Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (885.02 KB, 16 trang )

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHƠNG KÍNH
( Phạm Tiến Duật)
I. Khái quát chung
1. Tác giả
- Phạm Tiến Duật( 1941-2007), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, là một nhà thơ nổi
tiếng trong thế hệ các nhà thơ chống Mỹ
- Từng học tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Tốt nghiệp năm 1964 sau đó gia nhập
quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn
- Ông viết thơ chủ yếu để thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
(hình tượng người lính và những nữ thanh niên xung phong)
- Thơ ông hồn nhiên, sơi nổi, tinh nghịch mà lại thấp thống những suy tưởng sâu sắc
- Tác phẩm chính: Vầng trăng quần lửa (1971), Thơ một chặng đường( 1994)
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ: Bài thơ được viết 1969 thời điểm mà cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của nhân dân đang diễn ra ác liệt. Bài thơ đạt giải nhất trong cuộc thi thư do báo Văn nghệ
tổ chức năm 1969, sau đó được đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa
b. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm
c. Thể loại: Tự do
d. Đề tài- chủ đề:
- Đề tài: Chiến tranh và người lính
- Chủ đề: Tinh thần lạc quan, tư thế hiên ngang của người lính, bất chấp khó khăn
nguy hiểm, hồn thành nhiệm vụ vận tải, góp phần vào cơng cuộc giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước
II. Kiến thức trọng tâm
1. Nhan đề: “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
→ Nhà thơ chẳng hề né tránh thực tại chiến tranh khốc liệt mà cịn nhấn mạnh tính chất
khốc liệt đó: “ xe khơng kính”, “ tiểu đội”
→ “ Bài thơ” vừa nhắc cho độc giả biết đây là một bài thơ vừa thể hiện được tư duy nghệ
thuật của tác giả: chất thơ được phát hiện và xây dựng trong chính sự vật hiện tượng tưởng
như trần trụi, thơ ráp, xấu xí
2. Hình ảnh những chiếc xe khơng kính


“ Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”


- “ Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính” : giải thích việc xe khơng có kính
khơng phải là do thiếu thốn vật tư, vật liệu sản xuất , cũng chẳng phải do sản phẩm bị lỗi
- Hình ảnh:
+ “ Bom giật”
+ “ bom rung”
→ Sự tàn khốc của chiến tranh là nguyên nhân dẫn đến việc xe bị hư hại : “ xe khơng
kính”, “ kính vỡ đi rồi” (kính là phần dễ vỡ nhất, mỏng manh nhất)
→ Giải thích của người lính về “ xe khơng kính”, chỉ ra lí do vì sao xe khơng kính
=> Cùng với sự hư hại của chiếc xe là những khó khăn, gian khổ, phiền tối của người
chiến sĩ cầm lái và cũng là dấu hiệu của nguy hiểm rình rập
3. Hình ảnh người chiến sĩ lái xe
“ Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
- Từ ngữ: “ Ta” tức là tôi, nhưng cũng tức là bạn là những người đồng đội, đồng chí,
những người trong cuộc đang cầm lái những chiếc xe đặc biệt
- Hình ảnh: “ Ung dung buồng lái ta ngồi” ( biện pháp đảo ngữ) → Tư thế ung dung,
bình tĩnh, thoải mái, khơng vội vàng
- Điệp ngữ: “ nhìn” → nhấn mình sự tập trung cao độ vào cơng việc, ý thức sâu sắc về
trách nhiệm, sẵn sàng đối mặt với khó khăn, nguy hiểm
- Hình ảnh:
+ “ Nhìn đất”
+ “ nhìn trời”
+ “ nhìn thẳng”
→ Tư thế hiên ngang, tự chủ, “ đầu đội trời chân đạp đất”
→ Nhìn thẳng vào gian khổ, hi sinh, không run sợ, không né tránh
- Nhịp thơ: 2/2/2 → diễn tả ánh nhìn mạnh mẽ, dứt khốt, bình tĩnh

“ Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
- Điệp ngữ “ Nhìn thấy” → nhấn mạnh
- Hình ảnh:


+ “ gió vào xoa mắt đắng” ( nhân hóa) → diễn tả ngọn gió vừa tinh nghịch, vừa trìu
mến
+ “ con đường chạy thẳng vào tim” →vừa thấy được tốc độ rất nhanh của chiếc xe vừa
thấy được một sự liên tưởng táo bạo của tâm hồn trẻ
+ “ Sao trời”, “cánh chim” càng với hành động “như sa như ùa vào buồng lái” → sự
ghé thăm bất ngờ
=> Tình yêu cuộc sống, niềm say mê với thiên nhiên, tâm hồn lãng mạn luôn hướng đến
sự tự do của người lính lái xe. Ngoại cảnh và người lái khơng có gì ngăn cách, tiếp xúc
trực tiếp với nhau.
- Hình ảnh:
+ “ con đường chạy thẳng vào tim” → xe đang đi trên đoạn đường thẳng
+ “ sao trời” → xe đi lên dốc hoặc đi vào lúc trời tối
+ “ đột ngột cánh chim” → xe đột ngột lên dốc
→ Gợi lên địa thế con đường cheo leo, hiểm nguy nhưng đầy thú vị
“ Khơng có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Khơng có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khơ mau thơi”

- Hình ảnh + biện pháp so sánh
+ “ Bụi phun tóc trắng như người già”
+ “ Mưa tn, mưa xối như ngồi trời”
→ Những khó khăn gian khổ mà người lính phải đối mặt khi lái những chiếc xe khơng
kính đặc biệt là bụi và mưa
- Cách nói:
+ “ ừ thì có bụi”
+ “ ừ thì ướt áo”
+ “ Chưa cần thay”
+ “ Chưa cần rửa”
→ Cách nói đậm chất khẩu ngữ, vừa gản dị dứt khốt lại có phần tếu táo của người lính
trẻ


- Hình ảnh:
+ “ phì phèo châm điếu thuốc”
+ “ mặt lấm cười ha ha”
+ “ lái trăm cây số nữa”
+ “ Mưa ngừng, gió lùa khơ mau thơi”
→ Cách đối mặt, giải quyết khó khăn rất đặc biệt
→ Thái độ lạc quan, bất chấp khó khăn coi thường gian khổ. Một tâm hồn trẻ trung yêu
đời, nhìn ra được niềm vui, sự hài hước trong chính hiện thực tàn khốc của chiến tranh
=> Tám câu thơ tái hiện chân thực trần trụi những khó khăn gian khổ mà người lính gặp
phải đồng thời thấy được tâm hồn trẻ trung, sơi nổi, tinh nghịch, phớt lờ khó khăn gian
khổ của họ
“ Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”
- Hình ảnh: “ Những chiếc xe từ trong bom rơi” → những chiếc xe gan góc, đã qua thử

thách → Người cầm lái dũng cảm, vượt qua thử thách của bom đạn chiến tranh
- Hình ảnh: “ Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” → cái bắt tay thay cho một lời chào, hỏi
thăm, động viên, sự thấu hiểu nhau, tiếp thêm sức mạnh, ý chí để vượt qua gian khổ
- Hình ảnh: “ Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới” → những người gặp nhau trên đường đi
tới giải phóng miền Nam mới thực sự là bạn, con “ đường đi tới” là đường chính nghĩa,
càng đi càng gặp nhiều bạn
“ Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình ấy
Võng mắc chơng chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
- Hình ảnh:
+ “ Bếp Hoàng Cầm”
+ “ bát đũa”
+ “ võng”
→ Những người lính lái xe nghỉ ngơi bên nhau, ăn uống cùng nhau, cùng nhau giấc ngủ
→ Khơng khí n bình đầm ấm giữa chiến trường bom đạn ( ngắn ngủi)


- Điệp ngữ: “ lại đi” → nhấn mạnh việc đồn xe khơng ngừng tiến về trước
- Hình ảnh: “ trời xanh thêm” → trời đẹp, bầu trời bình yên, khơng gian cao xa, viễn cảnh
rộng lớn ( hình ảnh đậm chất thơ, giàu ý nghĩa)
→ Quyết tâm giải phóng dân tộc, giành lấy hịa bình ( bầu trời xanh)
“ Khơng có kính rồi xe khơng có đèn
Khơng có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

- Điệp từ: “ Khơng có” ( lặp lại 3 lần)
- Hình ảnh:
+ “ kính”

+ “ đèn”
+ “ mui xe”
- Hình ảnh “ thùng xe có xước” ( cái có thì bị hư hỏng)
→ Những mất mát, khó khăn dồn dập, những thử thách dường như tăng lên đến vô cùng
mà người lính lái xe phải đối mặt
- Hình ảnh:
+ “ xe vẫn chạy”
+ “ trong xe có một trái tim” ( hốn dụ)
→ Quyết tâm giải phóng miền Nam, tình u miền Nam là sức mạnh vô song, chỉ cần một
trái tim u nước thương nịi người lính đã có đủ sức mạnh vượt qua những khó khăn, mất
mát
→ Khẳng định xe chỉ ngừng chạy khi trái tim người chiến sĩ ngừng đập
=> 12 câu thơ thể hiện tình đồng chí đồng đội cảm động và lí tưởng chiến đấu cao đẹp của
người lính

BÀI ĐỌC THAM KHẢO
BÀI SỐ 1
Phạm Tiến Duật( 1941 -2007) là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ
ca Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, thơ của ơng chủ yếu viết về hình
ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua các hình tượng người lính và
cơ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử, tiêu biểu là bài thơ


" bài thơ tiểu đội xe khơng kính" ra đời năm 1969 khi cuộc kháng chiến của quân
và dân ta đang diễn ra ác liệt. Qua việc khắc họa hình ảnh độc đáo những chiếc xe
khơng kính nhà thơ làm nổi bật tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan bất chấp mọi
khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam của những người lính
lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.
Trước hết nguồn cảm hứng của bài thơ bắt đầu từ hình ảnh độc đáo: hình ảnh những
chiếc xe khơng kính, những chiếc xe khơng kính của Phạm Tiến Duật là hình ảnh thực,

thực đến mức trần trụi.
"Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi"
Cấu trúc câu thơ dưới hình thức hỏi đáp, ba từ " khơng" đi liền nhau thể hiện cách nói hồn
nhiên đầy chất lính, tác giả giải thích nguyên nhân xe mất kính là do bom giật, bom rung,
đó chính là sự khốc liệt của chiến tranh, nhưng trải qua mưa bom bão đạn những chiếc xe
càng trở nên méo mó biến dạng.
"Khơng có kính, rồi xe khơng có đèn,
Khơng có mui xe, thùng xe có xước"
Nhưng kì diệu thay, những chiếc xe khơng cịn ngun vẹn ấy vẫn kiên cường vượt qua
mọi thử thách mưa bom, tiến về miền Nam yêu dấu, những chiến sĩ lái xe đã tạo nên sức
mạnh ấy.
Nét đẹp đầu tiên ta bắt gặp ở những người chiến sĩ lái xe là tư thế hiên ngang, dũng cảm,
tâm hồn trẻ trung, lãng mạn:
"Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng"
Từ láy " ung dung" được đảo lên câu đầu kết hợp với từ " nhìn" được lặp lại ba lần đã
khắc họa một tư thế thật đẹp của người lính, họ vẫn ung dung ngồi trong buồng lái khi mà
sự sống và cái chết chỉ cách nhau một gang tất, cụm từ" nhìn thẳng" được dùng thật hay,
nhìn thẳng là nhìn vào con đường trước mắt, nhìn thẳng vào gian khổ nhưng khơng hề run
sợ né tránh.
Không chỉ đẹp ở tư thế hiên ngang, dũng cảm người lính cịn rất đáng u bởi tâm hồn trẻ
trung lãng mạng.
"Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái"
Những câu thơ nhanh, gấp mà nhịp nhàng như bánh xe lăn đều trên đường, bằng việc sử
dụng phép điệp ngữ " nhìn thấy" kết hợp động từ" xoa, chạy thẳng, sa, ùa", tác giả đã diễn
tả cảm giác mạnh và đột ngột của người chiến sĩ lái xe khi ngồi trong buồng lái, qua ô cửa



kính vỡ trong tư thế " nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng", người lính như cảm nhận được vẻ
đẹp của thiên nhiên, đặc biệt " con đường chạy thẳng vào tim" là hình ảnh đặc sắc gợi lên
tốc độ của chiếc xe đang nhanh trên con đường, nó cũng là hình ảnh mang ý nghĩa biểu
tượng của con đường cách mạng, con đường chiến đấu giải phóng miền Nam, người lính
chỉ quan tâm tới nhiệm vụ khơng hốt hoảng sợ hãi dường như tất cả thiên nhiên vạn vật
đồng hành cùng họ tiến về phía trước.
Xe khơng kính biết bao nguy hiểm nhưng người lính vẫn vượt lên hồn cảnh bằng tinh
thần lạc quan, bất chấp mọi gian khổ.
"Khơng có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Khơng có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tn, mưa xối như ngồi trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khơ mau thơi"
Ngồi sự ác liệt của chiến tranh, các chiến sĩ còn phải chịu nhiều gian khổ bởi sự khắc
nghiệt của thiên nhiên, thời tiết, những câu thơ trên đầy ắp chất sống hiện thực ở chiến
trường, hiện thực đầy gian khổ nhưng các chiến sĩ đã bình thường hóa cái gian khổ ấy,
chấp nhận nó như một tất yếu vẫn đùa vui, tếu táo: "Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.", một
tâm hồn đáng u sơi nổi làm sao? đó cịn là bản lĩnh kiên cường của những người chiến
sĩ, vẻ đẹp ấy còn được tác giả khắc họa bằng giọng thơ trẻ trung như lời nói của miệng
"Khơng có kính, ừ thì có bụi", , gian khổ là vậy nhưng qua cách nhìn của những người
lính thì vơ cùng nhẹ nhàng, bởi lòng dũng cảm đã trở thành cốt lõi, bản chất người lính
trong cuộc chiến đấu.
Trong gian lao thử thách tình đồng chí, đồng đội của họ càng thêm sâu nặng, thắm thiết.
"Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Nhịp thơ như lắng lại, những người chiến sĩ nói về đồng đội cũng như đang nói về mình,
họ gặp nhau từ chỗ bom rơi, nghĩa là từ chỗ ác liệt của cuộc chiến, cũng từ nơi này họ
đồng cảm chia sẻ và trở thành bạn bè, họ chào nhau bằng những cử chỉ hết sức thân mật
"Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.", đó là niềm vui, lời động viên và chúc mừng nhau khi vượt
qua khó khăn, là niềm tự hào sau mỗi lần chiến thắng.
Cảnh sinh hoạt của người lính bữa ăn giấc ngủ được khắc họa bằng hai hình ảnh " bếp
hoàng cầm, võng mắc" tất cả đều tạm bợ nhưng cách nhìn, cách nghĩ rất cảm động: " gia


đình đấy" họ coi nhau như anh em trong nhà, càng thiếu thốn thì càng xích lại gần nhau,
tiếp thêm sức mạnh để đi tiếp chặng đường mới và làm lên chiến thắng.
Điệp ngữ " lại đi" có ý nghĩa khẳng định đồn xe khơng ngừng tiến về phía trước khẩn
chương và kiên cường, hình ảnh ẩn dụ "trời xanh thêm" gợi lên tâm hồn lạc quan" phơi
phới tràn đầy niềm tin, hi vọng của người lính lái xe.
Bốn câu thơ cuối bài đã hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe bởi ý
chí chiến đấu giải phóng miền Nam và lịng u nước nồng nhiệt của họ:
"Khơng có kính, rồi xe khơng có đèn
Khơng có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim"
Bằng việc sử dụng biện pháp liệt kê " khơng có kính, khơng có đèn, khơng có mui xe,
thùng xe có xước" kết hợp với điệp ngữ " khơng có" hai câu đầu của khổ thơ không chỉ
nhấn mạnh sự thiếu thốn về vật chất mà còn diễn tả sự mất mát đau thương dồn dập của
tiểu đội xe khơng kính do bom đạn của quân thù dội xuống càng về cuối cùng càng ác liệt,
nhưng điều kì lạ là những chiếc xe khơng cịn ngun vẹn ấy vẫn tiếp tục đi " xe vẫn chạy
vì miền Nam phía trước"
Câu thơ cuối cùng như đọng lại một tâm huyết, cũng như một lời giải thích cho tất cả
những điều kì lạ đẹp đẽ: "Chỉ cần trong xe có một trái tim"

Trái tim là hình ảnh hốn dụ, là hình ảnh u nước nồng nàn, trái tim của ý chí chiến đấu
giải phóng miền Nam thân yêu, trái tim dũng cảm, trái tim ấy có sức mạnh vơ biên, mạnh
hơn mọi lỗi nguy lan, mạnh hơn mọi thứ bom đạn, mạnh hơn cả cái chết, sức mạnh quyết
định chiến thắng không phải là cơng cụ vũ khí mà chính là con người mang trái tim nồng
nàn yêu nước, kiên cường dũng cảm, có thể nói bai thơ hay nhất ở câu thơ cuối, nó như
con mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng người lính.
Thực vậy bằng thể thơ tự do ngơn ngữ bình dị, tự nhiên, giọng điệu pha chút ngang
tàng, tinh nghịch, hình ảnh thơ chân thực, độc đáo " bài thơ về tiểu đội xe khơng kính"
của Phạm Tiến Duật" đã khắc họa thành công bức chân dung độc đáo về người chiến sĩ
lái xe Trường Sơn với những nét đẹp về tâm hồn tình cảm, tinh thần của họ chính là tiêu
biểu cho vẻ đẹp của những người lính anh bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng.
"Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai"
Chúng ta mãi yêu mến, tự hào về họ - những con người đẹp nhất trong thời đại Hồ Chí
Minh.


BÀI SỐ 2
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ.
Những sáng tác của ông lôi cuốn người đọc không phải bằng ngôn từ hoa lệ, trau chuốt
mà bằng sự mạnh mẽ, bằng hiện thực cuộc sống. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe khơng
kính” tiêu biểu cho phong cách sáng tác độc đáo đó. Hình ảnh người lính hiện lên đậm nét
qua ngòi bút sắc sảo của Phạm Tiến Duật.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ tàn khốc, ác liệt đã khiến nhân dân phải rơi vào cảnh
lầm than, đất nước điêu đứng. Những người chiến sỹ vượt qua gian lao để làm nhiệm vụ
bảo vệ tổ quốc. Hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ được đặc tả chân thực, sâu sắc qua
những vần thơ của Phạm Tiến Duật.
Tác giả mở đầu bài thơ bằng một lời khẳng định chắc nịch:
Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính

om giật bom rung kính vỡ đi rồi
Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá nhưng tác giả đã vẽ lên bức tranh hiện thực tàn
khốc của chiến tranh. Tác giả đưa ra một lý do hiển nhiên, đủ sức thuyết phục cho việc
chiếc xe khơng có kính. Hai từ “khơng” được đặt trong một câu thơ đã khẳng định rằng
đó là sự thật hiển nhiên, bọn Mỹ độc ác đã trút bao nhiêu hận thù xuống mảnh đất đầy đau
thương này. Những lời thơ của tác giả gần gũi với lời ăn tiếng nói của mỗi người nên rất
dễ hiểu, dễ thấm.
Sang đến câu thơ thứ ba, hình ảnh người lính bộ đội cụ Hồ hiện lên với phong thái hiên
ngang, oai phong:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Với biện pháp đảo trật tự cú pháp, tính từ “ung dung” được đặt ở đầu câu đã nhấn mạnh
tư thế ngồi lái xe đầy kiêu hãnh, có thể làm chủ được chiến trường mà không hề nao núng.
Đại từ “ta” vừa là chính mình, vừa mang ý nghĩa đại diện cho nhiều người, cho một quốc
gia luôn trong tâm thế sẵn sàng đánh địch. Đây là một thủ pháp nghệ thuật đầy ẩn ý của
chính tác giả. Trước mắt người chiến sỹ là trời đất bao la, rộng lớn, phải tiến về phía trước
thì mới có thể giành được chiến thắng. Từ “nhìn” ở câu thơ tiếp theo được lặp lại 3 lần
như khẳng định sự kiên trì, vững vàng và tập trung cao độ cho trận chiến.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái


Hai câu thơ này đã có sự chuyển đổi cảm giác thật tinh tế, nhạy cảm. Từ “nhìn” khơng
cịn giữ nguyên nghĩa gốc nữa mà đã chuyển sang ý nghĩa khác. Lúc này khơng những
nhìn thấy đường, thấy trời đất, mà thấy cả “gió vào xoa mắt đắng”, “thấy con đường chạy
thẳng vào tim”. Có lẽ trong lịng người chiến sỹ đang có một ý chí quyết tâm cao độ nên
mới cảm nhận được sự tinh tế cũng như nhận ra những hiểm nguy phía trước, vẫn cố gắng
kiên cường để vượt qua. Một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm lên phía trước.

Hiện thực chiến tranh khơng cịn khốc liệt, đan xen vào đó là sự hóm hỉnh, vui tươi của
những người lính cách mạng. Các anh đã liên tưởng đến một không gian lãng mạn, vui
tươi giữa cảnh bom đạn khốc liệt. Những ngôi sao trên trời cao và những cánh chim chao
liệng ở phía ngồi kia khiến người lính cách mạng cứ ngỡ như đang “sa”, đang “ùa” vào
buồng lái.
Đến đoạn thơ sau tác giả đã diễn tả được sự khốc liệt của chiến tranh:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Khơng có kính ừ thì ướt áo
Mưa tn mưa xối như ngồi trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khơ mau thơi.
Hiện thực chiến tranh khốc liệt, tàn khốc được vẽ lên qua ngịi bút chân thực của tác giả.
Với ngơn ngữ giản dị, gần gũi với đời sống của con người. Một từ “ừ” khiến cho câu thơ
trở nên nhẹ tênh, không một chút do dự hay vướng bận. Một từ “ừ” khiến cho tâm trạng
của những người lính trở nên nhẹ nhõm hơn. Sự khốc liệt của chiến tranh và thiên nhiên
khơng làm chùn bước, ý chí của những người lính cách mạng.
Điệp từ “chưa cần” càng khẳng định tâm thế hiên ngang, bất cần đời của anh bộ đội cụ
Hồ. Nhưng chính điều này đã làm nên phong cách “ngơng”, phong thái ung dung cần phải
có trong cuộc kháng chiến đầy ác liệt như thế này.
Và trong cuộc chiến tranh gian lao, thử thách như thế này tình cảm đồng chí, đồng đội
ln được đề cao và khẳng định:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Hình ảnh thơ thật đẹp, thật đáng ngưỡng mộ. Vượt qua bao nhiêu bom đạn, thử thách
những chiếc xe từ trăm mọi ngả đường đã về một nơi tụ hội, để kể cho nhau nghe những

trận chiến đã vượt qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” thực sự khiến người
đọc ứa nước mắt, vì nó thật đẹp và cao cả.


Tình cảm thân thiết, gắn bó giữa những người đồng đội dường như khiến cho cuộc chiến
tranh bớt tàn khốc, bớt ảm đạm hơn. Dù trong mọi hồn cảnh thì tình cảm ln có thể
chiến thắng tất cả. Nó là sức mạnh tạo nên sự đoàn kết, niềm tin chiến thắng.
Có lẽ đoạn thơ cuối là đoạn thơ đẹp nhất, ấn tượng nhất:
Khơng có kính rồi xe khơng có đèn
Khơng có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Một lần nữa Phạm Tiến Duật khẳng định sự tàn khốc của chiến tranh, nhưng hơn
hết vẫn là ý chí, là niềm tin và sự nỗ lực vì miền Nam phía trước. Hình ảnh “trái tim” ở
cuối bài thơ như mở ra một không gian nghệ thuật thật nên thơ, trữ tình.
Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành cơng
hình ảnh người chiến sỹ trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước vừa kiên cường, vừa
hiên ngang. Đó là một hình ảnh đẹp xuyên suốt cả bài thơ.

BÀI SỐ 3
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới vẫy tương lai”
Đó là những câu thơ vơ cùng tuyệt đẹp mà nhà thơ Tố Hữu đã viết ra để ca ngợi cả một
thế hệ những chàng trai, cô gái thanh niên xung phong đã dũng cảm từ giã gia đình, từ bỏ
giảng đường đại học để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc. Họ ra đi và dấn thân
vào con đường Trường Sơn máu lửa, nơi bom đạn kẻ thù liên tiếp dội xuống, nơi sự sống
và cái chết trở nên mong manh với một niềm tin niềm lạc quan phơi phới vào tương lai
đất nước. Và viết về những người lính trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy, ta không thể
nhắc đến bài thơ “Bài thơ tiểu đội xe khơng kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Bài thơ khắc họa thành cơng hình tượng những người lính lái xe trên tuyến đường

Trường Sơn trong những năm chống Mĩ với một tư thế hiên ngang dũng cảm, coi thường
mọi gian khổ khó khăn, quyết tâm hồn thành nhiệm vụ, giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước. Hình ảnh những chiếc xe khơng kính và thái độ ung dung của người chiến sĩ lái
xe khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng:
“Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”


Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh những chiếc xe khơng kính với một cách nói rất tự nhiên,
mộc mạc, vịng vèo pha chút lính. Lời thơ giản dị, tự nhiên, gần gũi như chính cuộc sống
đời thường đi vào trong trang viết. Nhưng ẩn sau những lời thơ giản dị, mộc mạc ấy là
một hiện thực chiến tranh vô cùng khốc liệt, là cảnh mặt đường bị cày nát, loang lổ những
hố bom. Hình ảnh những tấm kính chắn gió xe bị vỡ vụn tan tành, vì “bom giật, bom rung”
rú gầm dữ dội là chứng nhân của cuộc chiến đấu gian nguy và khốc liệt của người lính lái
xe. Biết bao gian khổ hiểm nguy đang rình rập, đe doạ tính mạng con người. Vậy mà kỳ
lạ thay khi nói về nó giọng điệu người lính trẻ rất thản nhiên, vô tư, nhẹ nhàng. Phải là
một con người dũng cảm không sợ gian khổ, không sợ hi sinh mạng sống của bản thân
mình mới có cách nói nhẹ tênh, tự nhiên như thế:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Từ láy “ung dung” gợi lên hình ảnh người lính đang ở trong một tư thế, dáng ngồi bình
thản, tự do tự tại, ngang tàng, ngạo nghễ, không hề bận tâm lo lắng, sợ hãi. Điệp từ “nhìn”
cho ta cảm giác người lính đang mở rộng tầm mắt của mình nhìn về phía bầu trời cao rộng.
Đặc biệt, từ nhìn thẳng nhấn mạnh thái độ dứt khoát, tự tin của một con người sẵn sàng
đối đầu với mọi khó khăn thử thách đang chờ đợi mình trên con đường phía trước. Bởi
khơng có kính cho nên thiên nhiên đất trời rộng mở trước mắt người lính. Những cản vật
đối với việc lái xe an toàn giờ đây cứ chực sa, chực ùa vào buồng lái:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Ngồi trong khoang lái khơng có kính chắn gió, người lính có dịp nhìn thẳng vào thiên
nhiên trước mắt mình và anh có cảm giác con đường trước mặt đang lao về phía mình.
Những cơn gió ùa vào buồng lái như xoa dịu đôi mắt đắng vì bụi đường. Đặc biệt các anh
cảm nhận cánh chim và những vì sao lung linh trên bầu trời như sa, như ùa vào buồng lái
để bầu bạn, tâm tình trên vạn dặm trường chinh.
Cảnh vật lướt qua thật nhanh trong mắt người chiến sĩ. Qua cách cảm nhận hồn nhiên, vơ
tư ấy, ta hình dung chiếc xe đang lao đi với một tốc độ rất nhanh. Hình ảnh con đường
chạy thẳng vào tim vừa là hình ảnh thực miêu tả tốc độ lao nhanh của chiếc xe đồng thời
là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho con đường lý tưởng. Đó là con đường ra tiền tuyến, con
đường chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc mà người lính tự nguyện dấn thân theo đuổi
trong suốt cuộc đời mình.
Mặt khác hình ảnh thiên nhiên hiện lên trong bài thơ này với vẻ đẹp nên thơ của một bầu
trời cao lồng lộng với ánh trăng sao lung linh tỏa sáng giữa màn đêm, với một cánh chim
trời lướt ngang mạnh mẽ cho thấy một nét đẹp trong tâm hồn người lính. Đó là những con


người có tâm hồn lãng mạn, yêu đời. Mặc dù con đường hình ảnh đầy gian khổ nhưng
người lính vẫn mở rộng lịng mình ra để đón nhận vẻ đẹp thiên nhiên đất trời và tạo vật
dù chỉ là trong khoảnh khắc.
Những gian khổ trên con đường hành quân và tinh thần chịu đựng gian khổ khẳng định
bản lĩnh phi thường của người lính lái xe:
“Khơng có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Khơng có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tn, mưa xối như ngoài trời

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khơ mau thơi.”
Vì lái những chiếc xe khơng kính cho nên suốt con đường hành qn, người lính phải chịu
biết bao gian khổ, nào mưa tn, mưa xối, nào bụi phun trắng như người già, rồi thì ướt
áo, mặt mày lấm lem vì bụi đường. Biết bao gian khổ, bức bối, khó chịu, nhưng đã là lính
thì phải.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc, nhìn nhau mặt cười ha ha. Chưa cần thay lái trăm
cây số nữa, mưa ngừng gió lùa khơ mau thơi là cách nói đầy lạc quan tin tưởng. Đã là lính
thì phải biết coi thường gian khổ, dù mưa gió, bụi bẩn, quần áo ướt sũng thì cũng phải
vượt qua. Lúc nào cũng phải vững vàng tay lái, tiếp tục đưa xe băng băng ra chiến trường
tiếp viện. Đã là lính thì phải biết vượt qua mọi gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ.
Từ chi tiết này ta nhận ra một nét đẹp trong tâm hồn người lính đó là những con người có
trách nhiệm cao độ. Con người biết coi thường gian khổ của bản thân. Đặc biệt là những
người lính trẻ trung, sôi nổi, tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống. Họ luôn biết
mỉm cười dù trong mọi hồn cảnh khó khăn.
Cái tiếng cười ha ha, tếu táo, nghịch ngợm không chỉ thể hiện sự hồn nhiên, trẻ trung, sơi
nổi của người lính, mà cịn thể hiện bản lĩnh, tinh thần lạc quan của họ. Nó khiến ta liên
tưởng đến miệng cười buốt giá của những anh vệ quốc quân trong giai đoạn kháng chiến
chống Pháp trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Nụ cười ấy giúp con người quên đi
mọi gian khổ, có thêm niềm tin sức mạnh vượt qua bom đạn và chông gai trên con đường
phía trước. Chính trên quãng đường đầy hiểm nguy ấy, tình đồng chí đồng đội được củng
cố, bồi đắp bằng sự cảm thông, tin tưởng sâu sắc:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội


Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hồng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chơng chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Tình cảm đồng đội, đồng chí của người lính lái xe đêm khơng phải chỉ được hình thành ở
nơi dầu sơi lửa bỏng, nơi chiến trường đạn bom ác liệt, hay trong lúc “súng bên súng, đầu
sát bên đầu”, cùng chung vai sát cánh trong chiến đấu, mà còn là lúc dựng bếp giữa trời.
Tình đồng đội được gắn kết khi ta cùng chung bát đũa, chung bữa cơm dã chiến trên rừng.
Chiếc võng mắc chông chênh đường xe chạy, ta nằm cùng nhau kể lể chuyện tâm tình.
Chỉ vậy thơi trong những phút giây gặp gỡ vơ cùng ngắn ngủi, tình cảm đồng đội, đồng
chí vẫn được hình thành thiêng liêng gắn bó, sâu đậm, thân thiết, như những người ruột
thịt trong gia đình. Vẫn đau lịng xót xa khi nghe tin một đồng đội ngã xuống, và sững sờ
khi một ngày nào đó trên con đường ra trận, họ gặp lại bạn mình.
Họ trao nhau một cái bắt tay, một nụ cười, ánh mắt, lời nói và trao nhau biết bao tình u
thương nồng nàn ấm áp. Để từ đó họ trao nhau niềm tin sức mạnh, động viên nhau vượt
qua những khó khăn gian khổ trên con đường phía trước. Sau những giây phút ngắn ngủi
đó, họ tiếp tục ra đi “lại đi lại đi trời xanh thêm”. Đi để nhìn thấy bầu trời trong xanh,
khơng cịn thấy khói súng, bom đạn của kẻ thù. Đi để đất nước được hồ bình thống nhất.
Một lần nữa, hình ảnh chiếc xe khơng kính lại hiện ra, đóng khép lại khúc ca ra trận hào
hùng:
“Khơng có kính, rồi xe khơng có đèn,
Khơng có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Điệp từ “không” lặp đi lặp lại nhiều lần như nhấn mạnh một hiện thực chiến tranh tàn
khốc, với hình ảnh một chiếc xe méo mó, biến hình biến dạng. Hiểm nguy rình rập trên
từng bước đường xe chạy. Cái khốc liệt của chiến tranh hiển hiện ngay trên những vết đạn
còn in dâu trên thân xe. Thế nhưng dù gian khổ, nguy hiểm, dù chiến tranh có tàn khốc
thế nào đi chăng nữa, những người lính vẫn đinh ninh đưa xe tiến về phía trước, về miền
Nam thân u.
Chính sức mạnh của tình u nước đã thơi thúc, khơi dậy nơi người lính lịng quả cảm,
biến họ thành những anh hùng của thời đại. Những trái tim nhiệt tình u nước, những

trái tim mang khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đang toả sáng sôi sục
trong tâm hồn của người lính trẻ. Họ mong muốn góp sức, hiến máu xương mình cho cuộc


kháng chiến trường kỳ của dân tộc, để đất nước được hồ bình thống nhất, nhà nhà đồn
tụ, cuộc sống con người ngày càng tốt đẹp hơn. Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước bởi
trong xe ln có một trái tim tràn trào khí phách.
Như một lời khẳng định đinh ninh, dứt khốt, thể hiện ý chí quyết tâm giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước của cả thế hệ thanh niên Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến
chống Mỹ ngày đó. Chính nhờ có lịng u nước nồng nàn đó, những người lính của chúng
ta đã góp sức mình làm nên những chiến thắng vẻ vang trong lịch sử chống giặc ngoại
xâm của dân tộc.
Phạm Tiến Duật đã viết nên những lời thơ giản dị, tự nhiên, đậm chất khẩu ngữ như lời
ăn, tiếng nói trong cuộc sống thường ngày. Hình ảnh thơ chân thật, giản dị như lấy ra từ
chính hiện thực chiến đấu đã làm cho bài thơ nét đẹp riêng rất chân thành, mộc mạc và rất
đỗi sâu sắc.
Hình ảnh người lính anh hùng, dũng cảm, lạc quan, yêu đời, coi thường gian khổ để hồn
thành nhiệm vụ, biết hi sinh bản thân mình vì nghĩa lớn, vì nhân dân, vì đất nước là nguồn
cảm hứng bất tận trong thơ ca kháng chiến. Lý tưởng sống vì mọi người, tinh thần “quyết
tử cho tổ quốc quyết sinh” có vai trị cổ vũ người lính tiến lên phía trước. Thậm chí, dẫu
có bị thương, họ vẫn “ung dung” xem thường nghịch cảnh:
“Cái vết thương xoàng mà đưa viện
Hàng cịn chờ đó tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.”
(Bài ca lái xe đêm – Tố Hữu)
Trước lời kêu gọi lên đường của tổ quốc, những chàng trai trẻ đã không ngần ngại bước
đi. Nhà thơ Thanh Thảo trong bài thơ “Khúc bảy” đã có những lời phân trần chân thực,
hết sức đáng yêu:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

(Những tuổi hai mươi làm sao khơng tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì cịn chi Tổ quốc?”
Đáp lời sông núi, cả những cô gái trẻ như Nho, Phương Định (Những ngôi sao xa xôi –
Lê minh Khuê) cũng đã dũng cảm rời bỏ quê hương yên bình, biết bao thân thuộc, mến
yêu để đến nơi rừng núi, hòa vào cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược của dân tộc.
Đó là những con người “Sống hiên ngang bất khuất trên đời”. Họ đã dũng cảm “không
tiếc đời mình” vì hạnh phúc cuối cùng của tồn dân tộc. Họ chính là linh hồn dân tộc, là
sức mạnh của sơng núi q hương. Tố Hữu đã ví những con người trẻ tuổi ấy là những
“Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi”. Họ là con của nhân dân, bình dị, khiêm tốn, gần gũi
nhưng vĩ đại – cái vĩ đại của một thế hệ anh hùng.


Anh bộ đội cụ Hồ chính là sự kết tinh cao độ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc suốt
trong bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Hình ảnh người chiến sĩ mãi là hình ảnh đẹp
nhất trong thơ, mãi là chân dung đẹp nhất của thời đại chúng ta
Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính là bài ca ca ngợi sức mạnh chiến đấu của người
lính Việt Nam thời kháng Mĩ cứu nước. Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động
lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Sức
mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ
là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như
Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu).



×