệt là ở
chính quốc Anh cũng như các nước láng giềng ở Nam Phi. Điều đó sẽ tác động
mạnh đến chính quyền da trắng, buộc họ phải từng bước bác bỏ những chính
sách phân biệt chủng tộc ở Nam Phi, giữa người da đen và người da trắng.
So với các thuộc địa của Anh ở châu Phi, thì Liên bang Nam Phi là nước
có tài ngun giàu có nhất, ở đây dưới sự thống trị của chính quyền da trắng di
thực, nhiều ngành công nghiệp khai thác và chế biến đã được xây dựng và phát
triển. Số lượng cơng nhân làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp ngày càng đơng
đảo trong đó có cả cơng nhân da trắng và da đen, da màu. Họ đều bị bóc lột sức

lao động nặng nề, tiền lương ít ỏi đặc biệt là với những công nhân da đen và da
màu. Đây là một xứ tự trị trong Liên hiệp Anh, vì vậy tính chất thuộc địa khơng
gắt gao như ở các nơi khác. Ở Nam Phi, báo chí được tự do ngơn luận, đặc biệt
là báo chí tiến bộ cũng không bị cấm hoạt động. Đây là một điều kiện thuận lợi
cho ANC nói lên tiếng nói của mình cũng như bênh vực cho người Phi da đen.
Trong cuộc chiến tranh thế giới lần I, mặc dầu không bị thực dân Anh trực
tiếp cai trị song sự cấu kết gữa thực dân da trắng ở Nam Phi với chính quốc Anh
đã để lại hậu quả to lớn cho người Phi da đen và da màu. Rất nhiều người Phi da
đen, da màu bị bắt sang chiến trường Bắc Phi và châu Âu và rất ít những người
trong số họ cịn “nhìn thấy được mặt trời trên q hương của mình”. ANC đã kêu
gọi mọi người dân Nam Phi đấu tranh cho quyền lợi của mình và phản đối hành


21
động bắt bớ của chính quyền da trắng. Để tập hợp lực lượng ANC đã đưa ra
“Tuyên ngôn châu Phi” làm khẩu hiệu đấu tranh cho mình.
Đầu thế kỷ XX, dưới tác động của trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản, ở châu
Á được coi là sự “thức tỉnh” của một châu lục sau hàng trăm thế kỷ bị chế độ
phong kiến kìm nén. Ở châu Phi với cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại sự
ra đời của một nước Xã hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ đến châu lục đen, và
đã đánh dấu sự “chuyển mình” đầy hứng khởi ở châu lục này. Riêng ở Liên bang
Nam Phi, sau khi được tin Sa Hoàng bị sụp đổ, báo chí Nam Phi đã viết rất nhiều
về cuộc Cách mạng tháng Hai và Cách mạng tháng Mười. Tập trung mũi nhọn
đấu tranh vào chính quyền da trắng, ANC đã sử dụng báo chí như mặt trận
chính, những trào lưu tư tưởng dân chủ, kể cả dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa đều được ANC truyền vào Nam Phi, mà đối tượng chính là tầng lớp
nhân dân lao động người Phi mà đặc biệt là giai cấp công nhân.
Những hoạt động truyền bá tư tưởng dân chủ ANC đã có những tổ kết quả
nhất định khi: nhiều tổ chức xã hội chủ nghĩa xuất hiện và những tổ chức vốn có
hoạt động mạnh mẽ hơn ở Nam Phi. Năm 1918, ở Nam Phi Hội công nghiệp xã

hội chủ nghĩa và Đảng xã hội ra đời. Những truyền đơn tuyên truyền về chủ
nghĩa Mác và tư tưởng của Cách mạng tháng Mười ngày càng phong phú ở Nam
Phi đặc biệt là ở các thành phố lớn, các trung tâm công nghiệp như:
Giôhannexbớc; Prêtôria; Kếp; Duốcban; Pôêlidabet... Biểu hiện rõ nhất trong
cuộc đấu tranh này của ANC cũng như của nhân dân Nam Phi là sự xuất hiện
của các Xô viết. Xô viết đầu tiên trên lục địa Nam Phi ra đời ở Giơhannexbớc.
Trong tiến trình của cuộc bãi công do liên hiệp những người cơ khí và liên minh
những người lái tàu điện phát động từ tháng 3/1919. Cuộc bãi cơng này đã được
Liên đồn lao động Tơranxơvan hưởng ứng mạnh mẽ. Những người tham gia bãi
công đã bầu ra Xô viết thanh tra lâm thời. Các cơ quan hành chính trong thành


22
phố bị tê liệt và Xô viết nắm lấy quyền quản lý và tình hình này tồn tại được hơn
một tuần. Tình hình trong nước rất sơi động. Từ Giơhannexbớc, phong trào đấu
tranh lan sang các thành phố khác nhau ở Nam Phi. Các cuộc đấu tranh dưới
hình thức bãi cơng, biểu tình, truyền đơn, khẩu ngữ với mục đích địi chính
quyền thực dân da trắng phải thi hành những chính sách dân chủ trong đời sống
và quyền bình đẳng giữa cơng nhân da trắng và da đen. Địi tăng lương, tránh
cúp phạt, thải hồi công nhân da đen. Trước tình hình căng thẳng đó chính quyền
da trắng khơng trực tiếp dùng vũ trang đàn áp, mà một mặt chúng đã mua chuộc
một bộ phận công nhân da trắng, lôi kéo họ về phía mình và “Biến bộ phận này
làm lực lượng dự trữ để chống lại các cuộc đấu tranh của công nhân người Phi”
[4;10]. Mặt khác trước làn sóng đấu tranh mạnh mẽ đó, chính quyền da trắng
buộc phải có những nhượng bộ trước các yêu sách mà cuộc đấu tranh đưa ra,
đồng thời toàn bộ những người bị thải hồi trước đây được trở lại làm việc.
Trước sự phát triển lớn mạnh của các tổ chức công đồn của giai cấp cơng
nhân và sự tăng nhanh về số lượng của giai cấp này. Năm 1921, Đảng cộng sản
Nam Phi đã được thành lập với mục tiêu: đấu tranh chống lại chế độ phân biệt
chủng tộc, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ.

Như vậy cùng với sự ra đời của Đảng cộng sản Nam Phi. Cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa Apacthai của ANC khơng cịn đơn lẻ nữa, lúc này ANC đã có
một chính Đảng tiên phong của giai cấp công nhân ở Nam Phi, một giai cấp có
tinh thần cách mạng cao và có khả năng tiếp nhận những luồng tư tưởng dân chủ
tiến bộ từ bên ngoài. Mặc dù phương pháp và đường lối đấu tranh của ANC và
Đảng cộng sản Nam Phi khác nhau. Một bên lấy đấu tranh chính trị làm đường
lối, cịn một bên tiến hành theo cách mạng bạo lực. Tuy vậy hai tổ chức này,
chính trị này vẫn cùng chung một mục tiêu là đấu tranh thủ tiêu chế độ phân biệt
chủng tộc, xây dựng một nhà nước Nam Phi dân chủ.


23
Việc người Phi da đen và da màu bị mất quyền dân chủ không phải chỉ
ANC quan tâm mà ở hầu hết các tổ chức cá nhân khác của người Phi ở nhiều
nước trong khu vực đều quan tâm. Điều này phản ánh rõ tại “Đại hội toàn Phi”
họp năm 1919 ở Pari (Thủ đô Pháp) với sự tham dự của 17 đại biểu. Đại hội toàn
Phi đã đề ra nghị quyết về quyền người Phi được tham gia cai quản đất nước, bắt
đầu từ các cơ quan địa phương và dần dần đi đến những “ nhiệm vụ chính quyền
cấp cao để trong tương lai châu Phi phải do người Phi cai quản”.
Năm1941, giữa Tổng thống Mỹ Rudơven và thủ tướng Anh Sớcsin đã ký
văn bản gọi là “ Hiến chương Đại Tây Dương” trong đó có những nội dung về
việc khẳng định quyền bình đẳng, quyền tự do của mỗi dân tộc, mỗi con người.
Ban lãnh đạo ANC đã tổ chức soạn thảo một bản hiến chương cho mình gọi là
“African Claims”. Nội dung chính là địi quyền bình đẳng cơng dân hồn tồn
cho tất cả mọi người Phi da đen, cũng như da màu, quyền sở hữu đất đai và đòi
huỷ bỏ đạo luật phân biệt màu da sắc tộc ở Nam Phi. ANC đã sử dụng ngay
những tín hiệu, biểu hiện dân chủ ở chính quốc Anh để tố cáo lên án những hành
động và chính sách phân biệt chủng tộc của chính quyền thực dân ở thuộc địa.
Để tăng thêm sức mạnh cho tổ chức của mình năm 1944 ANC đã chủ
trương cho thành lập Đoàn thanh niên ANC và Lembede một thành viên của

ANC được bầu làm chủ tịch của Đoàn. Ngay khi vừa ra đời Đoàn thanh niên
ANC đã đề ra cương lĩnh: với nội dung chủ đạo là: Chủ nghĩa dân tộc Phi và tạo
lập một dân tộc duy nhất gồm nhiều chủng tộc, xoá bỏ sự cai trị của người Phi da
trắng, thực dân và thiết lập một chính phủ dân chủ. Đồng thời cương lĩnh cũng
tuyên bố: “Chúng ta tin chắc rằng sự nghiệp giải phóng dân tộc của người Phi
phải do chính người Phi giành lấy. Nhấn mạnh thêm đoàn là bộ não là động lực
tinh thần dân tộc Phi” [11; 66].


24
Năm 1946, ở Nam Phi diễn ra cuộc đình cơng lớn và rầm rộ của các thợ
mỏ, các công nhân làm dưới hầm lị. Đầu tiên là cuộc đình cơng của 70.000 thợ
mỏ ở phía Nam, tiếp theo lan sang các khu mỏ khác. Hơn 400.000 công nhân
đào quặng trong các hầm lị sâu đã tiến hành cuộc đình cơng đòi tăng lương để
cải thiện đời sống từ hai bảng (Anh) lên mười bảng một ngày, đồng thời đòi các
chủ mỏ phải trả lương công bằng giữa công nhân da đen và da trắng. Tình hình
đó đã làm nhiều mỏ vàng, quặng ở Nam Phi bị tê liệt suốt tuần lễ. Ban lãnh đạo
ANC đã kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân lao động hưởng ứng phong trào đấu
tranh của công nhân mỏ và kết hợp cuộc đấu tranh của cơng nhân với những u
sách về chính trị theo tinh thần “Hiến chương tự do” của mình. Trước làn sóng
đấu tranh đó chính quyền thực dân da trắng một mặt sử dụng một bộ phận công
nhân da trắng để phá hoại phong trào, một mặt sử dụng quân đội đàn áp đẫm
máu các cuộc nổi dậy của công nhân. Kết quả của cuộc đấu tranh là hơn 12
người bị bắn chết, 52 người bị bắt và tống vào ngục. Để dập tắt cuộc đấu tranh
này “Bộ máy đàn áp của chính quyền thực dân đã hoạt động hết cơng suất và
không trừ một thủ đoạn đẫm máu nào” [12; 70].
Trong cuộc đấu tranh của cơng nhân mỏ vừa qua có sự góp mặt của tất cả
người Phi gốc Ấn Độ. Kể cả trong hàng ngũ ANC cũng có mặt của bộ phận
người Phi gốc Ấn. Để đáp trả điều này ngay sau khi dập tắt cuộc đấu tranh của
thợ mỏ, chính phủ Nam Phi đã ban hành đạo luật mang tên “Asiaticlandtenvere

Act” mà nội dung chính nhất quán là tước bỏ quyền tự do đi lại của người Phi
gốc Ấn Độ vốn chiếm tỉ lệ cao trong cộng đồng dân cư ở Nam Phi. Đạo luật quy
định những vùng đất người Phi gốc Ấn được ở và kinh doanh buôn bán, cắt xén
tàn bạo quyền thừa kế đất đai của họ... có thể nói đây là đạo luật xâm phạm
nghiêm trọng đến cộng đồng người Ấn Độ ở Nam Phi. Trước đây vào năm 1914,
chính quyền Nam Phi đã ban hành đạo luật “ Group-areafact” nhằm vào người


25
Phi da đen với nội dung tước bỏ quyền tự do của tất cả người Phi da đen. Trước
đạo luật này của chính quyền Nam Phi, tất cả những người Phi gốc Ấn đã phẫn
nộ và tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt, người Phi da đen cũng hưởng ứng
mạnh mẽ cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên để bảo vệ cho quyền lợi của chính mình,
chính quyền da trắng đã thẳng tay đàn áp các cuộc chiến tranh của người Phi gốc
Ấn. Có 2000 người bị bắt vào tù.
Trong cuộc đấu tranh này, ban lãnh đạo ANC mặc dù ủng hộ tích cực cho
người Phi gốc Ấn song khơng ra mặt. Mà trên cơ sở hành động của cuộc đấu
tranh cũng như thái độ của chính quyền da trắng để rút ra những kết luận, những
bài học cho mình. Hành động đàn áp của chính quyền đã giúp cho ban lãnh đạo
ANC “có một cái nhìn rộng và bao qt hơn rằng cuộc đấu tranh cho tự do của
một cộng đồng, một dân tộc không chỉ chờ vào những kiến nghị được thông qua
trong cuộc hội nghị này hay phiên họp của ban lãnh đạo một hội nghị quần
chúng nào đó. Điều có tính quyết định phải là một tổ chức khoa học, chính xác,
có sức thuyết phục quần chúng sẵn sàng đứng lên bất chấp hy sinh, kể cả hy sinh
tính mạng” [12; 70].
Như vậy, những hành động của chính quyền da trắng lúc này đối với
người Phi da đen cũng như người Phi gốc Ấn đã làm cho ban lãnh đạo ANC có
cái nhìn khác so với trước đây. Bộ mặt thật của một chính quyền thực dân càng
lộ rõ, chúng nhẳng tay đàn áp đẫm máu các cuộc đấu tranh của nhân dân bị áp
bức. Phương pháp đấu tranh chính trị của ANC lúc này khơng cịn có tác dụng

với những hành động dã man mà chính quyền da trắng đang tiến hành.
Năm 1948, ở Nam Phi diễn ra cuộc bầu cử ban lãnh đạo chính quyền, bọn
thực dân da trắng đưa ra khẩu hiệu tranh cử “Bọn nhọ hãy đến nơi làm việc” và
bọn “Kilis cút khỏi nước này” (Kilis là chỉ người Ấn Độ ở Nam Phi).


×