Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Yếu tố trữ tình trong thơ trào phúng của trần tế xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.37 KB, 64 trang )

Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

4

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.1. Tú Xương là một hiện tượng động đáo trong lịch sử văn học dân
tộc. Thơ văn ơng cho thấy có những yếu tố vượt qua khỏi những khn mẫu
thẩm định vốn có, từng thu hút nhiều cơng trình tìm hiểu và nghiên cứu. u
cầu tìm hiểu Tú Xương cịn là một u cầu lâu dài, thường xuyên.
1.2. Tú Xương được mệnh danh là "nhà thơ trào phúng lớn của dân
tộc", không những thế Tú Xương cịn mang tầm vóc của một nhà trào phúng
thế giới. Một trong những lí do khiến thơ thơ trào phúng của Tú Xương
trường tồn với thời gian là nó gắn liền với gốc rễ trữ tình. Đi sâu nghiên cứu
vấn đề này, luận văn nhằm lí giải nguồn gốc tạo nên sức lâu bền trong thơ
trào phúng Tú Xương.
1.3. Tú Xương không chỉ là một trong những tác giả có nhiều đóng góp
lớn, có vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học dân tộc mà cịn có vị trí quan trọng
trong chương trình học văn ở trường phổ thơng. Nghiên cứu vấn đề này cịn
có khả năng giúp cho việc giảng dạy thơ Tú Xương được tốt hơn.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1. Tú Xƣơng trên lịch trình nghiên cứu gần một thế kỷ qua
Khảo cứu lịch trình nghiên cứu về thơ văn Tú Xương gần một thế kỷ
qua, chúng tơi thấy có trên 50 cơng trình tìm hiểu và bài viết nghiên cứu. Có
thể chia lịch trình nghiên cứu Tú Xương thành hai thời kỳ: trước và sau cách
mạng tháng 8 năm 1945.
2.1.1. Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945
Nhìn chung ở thời kỳ này, thơ văn Tú Xương hầu như chưa có sức hút
đáng kể đối với giới nghiên cứu. Việc sưu tầm thơ văn Tú Xương cũng chưa


được chú ý nhiều. Sở dĩ có hiện tượng như vậy là vì trong bối cảnh chung thời
bấy giờ giới nghiên cứu chịu ảnh hưởng khá nặng nề của phương pháp xã hội


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

5

học, thơ Tú Xương chưa được chú ý đúng mức và càng hiếm hơn nưa những
ý kiến coi Tú Xương như là một tác gia lớn hay là đối tượng của bộ môn văn
học sử.
2.1.2. Sau Cách mạng tháng 8 - 1945
Việc nghiên cứu Tú Xương thực sự phát triển mạnh kể từ sau 1954.
Đặc biệt bước sang giai đoạn 1975 đến nay, khi đất nước thống nhất, giới
nghiên cứu mới thực sự chú ý và đổi mới cách nhìn đối với hiện tượng thơ Tú
Xương.
Có thể kể một số tác giả và những cơng tình nghiên cứu tiêu biểu như:
“Đấu tranh chống hai quan niệm sai lầm về Tú Xương" của Trần Thanh Mại
(1957) [18], “Tú Xương con người và nhà thơ” của Trần Thanh Mại (1961)
[19], “Thơ văn Trần Tế Xương” của Nguyễn Đình Chú, Lê Mai” (1984) [3],
“Trần Tế Xương về tác gia và tác phẩm” - công trình tuyển chọn và giới thiệu
của Vũ Văn Sỹ, Đinh Minh Hằng, Nguyễn Hữu Sơn [18]. Cơng trình này đã
tập hợp cung cấp cho bạn đọc một cách tương đối đầy đủ những tư liệu,
những bài viết về Tú Xương của các nhà phê bình, các nhà văn...
2.2. Vấn đề trữ tình trong thơ Tú Xƣơng
Vấn đề trữ tình trong thơ văn Trần Tế Xương ít nhiều đã được các nhà
nghiên cứu chú ý. Các nhà nghiên cứu đã “giải phóng” cái nhìn trước đây về
Trần Tế Xương. Lâu nay người ta chỉ chú ý Tú Xương là nhà thơ trào phúng,
“ông tổ trào phúng” mà quên đi một yếu tố vô cùng quan trọng ẩn đằng sau
những tiếng cười, sự phê phán đả kích là nhân vật trữ tình trong thơ Trần Tế

Xương. Có thể thấy đằng sau tiếng cười của Tú Xương là cả một nỗi lòng đau
đớn chưa biết tỏ cùng ai.
Thơ văn Trần Tế Xương trường tồn với thời gian phần lớn nhờ vào sự
kết hợp tài tình giữa các yếu tố: hiện thực, trào phúng và trữ tình trong đó trữ
tình là gốc. Tuy nhiên cũng đã có những cơng trình, bài viết phần nào đã thể
hiện một sự khám phá tìm tịi đáng trân trọng về vấn đề trữ tình trong mảng
thơ văn trào phúng của Trần Tế Xương.


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

6

Chế Lan Viên đã chia thơ văn trào phúng Việt Nam xưa nay thành hai
dịng lớn và bé. Lớn là có sự kết hợp giữa trào phúng và trữ tình; Bé là khơng
có hoặc ít có sự kết hợp giữa trào phúng và trữ tình. Theo Chế Lan Viên,
“cùng với Nguyễn Du, Hồ Xn Hương, Nguyễn Khuyến thì Tú Xương thuộc
dịng lớn” [3, 40].
Nguyễn Tuân cũng cắt nghĩa lý do thơ Tú Xương “khơng tắt gió",
khơng "bay ra khói” là nhờ “thơ Tú Xương đi bằng hai chân: hiện thực và trữ
tình, hiện thực và lãng mạn. Hiện thực là chân trái, lãng mạn là chân phải. Cái
chân phải lãng mạn đã khiến cái chân trái hiện thực để cả hai băng được về
phía tương lai vơ tận". [3, 41].
Nguyễn Đình Chú cho rằng: “Tú Xương dù có làm thơ theo kiểu “xuất
khẩu thành chương” hay có lúc nào đó cầm bút mà viết thơ thì dứt khốt vẫn
khơng phải thơ ra từ miệng, từ bút, mà trước hết là từ cõi lòng, từ cõi tâm...
Cái tâm tức là thế giới trữ tình trong thơ Tú Xương thật phong phú. Nó gắn
liền với vận mệnh của đất nước, với thời thế, với giai cấp Tú Xương và với
chính ngay cả số mệnh Tú Xương giữa cuộc đời” [3, 27].
Nguyễn Lộc trong bài “Kết cấu trữ tình và trào phúng trong thơ Tú

Xương” lại cho rằng: “Có thể nói trong thành cơng của mình, thơ trữ tình của
Tú Xương khơng kém bất kỳ thơ trữ tình của một nhà đương thời nào. Kết
cấu trong thơ trữ tình của Tú Xương mặc dù bị đóng khung trong thể thơ
Đường luật gị bó, vẫn là một kết cấu vào loại kiểu mẫu của thơ trữ tình” [21,
329].
Xn Diệu trong bài “Thơ Tú Xương” có viết “Tôi xem ý Tú Xương,
đúng là “buồn tanh lại cười”, gốc trào phúng của Tú Xương rất sâu, là một nỗi
đau thấm đến tận gan ruột bật ra thành tiếng cười sằng sặc đắng cay. Nhiều
nhà thơ khác cũng trào phúng, nhưng chất lượng tiếng cười không sâu được
bằng Tú Xương, không phải như Tú Xương hộc ra tiếng cười” [21, 329].
Như vậy, có thể thấy rằng: Viết về Trần Tế Xương, các nhà nghiên cứu
phê bình đã có những đóng góp nhất định trong việc phát hiện vấn đề trữ tình


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

7

của nhà thơ. Nhưng những bài viết đó mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một
khía cạnh, một góc độ nào đó chứ chưa đi sâu vào khảo sát tồn diện. Luận
văn của chúng tơi là cơng trình đầu tiên đi sâu nghiên cứu vấn đề này một
cách hệ thống và có tính chun biệt.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI GIỚI HẠN CỦA ĐỀ
TÀI

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Yếu tố trữ tình trong thơ trào phúng Trần Tế Xương được xem là đối
tượng nghiên cứu của đề tài này.
3.2. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
Luận văn đi sâu khảo sát, tìm hiểu phân tích, luận giải yếu tố trữ tình

trong thơ văn trào phúng của Trần Tế Xương. Văn bản tư liệu mà luận văn
dựa vào để khảo sát yếu tố trữ tình trong thơ văn Trần Tế Xương, chúng tôi
lựa chọn cuốn: “Tú Xương tác phẩm và giai thoại” (Nguyễn Văn Huyên, Đỗ
Huy Vinh (sưu tầm tuyển chọn),1986, NXB Văn học).
Sở dĩ lựa chọn tuyển tập trên làm văn bản khảo sát, vì chúng tơi cho
rằng cơng trình sưu tầm này tương đối đầy đủ và đáng tin cậy.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Với đề tài này, chúng tôi nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau:
4.1. Khái quát đặc sắc của thế giới nghệ thuật thơ Trần Tế Xương.
4.2. Khảo sát, phân tích yếu tố trữ tình trong thơ trào phúng của Trần Tế
Xương.
4.3. Nghiên cứu mối quan hệ giữa hai yếu tố trữ tình và trào phúng, xác
định vai trị của yếu tố trữ tình trong thơ Trần Tế Xương. Qua đó chứng minh
sức sống của loại thơ trào phúng dựa trên gốc rễ trữ tình.
Cuối cùng rút ra một số kết luận về yếu tố trữ tình trong thơ trào phúng
Trần Tế Xương, để từ đó khẳng định thêm vị trí và vai trị của ơng trong lịch
sử văn học dân tộc.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

8

Luận văn nghiên cứu vấn đề này trên cơ sở của quan điểm thi pháp học,
phong cách học nghệ thuật với những phương pháp khác nhau như: phương
pháp khảo sát, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh - loại
hình, phương pháp cấu trúc - hệ thống...
6. ĐĨNG GĨP VÀ CẤU TRÚC LUẬN VĂN


6.1. Đóng góp
Thực hiện đề tài với những nhiệm vụ và quan điểm phương pháp
nghiên
cứu, luận văn này là cơng trình đầu tiên đi sâu tìm hiểu nghiên cứu vấn đề
một cách có tính hệ thống, tồn diện nhằm khảo sát xác định vai trị của yếu
tố trữ tình trong thơ Trần Tế Xương.
6.2. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn được
triển khai trong 3 chương.
Chƣơng 1. Hiện tượng Trần Tế Xương trong lịch sử văn học dân tộc
Chƣơng 2. Sự hiện diện của yếu tố trữ tình trong thơ trào phúng của
Trần Tế Xương
Chƣơng 3. Trữ tình là gốc rễ trong thơ trào phúng của Trần Tế
Xương
Cuối cùng là tài liệu tham khảo


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

9

CHƢƠNG 1
HIỆN TƯỢNG TRẦN TẾ XƯƠNG
TRONG LỊCH SỬ VĂN HỌC DÂN TỘC
1.1. CUỘC ĐỜI, CON NGƯỜI TRẦN TẾ XƯƠNG VÀ THỜI ĐẠI
ÔNG

1.1.1. Cuộc đời và con ngƣời Trần Tế Xƣơng
Tên thật là Trần Duy Uyên, đến khi đi thi hương đổi thành Trần Tế

Xương, tự Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích. Sau nhiều lần thi trượt, kỳ thi khoa
Quý Mão năm 1903 ông đổi Tú Xương thành Cao Xương. Song, cuối cùng
cái tên còn lại trong tấm lòng yêu mến của nhân dân, còn lại trong lịch sử văn
học dân tộc chính là Tú Xương.
Tú Xương sinh ngày 5 - 9 - 1870 tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc,
tỉnh Nam Định trong gia đình dịng dõi nhà nho.
Thân sinh của ông là cụ Trần Duy Nhuận, sinh thời cụ đi thi nhiều lần
nhưng không đỗ, sau làm tự thừa, giúp việc trong dinh đốc học ở Nam Định.
Tú Xương học chữ rất sớm, cũng sớm nổi tiếng thông minh, giỏi thơ
phú, năm 15 tuổi ông đi thi hương nhưng không đậu (1886), hai năm tiếp theo
ông cũng đi thi nhưng đều trượt (1888 - 1891). Đến năm thứ tư (năm Giáp
Ngọ - 1894) ơng mới đỗ tú tài. Vì chỉ đậu tú tài nên chưa được bổ nhiệm làm
quan, ông lại tiếp tục đi thi để có bằng cử nhân. Bốn khoa thi hương vào
những năm 1897, 1900, 1903, 1906 ông đều dự nhưng vẫn không gặt hái
được gì.
Ngày 20 - 1 - 1907 Tú Xương qua đời đột ngột khi ông mới 37 tuổi đời.
Tú Xương lấy vợ sớm. Vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn, quê ở Hải Dương
nhưng sinh ra và lớn lên ở Nam Định. Bà là người phụ nữ hết sức đảm đang,
chịu khó để nuôi chồng ăn học và làm thơ cùng với 5 người con.
Nhìn chung, cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sỹ,
nhưng trước hết là một trí thức phong kiến. Cho nên về ý thức hệ thì vẫn chưa


Khố luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

10

có dấu hiệu gì là thốt khỏi ý thức hệ phong kiến nhưng lại sống ở thành thị,
vì thế Tú Xương có nhiều nét trong cốt cách, trong tâm lý khơng giống với
những trí thức phong kiến trước đó mà ngay với Nguyễn Khuyến cũng khác.

Thực tế này in dấu ấn khá rõ trong thơ văn của ông.
1.1.2. Thời đại Trần Tế Xƣơng
Cuộc đời ngắn ngủi có 37 năm của Tú Xương đã nằm gọn trong một
giai đoạn bi thương nhất của đất nước. Trong những năm cuối của thế kỷ XIX
- đầu thế kỷ XX thực dân Pháp làm xáo trộn toàn bộ cơ cấu xã hội Việt Nam.
Xã hội Việt Nam bị phân hoá, mục ruỗng, cuộc sống của nhân dân bị chèn ép,
còn tầng lớp nho sĩ trái mùa ngày càng rã đám và có xu hướng tự đào thải ra
khỏi giai cấp của mình. Trước sức mạnh về quân sự cũng như về kinh tế của
thực dân Pháp, vua quan nhà Nguyễn bước đầu cũng có sự chống đối nhất
định thế nhưng vua quan nhà Nguyễn lại tỏ ra sự yếu hèn, bạc nhược đã bán
rẻ đất nước cho bọn xâm lược. Điều này được thể hiện bằng hiệp ước cắt đất.
Năm 1867, lục tỉnh Nam Kỳ mất trọn cho Pháp, Tú Xương lên 3, Bắc
Kỳ trong đó có Nam Định bị tấn cơng lần thứ nhất. Tú Xương 12 tuổi, Bắc
Kỳ, Nam Định bị tấn công lần hai và nằm trong tay Pháp. Năm 1883, triều
đình ký hoà ước Harmand, đặt nước Việt Nam dưới quyền bảo hộ của Pháp.
Năm 1884 triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước Patenôtre thừa nhận quyền
thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta.
Nhà Nguyễn đầu hàng và chấp nhận chia xẻ quyền lợi với thực dân
Pháp nhưng nhân dân ta không chấp nhận làm nô lệ, đã cùng nhau đứng dậy
tự giải phóng "xiềng xích" cho bản thân, cho dân tộc. Ngọn cờ chống xâm lợc
trong tay quần chúng nhân dân đã có sức thu hút các văn thân sĩ phu đứng về
phía đại nghĩa của dân tộc mà kháng chiến dưới danh nghĩa Cần Vương.
Phong trào Cần Vương và nhiều phong trào khác đã diễn ra rất sôi nổi nhưng
lần lượt thất bại. Tú Xương đã sinh ra và lớn lên trong khơng khí sục sơi đấu
tranh nhưng lại bị thương nặng nề đó của đất nước. Tú Xương đã chứng kiến
cảnh nước mất, dân nô lệ và chế độ thực dân nửa phong kiến hình thành. Tú


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn


11

Xương khổ, đau, Tú Xương nhục vì đất nước mất chủ quyền đã đành, đất
nước xã hội lại bị đảo lộn. Sự đổi thay này cái mới, cái lạ cũng nhiều nhưng
cái quái lạ xuất hiện lại nhiều hơn. Những cái được coi là chuẩn mực, giá trị
của xã hội đều bị đồng tiền tư sản chi phối. Những cảnh chướng tai gai mắt
xuất hiện ngập tràn trong xã hội, những cảnh mua bán chức tước, sự chung
chạ lăng loàn, sự xuống cấp đạo đức trầm trọng từ trong gia đình ra ngoài xã
hội… Bọn thực dân phong kiến ra sức bủa vây, vươn dài những vòi bạch tuộc
vào đối tượng nhân dân, chúng ra sức chèn ép và đục khoét… Với bộ máy
thống trị quan liêu kiểu mới do quan chức thực dân cầm đầu kéo theo là một
hệ thống tay sai gồm quan lại phong kiến cũ, thông ngôn, ký lục…
Trần Tế Xương đã được sinh ra, lớn lên và ơng đã tận mắt chứng kiến
sự hình thành xã hội thực dân nửa phong kiến với bản chất bi hài trơ trẽn của
nó, đó là thời kỳ mà cái cũ cái mới đan cài với nhau tạo nên sự lố bịch, gây
cười. Cuộc đổi thay này đã lay động đến toàn cõi đất nước, đến cái tỉnh Nam,
cái thành Nam, đến cả làng Vị Xuyên nhỏ bé của Tú Xương, đến mọi tầng lớp
xã hội trong đó có tầng lớp nho sĩ, đến mọi gia đình, mọi người trong đó có
gia đình Tú Xương, có Tú Xương.
1.1.3. Tú Xƣơng - chứng nhân và nạn nhân của một thời đại bi - hài
lẫn lộn
Trần Tế Xương là nhà nho sống ở thành thị khi chế độ thực dân nửa
phong kiến bắt đầu hình thành. Trong thời đại ấy, ơng vẫn giữ lề lối của nhà
nho bằng hành động cả cuộc đời của ông gắn với chế độ khoa cử chân chính,
khơng chịu sự uốn nắn theo những luật lệ trường thi mà ơng cho đó là "vơ lí,
kỳ qi". Vì thế mặc dù là người có tài nhưng chưa từng đỗ cử nhân, trong
khi đó những kẻ dốt nát lại đỗ đạt. Tú Xương căm ghét chế độ thi cử và cả
chế độ đẻ ra chế độ thi cử ấy nhưng ơng vẫn khơng thốt ra khỏi cái quy luật
của chế độ này. Và đây chính là tấn "bi - hài kịch" của chế độ ơng.
Ơng là chứng nhân và cũng là nạn nhân của một giai đoạn bi thương

nhất của đất nước, ông phải gánh chịu nhiều nỗi buồn, nhiều bất công. Thực


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

12

dân Pháp từng bước, đặt ách thống trị lên đất nước, các phong trào chống
Pháp nổ ra lần lượt thất bại. Khi thâu tóm nước ta trong "guồng máy", thực
dân Pháp đã điều khiển một cuộc đổi thay lớn về tình hình kinh tế - chính trị văn hố - xã hội… Hay trong một "xã hội phong kiến lỗi thời, cổ hủ, phản
động bằng một xã hội thực dân nửa phong kiến mà mới ló mặt đã thấy đầm
đìa bùn và máu" [3, 12]. Khi đặt ách đô hộ, thực dân Pháp là "thổi luồng" với
phương tây tân thời vào chế độ phong kiến với nền văn hố phương Đơng cổ
truyền. Sự đụng độ với hệ tư tưởng, nhân sinh quan, ứng xử văn hoá được xây
dựng từ bao đời đã chịu "khuất phục" trước nền văn hoá phương tây. Những
cái mới, cái lạ được xuất hiện đó là những yếu tố ngoại lai đang giao thoa và
lấn lướt nền văn hố dân tộc. Ơng sống trong sự giao tranh đó, ơng tự thấy
mình bất lực trước thời cuộc. Vì thế trong những sáng tác của mình, Tú
Xương đã ý thức sáng tác, dùng thơ ca như một phương tiện phản ánh hiện
thực đời sống và qua đó thể hiện tâm tư của tác giả.
Nước mất, dân nô lệ, cả thế hệ nhà nho thời Tú Xương lâm vào bế tắc,
bản thân Tú Xương rơi vào bi kịch cộng thêm hồn cảnh nghèo túng của gia
đình, dường như tất cả đã dồn Tú Xương vào chân tường.
Chính điều này đã chia thơ văn Tú Xương thành hai mảng: cười cợt,
mỉa mai cay đắng và sự trầm lắng, suy tư, đau xót, nghẹn ngào.
1.2. TÚ XƯƠNG - NHÀ THƠ TRÀO PHÚNG LỚN TRONG LỊCH
SỬ VĂN HỌC DÂN TỘC

Trong thơ văn của mình, Tú Xương ln đan cài tiếng nói trữ tình đằm
thắm và tiếng cười trào phúng mạnh mẽ, lớn tiếng chỉ ra cái hài kịch đúng

như nó vốn có của đối tượng khơng khoan nhượng. Chính vì thế mà nhiều
người đã tôn ông là "tổ thơ trào phúng Việt Nam" [21, 220], hay "Tú Xương
đỉnh cao của nhà thơ trào phúng Việt Nam" [21, 437].
"Trong văn chương bác học, ý thức trào phúng cũng đã xuất hiện từ rất
sớm. Thời kỳ đầu, các nhà nho thường đan xen tiếng cười với ý nghĩa giảng
đạo lý như Nguyễn Trãi (thế kỷ XV), Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỷ XVI)…


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

13

Vào thời loạn li cuối thế kỷ XVIII và buổi giao thời Lê - Nguyễn đầu thế kỷ
XIX, khuynh hướng trào phúng phát triển lên một bước mới với các tác giả:
Nguyễn Hữu Chỉnh, Phạm Thái, Phạm Đình Hồ, Nguyễn Cơng Trứ và đặc
biệt là nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Đến cuối thế kỷ XIX, trong những điều kiện
lịch sử và xã hội đặc biệt, văn chương trào phúng đã nghiễm nhiên được "viên
mãn" do công lao của các nhà thơ Nguyễn Khuyến. Nguyễn Văn Lạc và đặc
biệt Trần Tế Xương.
Trong các nhà thơ trào phúng cuối thế kỷ XIX nói riêng và trong lịch
sử văn học dân tộc nói chung, có thể nói rằng Trần Tế Xương là "bậc thầy của
thơ trào phúng". So với Tú Xương, thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến tuy
sắc bén xong vẫn tỏ thái độ "quân tử" của một nhà mô phạm mà đeo đuổi việc
răn dạy người đời trong cái cười thì Trần Tế Xương đã mạnh dạn chuyên
nghiệp hoá cây bút, tách rời văn chương trào phúng ra khỏi mọi lo toan thắc
mắc có thể di hại cho sự tiến phát của nó. Có thể nói rằng nhà thơ non Cơi sơng
Vị đã ghi công đầu tiên trong nền thi ca trào phúng nước nhà. Cho cả đến ngày
nay, hệ thống trào phúng của thơ ơng hầu như chưa có ai vượt trội được. "Nếu
như Nguyễn Du, xứng đáng là một thi bá trong ngành thơ tình cảm, thì Trần Tế
Xương đáng kể là một thi hào trong ngành thơ trào phúng Việt Nam" [21, 226].

1.2.1. Cảm hứng trào phúng trong thơ văn Trần Tế Xƣơng
Cuối thế kỷ XIX, khi bắt đầu xảy ra sự va chạm giữa xã hội phong kiến
và nền văn minh tư sản, dưới ách thống trị của thực dân, cuộc sống tưởng như
xây dựng trên nền tảng bất khả xâm phạm, bỗng nhiên bị phủ định khơng
thương xót, cái tưởng là thiêng liêng, là bất di bất dịch bỗng trở thành cái lỗi
thời, thảm hại, lố lăng.
Với niềm tự hào dân tộc, lòng tự trọng của một nhà nho chân chính, có ý
thức trách nhiệm trước cuộc đời đã thơi thúc Tú Xương sử dụng ngịi bút trào
phúng chống lại sự đảo nghịch bi hài trong xã hội với một thái độ quyết liệt. Có
thể nói cái điểm tựa, cái vạch chuẩn trong chiều sâu cảm hứng của ông là truyền
thống văn hoá đạo đức của dân tộc. Tú Xương không bao giờ chấp nhận những


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

14

cái xấu xa trái với đạo lí, trái với truyền thống dân tộc. Những cái lố lăng, đảo
ngược, bi hài… đều là nguồn cảm hứng cho ngòi bút của Trần Tế Xương. Với
lối thơ đánh thép, không e ngại Tú Xương đã vạch trần, phanh phui, điểm chỉ
những tên, những việc làm xấu xa dơ bẩn của xã hội nhố nhăng ấy.
Tuy phạm vi phản ánh hiện thực chỉ bó hẹp trong thành phố Nam Định,
nhưng người đọc cũng dễ dàng biết được đây là bức tranh thu nhỏ, điển hình
cho cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó. Ở đây "hội tụ" đầy đủ những cái
thối nát, mục ruỗng của xã hội là sản phẩm của xã hội vô ln, vơ đạo đức.
Đó là những tên quan dốt nát tham ô nhiễu sự ở phố Hàng Song, đến sự nhục
nhã của một ông Cử trong "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu", hay là sự xuống
cấp đạo đức gia đình như cha - con ở đất Vị Hoàng, cái lối sống vô đạo đức
của ông quan bà lớn "chồng chung vợ chạ"…
Đứng trước hiện thực cuộc sống đầy rẫy xấu xa, thối nát ấy, Tú Xương

đã không ngần ngại dùng ngòi bút trào phúng để mỉa mai, để lột trần những
cái vô đạo đức ấy. Tiếng cười trong thơ Tú Xương đa thanh, nhiều giọng, lắm
cung bậc. Có khi đó là tiếng cười sắc đanh chỉa thẳng vào kẻ thù, có khi là
tiếng cười mỉa mai những kẻ đánh lên án. Dường như dưới cái nhìn của ơng
đối với mọi việc ở đất Thành Nam đều đáng cười, đáng lên án, vô nghĩa. Tú
Xương không bao giờ nghĩ đến đứng ngoài thời cuộc, đứng trên sự đời, mà
nhà thơ tự nhủ: "Giương mắt làm chi buổi bạc tình", "Ngủ quách sự đời thây
kẻ thức" nhưng vẫn không sao nhắm mắt bịt tai trước thời thế đảo điên:
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà
(Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu)
Trong thơ Trần Tế Xương không phải đơn nhất tác giả sử dụng tiếng
cười trào phúng mỉa mai mà ẩn đẳng sau đó là nỗi niềm thầm kín của tác giả,
là sự chua chát, phẫn uất trong nỗi bi kịch cá nhân và bất lực dằng xé trước
thời cuộc. Vì thế mà trào phúng và trữ tình là hai cảm hứng chủ đạo trong
sáng tác Trần Tế Xương.


Khố luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

15

Tóm lại, thời đại Tú Xương là một thời đại vừa bi vừa hài. Đây chính là
mảnh đất tốt, là nguồn cảm hứng cho văn học trào phúng nói chung và cho và
cho thơ văn Tú Xương nảy mầm và phát triển.
1.2.2. Thơ trào phúng của Tú Xƣơng - một hiện tƣợng đỉnh cao của
thơ trào phúng Việt Nam
Trên lịch trình thơ trào phúng Việt Nam có thể nhận thấy Tú Xương là
"ông tổ thơ trào phúng Việt Nam" [18, 220] và ông đã rất thành công khi
dựng chân dung biếm hoạ.
Trần Tế Xương sống trong giai đoạn xã hội đảo lộn, sự tan rã của giai

cấp sĩ, sự lên đàn thống trị của giai cấp mới. Nước mất, dân nô lệ, bất lực
trước trọng trách cứu dân cứu nước, giai cấp sỉ đã tự chia thành 3 loại: một là
đứng lên chống trả Pháp quyết liệt hoặc xuất dương mưu đồ phục hận mai
sau; theo giặc hay một số rơi vào tình trạng bi quan yểm thế.
Đây quả là bức tranh rộng lớn và phong phú để văn học trào phúng nảy mẫm
và phát triển. Để thấy rõ điểm này, chúng ta hãy so sánh với các nhà thơ khác.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương dường như không mấy khi "chỉ mặt vạch tên",
đánh đích danh vào một thói hư tật xấu nào. Bà chỉ chấm phá sơ lược về xã
hội ngẩn ngơ, xấu xa: bọn thư sinh tồi tàn, bọn tăng lữ giả đạo đức, bọn học
trò dốt… Nguyễn Khuyến cũng vậy, chỉ khái quát một vài khía cạnh, một vài
thành phần xã hội. Cịn Trần Tế Xương thì ngược lại. Bên cạnh những bài thơ
nói một cách chung chung, thì tác giả cịn chỉ đích danh, những tật hư thói
xấu tỉ mỉ, rõ ràng:
Nào là ơng sư phải tù:
Quảng đại từ bi cũng phải tù
Hay là sự cụ vụng đường tu
(Sư ở tù)
Nào là ơng Cị tây tỉnh Hà Nam:
Hà Nam danh giá nhất ơng Cị
Trơng thấy ai ai chẳng dám ho


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

16

Nào quan giám khảo là thi hương trường Nam Định:
Sơ khảo trường Nam bác cử Nhu
Thật là vừa dốt lại vừa ngu


Nguyên nhân cái cười của Trần Tế Xương không thể khơng nói đến
thân thế của tác giả. Đó là một nho sĩ tài hoa nhưng phải sống cảnh nghèo
túng và nạn thi trượt.
Không giống cảnh thanh bần của Nguyễn Khuyến, cái nghèo của Trần
Tế Xương là cái nghèo cùng cực.
Tác giả viết:
Bức sốt nhưng mình vẫn áo bơng
Tưởng rằng ốm dậy hố ra khơng
Một đàn rách rưới con như bố…
Hay:
Gạo cứ lệ ăn đong bữa một
Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi
Hoặc tác giả viết về nạn thi trượt của mình:
Trách mình phận hẩm lại dun ơi
Đỗ suốt hai trường hỏng một tôi
Nhà thơ ngang nhiên cực tả cái gia cảnh điêu tàn khốn đốn của ông,
hơn nữa ông lại cịn bóc trần cả con người tinh thần hư hỏng của mình:
Biết chăng ? cũng chẳng biết gì
Biết ngồi nhà hát, biết đi ả đào
Biết thuốc lá, biết chè Tàu
Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi
Hay:
Cao lâu thường ăn quỵt
Nhà thổ lại chơi lường


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

17


Tú Xương đã đặt mình vào bình diện của đám đơng, đem bản thân lên
bàn mổ xẻ của trào phúng cũng cho người đọc thấy được Tú Xương vừa vượt
xa lối "tự trào" còn vướng chủ quan và tự ái của Hồ Xuân Hương, của
Nguyễn Khuyến, lại đồng thời khơi rộng đối tượng của văn chương trào
phúng.
Tú Xương được mệnh danh là "hiện tượng đỉnh cao của văn học trào
phúng". Thơ trào phúng của Tú Xương hết sức đa dạng. Có bài diễn đạt có vẻ
trào phúng, nhưng cảm xúc lại trữ tình; ngược lại, có bài diễn đạt có vẻ trữ
tình, những câu thơ được phát triển trong cái thế hài hoà, cân xứng nhưng
thực chất lại trào phúng một cách tinh tế, kín đáo, sâu sắc. Tiếng cười của
Nguyễn Khuyến bao giờ cũng thâm trầm, kín đáo dù nhà thơ tự cười mình
hay chế giễu cái xấu xa của cuộc đời. Ở Tú Xương, biên độ tiếng cười cách
biệt rõ rệt. Trong những bài thơ viết về bà Tú cơ bản là trữ tình, nụ cười buồn
buồn. Trong những bài thơ tự cười cái nghèo, cười chuyện thi hỏng, hay cười
vào thói ăn chơi của mình thì tiếng cười của ông pha lẫn nước mắt, nhiều lúc
như tiếng cười gằn, nhiều lúc lại cười phá lên, có chút khinh bạc. Còn đối với
những cái xấu xa, nhơ bẩn của cuộc đời, tiếng cười của Tú Xương thường bốp
chát, khinh bỉ…
Nghệ thuật trào phúng của Tú Xương đạt đến đỉnh cao, trước hết vì
tiếng cười của ơng là sự phê phán của một lí trí nhạy bén, nhưng đồng thời
cũng là cảm xúc nhạy bén của con tim. Nền cảm xúc trong thơ trào phúng của
Tú Xương rất chắc, nên tiếng cười trong thơ ông vang lên bật khỏi mà sắc
thái, cung bậc vẫn phong phú. Và chiều sâu của tiếng cười ấy là ở chỗ nhà thơ
phát hiện được từ những mâu thuẫn đa dạng của sự vật, không phải chỉ những
yếu tố gây cười mà còn là cái mâu thuẫn gắn liền với bản chất của sự vật, và
ơng có một nghệ thuật tổ chức bài thơ để đạt hiệu quả trào phúng cao.
1.2.3. Nguồn mạch sức sống của thơ trào phúng Trần Tế Xƣơng
Từ trước đến nay, Tú Xương nổi tiếng trên văn đàn với tư cách là một
nhà thơ trào phúng kiệt xuất. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Trong thơ văn Tú



Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

18

Xương khơng chỉ có tiếng cười châm biếm, đả kích mà cịn là tiếng than,
tiếng thở dài. Tú Xương khơng chỉ là một nhà thơ trào phúng mà còn là một
nhà thơ đậm chất trữ tình. Trữ tình và trào phúng trong thơ Tú Xương chỉ là
mặt này hay mặt khác của cùng một hiện tượng, chỉ là sự khúc xạ vào những
lăng kính khác nhau của cùng một tâm hồn và nó thể hiện rõ ở giọng điệu.
Trong lịch sử văn học dân tộc, xuất hiện nhiều nhà thơ trào phúng:
Nguyễn Thiện Kế, Kép Trà, Tú Mỡ, Tú Sụn… thế nhưng có thể nói thơ của
họ khơng có sức sống lâu bền trong lòng độc giả như thơ trào phúng của Tú
Xương. Hầu hết trong những sáng tác của mình, các tác giả đã đẩy lùi, tách
rời yếu tố trữ tình ra khỏi trào phúng, họ tập trung "gọt mài" lời thơ đanh thép
thiên về đả kích. Với Tú Xương, giọng điệu có khi là phê phán, trào phúng,
mỉa mai, cay độc, có khi là giọng tự trào chua chát, buồn bã ngao ngán cho
mọi biến đổi đáng buồn ở cuộc đời, khi thì giọng nanh nọc, bốp chát khó chịu.
Đằng sau và bên trong tiếng cười của Tú Xương là tâm tình sâu kín của nhà
thơ, là sự chua chát phẫn uất trong nỗi bi kịch cá nhân và bất lực trước thời
cuộc. Thơ ơng vì thế khơng thể cười hỉ hả thoả mãn. Sau tiếng cười là cả một
nỗi đau, cả nỗi niềm da diết sâu lắng của nhà thơ. Nguyễn Tuân từng nói:
"Cái gốc hiện thực mà khơng có cái ngọn trữ tình, cái tán lãng mạn ấy thì Tú
Xương tắt gió trong tơi từ lâu rồi" [20, 85].
Thơ trào phúng là lịng căm giận những thói hư tật xấu, những con
người phản diện trong xã hội, xuất phát từ lý tưởng thẩm mỹ đúng đắn tiến
bộ. Nếu chỉ xoay quanh ở cách nói hóm hỉnh, cách chơi chữ đùa vui, thơ trào
phúng sẽ ít có ý nghĩa và khơng có sức hấp dẫn. Ở Tú Xương nỗi đau lên đến
tột cùng trong sự dằn vặt, dằng xé suy tư. Do lẽ đó, bi kịch của Tú Xương so
với Nguyễn Khuyến đã mang đậm cay đắng hơn và vì vậy nét hài cũng chua

xót hơn.
Những thi phẩm của Tú Xương sống mãi qua thời gian, có vị trí đáng
kể trong lịch sử văn học dân tộc, phải chăng Tú Xương đã gắn trào phúng vào
yếu tố trữ tình ?


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

19


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

20

CHƢƠNG 2
SỰ HIỆN DIỆN CỦA YẾU TỐ TRỮ TÌNH
TRONG THƠ TRÀO PHÚNG CỦA TRẦN TẾ XƯƠNG
2.1. KHÁI NIỆM TRỮ TÌNH VÀ CÁC PHƯƠNG DIỆN BIỂU
HIỆN CỦA TRỮ TÌNH

2.1.1. Khái niệm trữ tình
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: trữ tình là "Phản ánh đời sống bằng
cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con người, nghĩa là con người tự cảm thấy
mình qua những ấn tượng, ý nghĩa, cảm xúc chủ quan của mình đối với thế
giới và nhân sinh" [12, 316].
Trữ tình là biểu hiện, là bộc lộ tình cảm, tâm trạng. Cái cơ bản nhất ở
trữ tình là những suy tư mang màu sắc cảm xúc, tâm trạng, tất cả đều liên
quan với cái tơi trữ tình tác giả. Heghen cho rằng: "Nhà thơ trữ tình có thể tìm
kiếm sự kích thích sáng tạo và tìm kiếm nội dung bên trong bản thân mình,

tập trung vào những tình thế, trạng thái, xúc cảm và dục vọng nội tại của trái
tim và tinh thần mình". Có thể thấy hầu hết mọi trường hợp, trữ tình thường là
biểu hiện tâm trạng của nhà thơ. Ở những bài thơ, chủ thể trữ tình đồng nhất
hoặc gần gũi nhiều nhất với bản thân nhà thơ được gọi là "tự thuật tâm trạng".
Sự tự biểu hiện - biểu cảm từng được nhiều nhà nghiên cứu xem là một trong
những thuộc tính quan trọng của trữ tình.
2.1.2. Các phƣơng diện biểu hiện của trữ tình trong thơ
Theo Trần Đình Sử: Thơ trữ tình cổ điển phương Đơng có hai điểm
chính: "Thứ nhất, miêu tả một thế giới tinh thần lý tưởng, thống nhất hài hoà
cái khách quan và cái chủ quan. Thơ ca cổ điển không thiên về miêu tả khách
quan, cũng không thiên về miêu tả, biểu hiện cảm xúc chủ quan như thơ lãng
mạn. Các nhà thơ cổ điển chưa có ý thức tách bạch chủ thể và khách thể mà
chỉ nhìn từ một trong hai phía. Thứ hai, xây dựng những quy tắc tổ chức tác


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

21

phẩm trên cơ sở đặc tính chất liệu với mơ hình tác phẩm thơ lấy sự cân đối hài
hoà làm nền tảng" [33, 12].
Do đề lên hàng đầu sự biểu lộ điểm nhìn của chủ thể trữ tình, việc miêu tả
thế giới bên trong (phong cảnh thiên nhiên, các sự vật, các sự kiện…) ở tác phẩm
trữ tình cũng phụ vụ mục đích tự biểu hiện. Ở những trường hợp khơng xuất
hiện trực tiếp cái "tôi" của tác giả, chỉ hiện diện một sự mơ tả có vẻ khách quan,
thì trong mạch ngầm văn bản vẫn cảm thấy có cái nhìn của chủ thể nhà thơ trong
những chiêm nghiệm và bình giá thế giới.
Cái nhìn trữ tình đối với thế giới nảy sinh khi con người (tác giả, người
diễn xướng, người đọc) biểu lộ thái độ riêng của mình đối với thế giới xung
quanh. Bởi vậy, cái "tôi" tự biểu hiện có vai trị đặc biệt quan trọng trong trữ

tình. Do đó, "cái nhìn trữ tình" theo nghĩa rộng, như một năng lực thẩm mỹ
của con người - năng lực tích tụ những trải nghiệm thầm kín, cả trong nghệ
thuật lẫn trong đời thường.
Phương thức trữ tình tái hiện các hiện tượng đời sống, như trực tiếp
miêu tả phong cảnh thiên nhiên hoặc thuật lại ít nhiều sự kiện. Sự tái hiện này
khơng mang mục đích tự thân mà tạo điều kiện để chủ thể bộc lộ những cảm
xúc, chiêm nghiệm, suy tưởng của mình. Ở đây nguyên tắc chủ quan là
nguyên tắc cơ bản trong việc chiếm lĩnh hiện thực, là nhân tố cơ bản quy định
những dặc điểm cốt yếu của các tác phẩm trữ tình.
Trong phương thức trữ tình, cái tơi trữ tình giữ một vị trí đặc biệt quan
trọng vì nó là nguồn trực tiếp duy nhất của nội dung tác phẩm.
Do thi phẩm trữ tình trình bày trực tiếp cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩa của
con người, nên xúc động trữ tình bao giờ cũng mang thời hiện tại. Ngay cả
khi tác phẩm trữ tình nói về quá khứ, về những chuyện đã qua, xúc động trữ
tình vẫn được thể hiện như một trạng thái sống động. Nhờ đặc điểm này,
những rung động thầm kín mang tính chủ quan, cá nhân, thậm chí cá biệt của
tác giả dễ dàng được người đọc tiếp nhận như rung động của chính bản thân
họ.


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

22

Nội dung của phương thức trữ tình địi hỏi một hình thức thể hiện phù
họp, tương ứng. Lời văn của tác phẩm trữ tình phải hàm súc, giàu nhịp điệu.
Chính vì thế, tác phẩm trữ tình có thể được viết bằng thơ hoặc văn xi,
nhưng thơ vẫn là hình thức tổ chức ngơn từ phù hợp nhất với nó.
2.1.3. Biểu hiện của trữ tình trong thơ trào phúng
Cảm hứng trào phúng trong văn học Việt Nam có từ sớm, trước hết có

từ trong văn học dân gian. Trong văn học viết từ thế kỷ XIII, theo Bùi Văn
Nguyên - Hà Minh Đức, một số tác giả đã làm thơ trào phúng như Nguyễn Sỹ
Cố. Từ thế kỷ XVI trở đi, các nhà thơ trào phúng xuất hiện ngày càng nhiều
như: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…
Văn học trào phúng là loại văn học dùng tiếng cười để nhận thức, phản
ánh hiện thực xã hội. Chừng nào trong hiện thực đời sống cịn có những hiện
tượng bi - hài, những hiện tượng đáng cười thì chừng đó văn học trào phúng
còn tồn tại và phát triển.
Trào phúng dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ
khác. Song trong lĩnh vực văn học, trào phúng gắn liền với phạm trù mỹ học
và cái hài với các cung bậc hài hước, châm biếm. Những cái ngược đời, đảo
lộn, xấu xa, … đều được đề cập trong văn học trào phúng.
Trên cơ sở phát hiện ra mâu thuẫn trào phúng ở đối tượng, tác giả trào
phúng có thể dùng nhiều thủ pháp nghệ thuật để tạo ra tiếng cười hoặc là
tiếng cười vui dí dỏm khơng nhằm phê phán, đả kích đối tượng, hoặc tiếng
cười phê phán nhẹ nhàng, hoặc là tiếng cười phê phán đả kích đối tượng một
cách mạnh mẽ, sâu sắc. Nhưng ẩn đằng sau chuỗi cười vang phê phán đả kích
ấy là cả một nỗi tâm sự, là cái buồn cái thở dài trữ tình.
Điều này chứng tỏ rằng, giữa trào phúng và trữ tình có mối quan hệ bên
trong. Dù ở dạng nào thì chủ thể sáng tạo đều nhằm bộc lộ tình cảm của mình.
Tuy nhiên dạng thức bộc lộ có những cung bậc sắc thái khác nhau. Một mặt là
bộc lộ trực tiếp tình cảm chủ thể (trữ tình), một mặt thơng qua tiếng cười để
đả kích, châm biếm đối tượng nào đó và qua đó bộc lộ tình cảm của mình.


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

23

Như vậy, thơ trào phúng là dạng trữ tình "đặc biệt", mà qua sự lên án phủ

nhận, đả kích những giá trị đảo ngược, lố lăng đó, tác giả bộc lộ tình cảm của
mình. Cười đấy, ngơng đấy nhưng thực ra đằng sau tiếng cười có khi là tiếng
thở dài, là nước mắt, là nỗi đau không chỉ là của một cá nhân cụ thể mà rộng
hơn là của cả xã hội.
Vấn đề có thể khép lại bằng luận điểm của L. I. Timôphêep "trào phúng
là một loại đặc biệt của sáng tác văn học gần gũi với trữ tình, sử thi và kịch
trong những trường hợp cụ thể".
2.2 BIỂU HIỆN CỦA TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRÀO PHÚNG
TRẦN TẾ XƯƠNG

2.2.1 Nhân vật trữ tình và cái tơi tác giả trong thơ trào phúng của
Trần Tế Xƣơng.
Trong sáng tác của mình, những cái ngược đời, đảo lộn, "chướng tai gai
mắt", … đều được Trần Tế Xương đề cập khá chân thực với lối châm biếm,
đả kích, phủ nhận triệt để. Người đọc dễ dàng nhận thấy một nhà thơ có cá
tính mạnh mẽ, một tài năng thơ ca. Bên cạnh đó, Trần Tế Xương đã có những
bài viết về mình, viết về cuộc sống tâm tư, tình cảm của mình và đã thể một
cái tơi trữ tình khá rõ.
Nhân vật trữ tình - tác giả được thể hiện khá nhiều trong thơ. Chúng ta
biết rằng, nhân vật trữ tình có quan hệ mật thiết với con người tác giả nhưng
khơng hồn tồn đơng nhất với tác giả. "Nhân vật trữ tình là con người "đồng
dạng" của tác giả. Nhà thơ hiện ra từ văn bản của kết cấu trữ tình… như một
con người có đường nét hay một vai sống động có số phận cá nhân xác định
hay có thế giới nội tâm cụ thể, đơi khi có cả nét vẽ chân dung" [12, 201].
Tú Xương đã đưa mình vào thơ như một nhân vật khách thể: Nhân vật
Tú Xương có cá tính rõ rệt và ít nhiều có ý nghĩa điển hình sâu sắc cho cả một
lớp người trong thời đaị đương thời. Nhân vật trữ tình ấy, dù được khách thể
hố, nhưng trước hết cũng thuộc thế giới trữ tình của tác giả. Nhân vật trữ tình
với tác giả vừa là một, vừa khơng là một, vì nó là nhân vật của văn học, được



Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

24

xây dựng theo quy luật sáng tạo của nghệ thuật vốn dĩ vừa hư vừa thực nhưng
tất cả là trên một nền tâm trạng thực, nhân cách thực của tác giả.
Nhân vật Tú Xương đã tự xưng khi thì "bằng "tơi", bằng "ta", bằng
"mi", bằng "tớ", khi thì bằng "thằng tơi", bằng "bác", bằng "ơng", bằng "thầy"
và có khi bằng "em" nữa" [3, 28]. Không dưới 60 lần, Tú Xương đã tự xưng
danh trong nhiều thi phẩm của mình. Nhân vật Tú Xương tự nói về mình, về
cuộc sống tâm tư tình cảm của mình cũng thật khác lạ, "cứ như là cố bơi cho
đen kịt mình đi" (Tự vịnh, Tự cười mình, Hỏng khoa Canh Tí…) [3, 28].
Đằng sau những bức tranh Tú Xương tự hí hoạ mình là cả một tâm hồn phong
phú, một nhân cách đáng trân trọng. Khơng chỉ những cái ngược đời, lố lăng
ngồi xã hội mà ngay cả những thói tật của mình cũng được ông đề cập đến;
Tú Xương không hề giấu giếm, e ngại mà thậm chí Tú Xương cịn thổi phồng
lên, trước hết là cho vui sự đời, dù là vui gượng, nhưng quan trọng là muốn
được tách mình ra khỏi lớp người xấu xa của thời buổi khơng may mình phải
sống. Tuy chưa có một lý tưởng sống cao đẹp, tích cực nhất, nhưng ít ra Tú
Xương cũng đã tạo cho mình một triết lý sống trong sạch của một kẻ khơng
chịu nhập vào dịng đời ơ trọc kia. Như nhân vật Chú Mán trong bài "Bần như
lạc" (Nghèo mà vui) chính là tác giả chứ khơng ai khác.
Như chúng ta đã biết, Tú Xương lớn lên thì chế độ thực dân nửa phong
kiến bắt đầu hình thành. Chế độ nhà nước này vẫn tiếp tục duy trì chế độ khoa
cử để tuyển chọn nhân tài ra giúp đời giúp nước. Ví như đây là một cuộc thi
chân chính thì rất đỗi tự hào, nhưng ngược lại chế độ khoa cử lúc bấy giờ đã
mục ruỗng, nó được tổ chức lại theo ý đồ của bộ máy thuộc địa. Thế nhưng
ông củng cố đi thi để lập thân. Năm 15 tuổi, Tú Xương đã đi thi, mãi đến năm
24 tuổi mới được bằng tú tài. Khối nỗi, cái danh "ông tú" "dở ông dở thằng"

chưa được bổ làm quan nên Tú Xương luôn nung nấu giấc mộng cử nhân:
Anh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ
(Văn tế sống vợ)


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

25

Và cứ thế trường ốc đeo đẳng trói buộc cuộc đời khốn khổ của Tú
Xương. Ơng thi trượt khơng phải vì dốt, mặc dầu ơng vẫn nói:
Rõ thật Nơm hay mà chữ dốt
Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy
(Buồn thi hỏng)
Mà ngun nhân chính yếu là tội phóng túng, ngang tàng không hợp và
không chịu uốn nắn theo khuôn mẫu phép tắc của chế độ thi cử phong kiến.
Vì thế Tú Xương càng muốn lập thân bằng khoa cử thì chế độ càng hút hủi
ông ra. Tú Xương lao vào thi cử, trượt và cứ trượt, cứ trượt mãi… nhưng ông
vẫn thi, ít nhất Tú Xương dự đến 8 khoa thi. Sự thi hỏng này kéo dài liên tiếp
là cả một nỗi niềm chua chát của ông, nhưng đồng thời đây cũng là dịp hứng
khởi cho nhiều sáng tác đặc sắc của ơng:
Ơng tự cười mình:
Ơng trơng lên bảng thấy tên ơng,
Ơng nốc rượu vào ơng nói ngơng.
Trên bảng, năm hai thầy cử đội
Bốn kỳ, mười bảy cái ưu thông
Xướng danh tên gọi trên mình tượng,
Ăn yến xem ra có thịt công.
Cái "hư", cái "thật", cái "giả" được phơi bày rõ ràng là tuỳ vào sự thẩm định
đánh giá của người đời. Tú Xương cố tình phóng đại những thói hư tật xấu

của mình cho người khác cười. Cho người đời cười mình cũng là cách để
mình dễ dàng cười những hiện tượng lố lăng, kệch cỡm.
Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu
Hay hát hay chơi hay nghề xuống lõng
Quanh năm phong vận, áo hàng tàu, khăn nhiễu tím, ơ lục
soạn xanh
Ra phố hiên ngang, quần áo nữ, bít tất tơ, giày da đinh
bóng…
(Hỏng thi khoa Canh Tý)


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

26

Hay hình bóng Tú Xương qua nhân vật Chú Hán. Tú Xương muốn lấy
sự ăn chơi của mình để cười vào xã hội, cho nên hình ảnh chú Mán rất ăn
chơi:
Khi cao lâu, khi cà phê, khi nước đá, khi thuốc lá khi đủng đỉnh ngồi xe
(Chú Mán)
Một cái tôi "ngông", cái tôi bất hợp pháp trong các bài thơ viết về bản
thân, viết về những đảo lộn mọi giá trị của xã hội đã nhường bước cho giọng
điệu trữ tình, đằm thắm khi Tú Xương viết về vợ của mình.
Thật cởi mở, đầy nghĩa tình đằm thắm, ơng cảm nhận sâu sắc cơng ơn
của vợ với mình, với con mình:
Quanh năm buôn bán ở mom song
Nuôi đủ năm con với một chồng
(Thương vợ)
Thương vợ bao nhiêu, ơng lại thấy mình vơ tích sự bấy nhiêu, ơng buột
lên một tiếng chửi, chửi cái anh chồng "dài lưng tốn vải" là mình, chửi ln

cả thói đời bạc bẽo đẻ ra loại chồng như mình:
Cha mẹ thịi đời ăn ở bạc
Có chồng hỡ hững không như không
Thấu hiểu nỗi nhọc nhằn, cơ cực của vợ khi phải "nuôi đủ năm con với
một chồng", ông chẳng biết làm gì để đỡ đần cho vợ, ông chỉ biết làm thơ
đùa, làm thơ nịnh vợ bằng cách đưa vợ ra làm văn tế sống:
Con gái nhà dịng, lấy chồng kẻ chợ
Tiếng có miếng khơng, gặp chăng hay chớ
Mặt nhẵn nhụi, tay chân trắng trẻo ai dám chê rằng béo rằng lùn
Người ung dung, tính hạnh khoan hồ, chỉ một nỗi hay gàn hay dở
Đầu sơng bãi bến, đua tài bn chín bán mười
Trong họ ngồi làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ…
(Văn tế sống vợ)


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

27

Đề tài tình bạn trong thơ của Tú Xương cũng thật phong phú, chân tình.
Những người bạn là bậc đáng kính, đáng tơn thì cái tình của Tú Xương gắn
bó, hồn nhiên và rất đỗi tha thiết:
Đi đâu một bước một chờ
Vắng nhau một khắc một giờ khôn khuây
(Viếng bạn)
Tú Xương cịn mở rộng tình thương của mình ra khỏi phạm vi quan hệ
cá nhân, lo cái lo chung của thiên hạ khi đại hạn lâu ngày.
Dạo này đá chảy với vàng trôi
Thiên hạ mong mưa đứng lại ngồi
(Đại hạn)

Khi gặp một người ăn xin, khơng có tiền Tú Xương áy náy đến luống
cuống, chẳng biết làm sao chỉ biết đem tiếng chửi ra mà thề thốt:
Người đói ta đây cũng chẳng no
Cha thằng nào có tiếc khơng cho !
(Thề với người ăn xin)
Nhân vật trữ tình Tú Xương thường trăn trở, thao thức đối với vận
mệnh của non sông đất nước. Nỗi niềm, tâm sự yêu nước của Tú Xương được
thể hiện trong thơ thường là cảnh của đêm tối, trong bối cảnh đó nhà thơ thể
hiện một nỗi buồn lưng đọng:
Kìa cái đêm nay mới gọi đêm
Mắt giương, trong bụng ngủ khơng thèm
Tình này ai tỏ cho ai nhỉ ?
Tâm sự năm canh một ngọn đèn
(Dạ hồi)
Hay:
Trời khơng gió bể chẳng mưa nguồn
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn
(Đêm buồn)


Khoá luận tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn

28

Tâm trạng "đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn" không phải là tâm trạng
của một mình tác giả mà đó là tâm trạng bao trùm lên một bộ phận trí thức
nho sĩ trong cuộc đổi thay nghịch chiều của thời cuộc vào những năm cuối thế
kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đang cố tìm hướng đi đúng.
Các tơi tác giả, nhân vật trữ tình trong thơ Tú Xương được thể hiện khá
rõ, có cá tính riêng, đặc điểm riêng của con người Tú Xương. Ở Tú Xương ta

thấy một kiểu giả muốn phả bỏ tính quy phạm chuẩn mực của loại hình tác
giả trong thơ trung đại để tìm cho mình một hướng đi mới - ý thức khẳng định
cá nhân rõ rệt.
2.2.2. Sắc thái trữ tình trong giọng điệu và ngôn ngữ Trần Tế
Xƣơng và ngôn ngữ của nhà thơ trào phúng Trần Tế Xƣơng
Ngôn ngữ văn học trung đại là ngơn ngữ đậm chất ước lệ. "Nó hướng
tới việc bộc lộ những vẻ đẹp tao nhã. Ngôn ngữ trang trọng, mực thước, được
coi là "chuẩn" của văn học thời đại này. Màu sắc Hán và điển tích, điển cố rất
đậm. Tuy nhiên, cũng có thể thấy hai khu vực chính: Khi cần biểu thị những
tình cảm trang trọng, người ta dùng chữ Hán, hoặc dày đặc từ Hán - Việt, cịn
khi sử dụng thơ ca với mục đích thân mật suồng sã, người ta dùng chữ
Nôm… Đây vừa là tính quy phạm của văn học" [10, 156]. Tuy nhiên khi thơ
trào phúng xuất hiện mà đỉnh cao là hai tác giả Nguyễn Khuyến và Tú Xương
đã xoá bỏ lối nói nghi thức, tiếp cận với cách nói thơng tục, dân dã. Nếu như
nụ cười của Nguyễn Khuyến có vẻ thâm th, hóm hỉnh thì tiếng cười của Tú
Xương là "tiếng cười gằn mảnh vỡ thuỷ tinh". Không chỉ diễu đời, nhạo thế,
nhà thơ cịn lấy mình làm đối tượng để tự trào:
Ở phố hàng Nâu có phổng sành
Mắt thời thao láo, mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó,
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh !
Bài bạc rượu cờ cao nhất xứ,
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh.


×