Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Một số biểu hiện ứng phó tiêu cực của học sinh bị bạo lực học đường tại các trường trung học cơ sở ở thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.8 KB, 6 trang )

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 491 (Kì 1 - 12/2020), tr 22-27

ISSN: 2354-0753

MỘT SỐ BIỂU HIỆN ỨNG PHÓ TIÊU CỰC
CỦA HỌC SINH BỊ BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG
TẠI CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Nguyễn Thị Mai Hương
Article History
Received: 10/10/2020
Accepted: 28/10/2020
Published: 05/12/2020
Keywords
school violence, secondary
school students, coping,
school social work.

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Email:
ABSTRACT
School violence in schools is a painful problem that needs to be addressed
today. Based on the survey of 482 students at 4 secondary schools from
grades 6 to 9 in Hanoi who have experienced at least 1 violence in the past
3 months, the article analyzes the negative responses of students
experiencing school violence, namely: responding with negative thoughts,
responding with negative emotions and acting negatively. Research results
show that students who have had negative reactions affecting their mental
health, learning and life, even becoming the perpetrators of violence with
other people. Since then, the article proposes a number of social work


activities in schools to enhance students' capacities to help them respond
positively to school violence.

1. Mở đầu
Bạo lực học đường (BLHĐ) trong trường học là một vấn nạn nhức nhối cần phải giải quyết hiện nay. Với học
sinh (HS), BLHĐ là một tình huống nguy hiểm mà khơng ít HS phải đối mặt ở trường học. Trước những tình
huống bạo lực xảy ra, mỗi HS có các cách ứng phó khác nhau. Nếu HS có cách ứng phó tích cực sẽ giúp các em
giải quyết được mâu thuẫn và có nhiều kĩ năng; tuy nhiên, nếu HS thực hiện những cách ứng phó chưa phù hợp,
sẽ ảnh hưởng đến tâm lí và hoạt động học tập của các em, các mối quan hệ với bạn bè có nguy cơ bị phá vỡ bởi
những mâu thuẫn chưa giải quyết được. Ở lứa tuổi THCS, HS đang trong giai đoạn phát triển tâm lí và nhận thức
xã hội khơng cân bằng với phát triển sinh học. Điều này đã ảnh hưởng đến cách ứng phó của HS khi gặp những
khó khăn trong cuộc sống, trong đó có BLHĐ. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra là bên cạnh những cách ứng phó tích
cực như biết cân bằng cảm xúc, có suy nghĩ tích cực và biết tìm các nguồn lực trợ giúp khi bị bạo lực, thì nhiều
HS sử dụng cách ứng phó tiêu cực về suy nghĩ nhận thức, về cảm xúc và hành động. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng
đến cách ứng phó của HS, bao gồm yếu tố cá nhân HS và sự tác động của môi trường xã hội. Có nhiều cách hỗ
trợ HS bị BLHĐ nâng cao năng lực và kĩ năng ứng phó cho HS trước các hành vi bạo lực, trong đó có cách tiếp
cận dưới góc độ của công tác xã hội trường học.
Bài báo tập trung tìm hiểu về các cách ứng phó của HS khi bị BLHĐ, trong đó phân tích các biểu hiện ứng phó
tiêu cực của HS, như: cảm xúc, nhận thức và hành động của HS trước các hành vi bạo lực tại các trường THCS ở
TP. Hà Nội; từ đó đề xuất một số biện pháp của công tác xã hội trong trường học để nâng cao năng lực và kĩ năng
của cá nhân HS cũng như cải thiện mơi trường học đường an tồn, thân thiện giúp HS ứng phó tích cực trước các
hành vi BLHĐ.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Khách thể, đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Nghiên cứu tiến hành khảo sát 482 HS phân bố đồng đều từ lớp 6 đến lớp 9 tại 4 trường
THCS ở TP. Hà Nội, bao gồm các trường công lập nội thành (THCS Nguyễn Trường Tộ), công lập ngoại thành
(THCS Vân Canh) và 2 trường dân lập (THCS Lê Q Đơn và THCS Đồn Thị Điểm). Những HS này đều cho biết
đã từng trải qua ít nhất 1 lần bị bạo lực trở lên trong thời gian 3 tháng gần đây.
- Đối tượng nghiên cứu: Các biểu hiện ứng phó tiêu cực của HS bị BLHĐ.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở sử dụng phương pháp nghiên cứu điều tra bằng bảng hỏi về những cách

ứng phó của HS khi bị bạo lực, trong đó ứng phó bằng suy nghĩ tích cực gồm 5 mục, suy nghĩ tiêu cực gồm 5 mục,
cảm xúc tiêu cực gồm 7 mục, cảm xúc tích cực gồm 3 mục, hành động tiêu cực gồm 8 mục và hành động tích cực
gồm 12 mục. Nghiên cứu cũng thực hiện phỏng vấn sâu với HS. Số liệu thu được từ điều tra bảng hỏi được xử lí
bằng phần mềm SPSS phiên bản 20.0.

22


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 491 (Kì 1 - 12/2020), tr 22-27

ISSN: 2354-0753

2.2. Một số khái niệm cơ bản
- Khái niệm “ứng phó”:
Theo quan điểm của Lazarus và Folkman (1984), ứng phó là những nỗ lực không ngừng thay đổi về nhận thức
và hành vi của cá nhân để giải quyết các yêu cầu cụ thể, tồn tại bên trong cá nhân và trong môi trường mà cá nhân
nhận định chúng có tính đe dọa, thách thức hoặc vượt quá nguồn lực của họ. Snyder và Dinoff (1999) đã đưa ra một
định nghĩa có sự tổng hợp nhiều quan điểm trước đó: “ứng phó là một phản ứng nhằm giảm bớt gánh nặng về thể
chất, tình cảm và tâm lí có liên quan đến các sự kiện cuộc sống căng thẳng và phức tạp hàng ngày” (dẫn theo Trần
Văn Công và cộng sự, 2015, tr 11).
Phan Thị Mai Hương và cộng sự (2007) đã đồng nhất ứng phó với hành vi ứng phó và cho rằng: Hành vi ứng
phó là cách mà cá nhân thể hiện sự tương tác của mình với hoàn cảnh tương ứng với logic của riêng họ, với ý
nghĩa trong cuộc sống của con người và với những khả năng tâm lí của họ. Nguyễn Thị Huệ (2012) cũng xác định
“nghĩa trực tiếp của ứng phó là sự đương đầu, đối mặt với những tình huống và hoàn cảnh bất thường, khó khăn.
Theo nghĩa rộng, ứng phó bao gồm tất cả các dạng tương tác của chủ thể với những yêu cầu của thế giới bên
ngoài và nội tâm - nắm bắt, làm chủ hay là suy giảm, làm quen hoặc lảng tránh khỏi những yêu cầu của hoàn
cảnh có vấn đề” (tr 12-14).
Từ những quan điểm trên có thể hiểu, “ứng phó” là những phản ứng có ý thức, phù hợp với mục đích và đặc

điểm tâm sinh lí của mỡi cá nhân, được biểu hiện qua suy nghĩ, cảm xúc và hành động khi cá nhân gặp phải một tình
huống nguy hiểm nào đó.
- Biểu hiện của ứng phó:
Theo Đinh Thị Hồng Vân (2014), cách ứng phó là những phản ứng cụ thể được cá nhân thực hiện nhằm giải
quyết các yêu cầu tồn tại bên trong cá nhân và/hoặc môi trường mà cá nhân nhận định chúng có tính đe dọa, thách
thức hoặc vượt quá nguồn lực của họ. Tác giả đã đưa ra mô hình và chiến lược ứng phó của trẻ ở lứa tuổi vị thành
niên bao gồm 3 nhóm cơ bản: (1) Các cách ứng phó tích cực (giải quyết vấn đề, suy nghĩ tích cực, điều chỉnh cảm
xúc, tìm kiếm chỗ dựa xã hội, tách mình ra khỏi vấn đề); (2) Các cách ứng phó tiêu cực (không hành động, né tránh,
tự làm hại bản thân, đổ lỗi cho bản thân và người khác, cô lập bản thân, suy nghĩ tiêu cực); (3) Các cách ứng phó
trung tính (bộc lộ cảm xúc, chấp nhận). Phan Thị Mai Hương và cộng sự (2007) trong nghiên cứu cách ứng phó của
trẻ với những khó khăn trong cuộc sống đã chia cách ứng phó của trẻ thành 3 loại: (1) Ứng phó tập trung vào tình
cảm/cảm xúc (những cảm giác bên trong, những tình cảm thể hiện bên ngồi, tìm kiếm chỡ dựa tình cảm); (2) Ứng
phó tập trung vào nhận thức/suy nghĩ (phủ sự, chấp nhận, lí giải theo hướng tích cực, đổ lỡi cho hồn cảnh, lảng
tránh); (3) Ứng phó tập trung vào hành động/hành vi (kiềm chế bản thân, thay thế bằng những hành vi tiêu cực, thay
thế bằng những hành vi tích cực, tìm kiếm lời khuyên, lên kế hoạch).
Trên cơ sở nghiên cứu của các tác giả, có thể hiểu, ứng phó của HS bị BLHĐ có cấu trúc tâm lí gồm 3 thành phần
là: suy nghĩ, cảm xúc và hành động. Bài báo này phân tích về những biểu hiện ứng phó tiêu cực của HS bị BLHĐ về
suy nghĩ, cảm xúc và hành vi.
2.3. Các biểu hiện ứng phó tiêu cực của học sinh bị bạo lực học đường ở các trường trung học cơ sở
Kết quả khảo sát cho thấy, HS có những ứng phó tích cực nhiều hơn là ứng phó tiêu cực. Tuy nhiên, có khá nhiều
HS do còn hạn chế về nhận thức và kĩ năng ứng phó nên có biểu hiện ứng phó tiêu cực. Điều này đã ảnh hưởng đến
trạng thái sức khỏe tinh thần và học tập của HS. Những biểu hiện của ứng phó tiêu cực của HS được thể hiện là:
Bảng 1. Các biểu hiện ứng phó tiêu cực với hành vi BLHĐ của HS THCS
STT
Ứng phó của HS (N= 482)
ĐTB
Độ lệch chuẩn
Xếp thứ
1
Suy nghĩ tiêu cực

2,91
0,418
2
3
Cảm xúc tiêu cực
3,08
0,623
1
5
Hành động tiêu cực
2,74
0,542
3
So sánh về các biểu hiện ứng phó tiêu cực của HS THCS khi bị BLHĐ thì kết quả bảng 1 cho thấy, các em có
ứng phó bằng cảm xúc tiêu cực là cao nhất (ĐTB = 3,08), tiếp theo là có những suy nghĩ tiêu cực (ĐTB = 2,91) và
hành động tiêu cực (2,70). Một số HS khi được hỏi đã chia sẻ “Khi con bị bạn bè tấn công và có những lời lẽ xúc
phạm với mình con cảm thấy rất tức giận kèm cả sợ hãi, đôi khi có những lần con bị tấn công là do bản thân mình”.
Em S HS lớp 6 cho biết: “Con đã rất cô đơn và khó chịu khi bị một nhóm bạn trong lớp cô lập, không chơi với con”.
Tìm hiểu những biểu hiện ứng phó tiêu cực của HS THCS khi bị BLHĐ thu được kết quả như sau:
- Ứng phó bằng suy nghĩ tiêu cực: Qua khảo sát những HS bị BLHĐ cho thấy, khi bị bạo lực, một số HS đã lựa
chọn bằng hình thức “cam chịu” hoặc “suy diễn vấn đề” (biểu đồ 1).

23


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 491 (Kì 1 - 12/2020), tr 22-27

ISSN: 2354-0753


2,96
2,94
2,92

2,93

2,8

1. HS cam chịu bị 2. HS nghĩ rằng nói 3. HS cho mình là
BLHĐ
ra cũng không ai giúp người kém cỏi vô
được …
dụng…

4. HS nghĩ rằng bị ai 5. HS nghĩ rằng mọi
đó chơi xấu em … người sẽ trách mắng
và phạt…

Biểu đồ 1. Biểu hiện ứng phó bằng suy nghĩ tiêu cực của HS bị BLHĐ (đơn vị: ĐTB)
Theo Nguyễn Văn Tường (2019): Khi bị BLHĐ, HS có những suy nghĩ chủ quan như “cam chịu” (coi mình bị
bạo lực là hiển nhiên, rơi vào ai thì người đó chịu hoặc không ai có thể giúp được mình), hoặc “suy diễn vấn đề” khi
đối mặt với các hành vi bạo lực (đổ lỗi cho bản thân, đánh giá thấp bản thân mình hoặc chỉ nhìn những điều tiêu cực).
Những cách ứng phó này về lâu dài không giúp HS giải quyết được vấn đề của mình theo hướng tích cực mà cịn
làm cho vấn đề của HS thêm phức tạp và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe tâm thần, quan hệ bạn bè và hoạt động học
tập của các em. Kết quả khảo sát cho thấy, HS ứng phó bằng suy nghĩ tiêu cực ở mức độ trung bình, trong đó cách
ứng phó “cam chịu vấn đề” được HS lựa chọn nhiều hơn (Điểm trung bình (ĐTB) = 2,95) so với “suy diễn vấn đề”
(ĐTB = 2,89). Cụ thể, khi bị BLHĐ, HS có biểu hiện cam chịu “chấp nhận và nghĩ rằng có nói ra cũng chẳng ai có
thể giúp em được nên em đành chịu để cho người khác đối xử tệ bạc với mình” (ĐTB = 2,96), “cam chịu để cho
người khác muốn làm gì thì làm” (ĐTB = 2,94), thỉnh thoảng HS có những suy nghĩ suy diễn “nghĩ rằng bị ai đó đã

chơi xấu em” (ĐTB = 2,92) hay suy diễn rằng nếu mình nói ra thì chỉ có bị mắng, phạt “mọi người sẽ trách mắng,
phạt em nếu biết em bị BL” (ĐTB = 2,93), HS tự đổ lỗi cho bản thân được ít em lựa chọn ứng phó khi bị bạo lực “em
là người kém cỏi, vô dụng, không có đủ sức mạnh để tự bảo vệ mình” (ĐTB = 2,8). Kết quả phỏng vấn sâu HS cho
thấy “cam chịu vấn đề” và “suy diễn vấn đề” không được HS đánh giá cao nhưng vẫn được một số HS lựa chọn.
Một HS chia sẻ: “Bạn A không cho con chơi cùng các bạn trong nhóm, giờ ra chơi nào cũng vậy con phải ngồi thui
thủi một mình nhìn các bạn chơi”. Như vậy, đa số HS tham gia vào nghiên cứu này chỉ thỉnh thoảng lựa chọn biểu
hiện ứng phó bằng suy nghĩ tiêu cực khi gặp phải hành vi BLHĐ, trong đó các em thường cam chịu, suy diễn vấn đề
hơn chấp nhận vấn đề hoặc chưa biết cách an ủi bản thân để giải quyết vấn đề.
- Ứng phó bằng cảm xúc tiêu cực: HS bị BLHĐ ứng phó bằng cảm xúc tiêu cực bằng “thể hiện cảm xúc tiêu
cực” hoặc “kìm nén cảm xúc” của bản thân. HS thể hiện cảm xúc tiêu cực như: lo lắng, sợ hãi, chán nản, buồn bã,
bất an, tức hoặc HS cố gắng kìm nén, che giấu, không bộc lộ ra bên ngoài cảm xúc của mình (lo lắng, sợ hãi, chán
nản, buồn bã, bất an, tức giận) khi gặp phải tình huống BLHĐ kìm nén cảm xúc lại (Nguyễn Văn Tường, 2019).
Cách ứng phó này thể hiện được những cảm xúc ngay lúc đó của HS khi gặp phải tình huống bạo lực, nhưng về lâu
dài cách ứng phó này không giúp HS giải quyết được vấn đề của mình theo hướng tích cực mà cịn ảnh hưởng xấu
đến sức khỏe tâm thần, quan hệ bạn bè và hoạt động học tập của HS. Kết quả khảo sát những HS bị BLHĐ cho thấy,
HS lựa chọn cách ứng phó bằng cảm xúc tiêu cực ở mức “trung bình”, điều đó có nghĩa là HS thỉnh thoảng sử dụng
cách ứng phó này khi gặp phải hành vi BLHĐ. Kết quả khảo sát HS có cách ứng phó bằng cảm xúc tiêu cực thể hiện
ở biểu đồ 2 (trang bên):

24


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 491 (Kì 1 - 12/2020), tr 22-27

ISSN: 2354-0753

3,09


1. HS lo lắng, sợ hãi khi bị BLHĐ…

3,3

Cảm xúc tiêu cực

2. HS cáu giận với HS có hành vi BL…
3. HS chán nản, buồn bã không muốn…

3,15

4. HS lo lắng vì sợ mọi người phát…

3,15
3,19

5. HS tức giận vô cớ với những người…
2,91

6. HS che giấu cảm xúc lo lắng, sợ…
2,78

7. HS cố gẳng tỏ ra vui vẻ để che giấu…

Biểu đồ 2. Biểu hiện ứng phó bằng cảm xúc tiêu cực của HS bị BLHĐ (đơn vị: ĐTB)
Kết quả trên cho thấy: HS lựa chọn ứng phó bằng cách “thể hiện cảm xúc tiêu cực” nhiều hơn “kìm nén cảm xúc”
(ĐTB = 3,18 so với 2,84). Cụ thể, HS cũng chủ yếu “thể hiện cảm xúc” bằng cách “thể hiện sự cáu giận” với những
HS đã gây ra hành vi bạo lực với mình (ĐTB = 3,3), “chán nản, buồn bã không thiết tha làm gì” (ĐTB = 3,15), hoặc
“tức giận vô cớ với những người xung quanh”(ĐTB = 3,19). Những biểu hiện của “kìm nén cảm xúc” bằng cách giả
vờ vui vẻ với mọi người xung quanh em để “che giấu cảm giác lo lắng, sợ hãi bất an trong người” với bạn bè, thầy

cô và gia đình (ĐTB = 2,91), hoặc HS cố tỏ ra vui vẻ để “che giấu cảm xúc bất an” trước mặt những người gây ra
hành vi bạo lực (ĐTB = 2,78). Hai cách ứng phó này về lâu dài cũng không giúp HS giải quyết được vấn đề các em
đang gặp phải, thậm chí cịn làm cho vấn đề phức tạp hơn và có thể ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống tâm lí của HS.
- Ứng phó bằng hành động tiêu cực: là việc HS có hành động trốn tránh, trì hoãn, đến những nơi không ai biết
để khóc; tránh gặp mặt, tránh tiếp xúc với mọi người; che giấu thầy cô, cha mẹ… Những hành động đó có thể mang
lại cảm giác an toàn nhất thời nhưng không giúp HS giải quyết được mâu thuẫn cũng như giải quyết vấn đề của chính
HS. HS có hành động tiêu cực còn thể hiện ở hành động “trả đũa” người gây ra bạo lực với mình, hoặc tự làm hại
bản thân, sử dụng các chất kích thích, gia nhập các băng nhóm khơng chính thức và các trị chơi bạo lực, thậm chí là
bỏ học … Cách ứng phó này về lâu dài cũng không giúp HS giải quyết được mâu thuẫn của mình, thậm chí cịn làm
cho mâu thuẫn “leo thang”, ảnh hưởng xấu sức khỏe tâm thần, quan hệ bạn bè và hoạt động học tập của HS. Biểu đồ
3 dưới đây thể hiện kết quả khảo sát HS có cách ứng phó bằng hành động tiêu cực:

Biểu hiện hành động tiêu cực

1. HS trốn tránh gặp mặt, tiếp xúc với những…

3,1

2. HS che giấu thầy cô, cha mẹ những vết bầm…

2,91

3. HS né tránh hoặc chuyển sang chủ đề khác…

3,06

4. HS tìm các biện pháp, lên kế hoạch để trả…

2,91


5. HS tạo ra bè cánh và gia nhập vào các hội để…

2,88

6. HS phục tùng mọi yêu cầu của bạn bè để họ…

2,36

7. HS tự làm tổn thương bản thân như: nhịn ăn,…

2,37

8. HS sử dụng các chất kích thích, chơi game…

2,36

0

0,5

1

1,5

2

2,5

3


3,5

Biểu đồ 3. Biểu hiện ứng phó bằng cảm xúc tiêu cực của HS bị BLHĐ (đơn vị: ĐTB)
Trước các hành vi BLHĐ, HS đã thể hiện mức độ ứng phó bằng hành động tiêu cực ở mức “thỉnh thoảng” qua
biểu hiện “trốn tránh vấn đề” và “trả đũa, tự làm hại”. Hai cách ứng phó này được HS ít sử dụng hơn so với cách
thể hiện bằng cảm xúc và nhận thức tiêu cực. Tuy nhiên, ứng phó với BLHĐ bằng hành động thì HS lựa chọn cách
“trốn tránh vấn đề” nhiều hơn cách “trả đũa, tự làm hại” (ĐTB = 3,02 so với 2,56). Cụ thể, HS thỉnh thoảng “trốn
tránh vấn đề” bằng cách “” (ĐTB = 3,06), “tránh gặp mặt, tiếp xúc đơn độc” (ĐTB = 3,1) với những người gây ra
hành vi bạo lực hoặc né tránh câu hỏi và chuyển sang câu chuyện khác” (ĐTB = 3,06) “che giấu thầy cô, cha mẹ

25


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 491 (Kì 1 - 12/2020), tr 22-27

ISSN: 2354-0753

những vết bầm tím, trầy xước trên cơ thể do bạn bè em gây ra” (ĐTB = 2,91). Đồng thời, HS cho biết rất ít khi “tìm
cảm giác dễ chịu hơn bằng cách sử dụng chất kích thích như: hút thuốc lá, uống rượu, uống bia, uống thuốc ngủ”
(ĐTB = 2,36), hay “tự làm tổn thương bản thân như: nhịn ăn, đập đầu vào tường, tự đánh mình, cứa tay cho chảy
máu” (ĐTB = 2,37), HS cũng rất hiếm khi “lên kế hoạch và thực hiện kế hoạch trả đũa” (ĐTB = 2,91) hoặc “phục
tùng mọi yêu cầu của bạn bè” (ĐTB = 2,36). Như vậy, đa số HS tham gia vào nghiên cứu này không lựa chọn trốn
tránh khỏi tình huống bạo lực hoặc trả đũa lại những người gây ra hành vi bạo lực với mình, các em cũng không tự
làm hại bản thân mình, thậm chí một số em đã biết đương đầu và tìm kiếm các nguồn lực hỡ trợ. Tuy nhiên, vẫn cịn
một số ít HS lựa chọn hai cách ứng phó trên, điều này không giúp HS giải quyết được vấn đề mà về lâu dài còn làm
cho vấn đề của HS phức tạp hơn, đời sống tâm lí của HS cũng bất ổn hơn.
Để tìm hiểu rõ hơn về thực trạng ứng phó với hành vi BLHĐ của HS THCS, nghiên cứu đã tiến hành phân tích
mối tương quan giữa các biểu hiện ứng phó tiêu cực và thu được kết quả được thể hiện trong bảng số liệu dưới đây.

Kết quả (p < 0,01) có ý nghĩa tương qua cho thấy, ứng phó bằng suy nghĩ tiêu cực, cảm xúc tiêu cực và hành động
tiêu cực có mối tương quan thuận với nhau. Từ kết quả mối tương quan giữa các biểu hiện ứng phó của HS THCS
khi gặp phải hành vi BLHĐ, cũng cho thấy mối tương quan giữa suy nghĩ - cảm xúc - hành động trong các cách ứng
phó của HS THCS. Tức là, nếu HS có suy nghĩ tiêu cực khi gặp phải hành vi BLHĐ thì các em cũng có những cảm
xúc tiêu cực và hành động tiêu cực; ngược lại, nếu học HS có suy nghĩ tích cực khi gặp phải hành vi BLHĐ, thì các
em cũng có những cảm xúc tích cực và hành động tích cực.
Bảng 2. Mới tương quan giữa các biểu hiện ứng phó tiêu cực của HS THCS bị BLHĐ
Suy nghĩ tiêu cực

N=482
Suy nghĩ tiêu cực

r
Sig.
N
r
Sig.
N
r
Sig.
N

Cảm xúc tiêu cực
**

1

.351
.000
482

1

Hành động tiêu cực
.426**
.000
482
.348**
.000
482
1

482
.351**
Cảm xúc tiêu cực
.000
482
482
.426**
.348**
Hành động tiêu cực
.000
.000
482
482
482
(Ghi chú: **khi p < 0,01)
Như vậy, khi bị BLHĐ, HS có các cách ứng phó khác nhau, có nhiều em đã thực hiện cách ứng phó tích cực, tuy
nhiên những có một số em lại ứng phó tiêu cực về suy nghĩ, cảm xúc và hành động. Điều này đã không chấm dứt
bạo lực với các em mà còn ảnh hưởng đến tâm lí, mối quan hệ bạn bè và học tập của các em. Nguyên nhân của cách
ứng phó tiêu cực bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, như: nhận thức của HS về vấn đề BLHĐ; tính cách của HS; mối

quan hệ của HS với bạn bè, thầy cô giáo trong nhà trường và mối quan hệ của HS với phụ huynh… Do vậy, để giúp
HS có cách ứng phó tích cực cần nâng cao nhận thức và kĩ năng của HS về BLHĐ hoặc hỗ trợ để các em có thái độ
đúng đắn biết cách tìm kiếm các nguồn lực hỗ trợ khi bị BLHĐ.
2.4. Một số giải pháp của công tác xã hội trong trường học
Theo Thông tư số 33/2018/BGDĐT của Bộ GD-ĐT về Hướng dẫn công tác xã hội trong trường học. Một trong
những mục đích của công tác xã hội trong trường học là: Nâng cao kiến thức và kĩ năng để người học tự giải quyết các
khó khăn, căng thẳng, khủng hoảng tạm thời về tâm lí, phát huy tiềm năng, năng lực học tập của bản thân. Bảo vệ người
học trước nguy cơ bị xâm hại, bị bạo lực, phòng tránh các tệ nạn xã hội, hạn chế tình trạng người học bỏ học, vi phạm
pháp luật. Mặt khác, căn cứ vào cách tiếp cận đa tầng trong công tác xã hội trường học, những hoạt động của công tác xã
hội bao gồm: phòng ngừa tổng quát cho HS, can thiệp nhóm HS có nguy cơ và can thiệp chuyên sâu với cá nhân HS.
Trên cơ sở đó, có thể đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao cách ứng phó tích cực với HS bị BLHĐ, cụ thể như sau:
- Nhà trường tổ chức các buổi truyền thông toàn trường, sinh hoạt câu lạc bộ, sinh hoạt lớp về chủ đề BLHĐ.
Trong đó có nội dung liên quan đến cách ứng phó tích cực của HS khi bị BLHĐ như: Tìm những địa chỉ, người đáng
tin cậy trợ giúp trong những tình huống khẩn cấp; cách giải quyết mâu thuẫn không sử dụng bạo lực…
- Thực hiện các chương trình giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống cho HS có nguy cơ hoặc đã từng bị BLHĐ:
Mục đích giúp HS nâng cao lịng tự trọng và sự tơn trọng của HS đối với những người khác; Nâng cao lòng khoan
dung, sự cảm thông, tôn trọng sự đa dạng và khác biệt giữa các nền văn hóa, giữa các cá nhân; Hình thành những

26


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 491 (Kì 1 - 12/2020), tr 22-27

ISSN: 2354-0753

cách thức tích cực, ơn hịa để giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng; Phát triển sự đối thoại nội tâm một cách tích
cực để từ đó có những hành vi và tinh thần trách nhiệm. Trên cơ sở nền tảng những giá trị sống trên, nhân viên công
tác xã hội và giáo viên giúp HS phát triển các kĩ năng xã hội. Một số chủ đề kĩ năng sống cần được ưu tiên triển khai

nhằm góp phần ngăn ngừa, phòng chống BLHĐ bao gồm: Tự nhận thức, xác định giá trị bản thân; Tư duy tích cực;
Thương thuyết, giải quyết mâu thuẫn; Kiềm chế cảm xúc; Xác định và điều chỉnh hành vi phù hợp,...
- Nhân viên công tác xã hội trường học tiến hành can thiệp sớm cho nhóm HS bị BLHĐ đang có các biểu hiện
ứng phó tiêu cực: Mục đích nhằm ngăn chặn, kiềm chế các vấn đề bùng phát ở HS. Việc sớm phát hiện những vấn
đề về sức khoẻ, tinh thần và hành vi bất thường của HS sẽ giúp đưa ra những hướng can thiệp kịp thời và giúp ngăn
chặn và giải quyết các vấn đề một cách tốt nhất. Các hoạt động có thể bao gồm việc tập huấn xây dựng năng lực,
cách ứng phó tích cực cho nhóm đối tượng có nguy cơ hoặc bị bạo lực; lập kế hoạch can thiệp cho nhóm; khích lệ nâng cao các điểm mạnh của từng cá nhân; phối hợp nhóm liên ngành để đưa ra các dịch vụ can thiệp sớm... Những
chủ đề sinh hoạt nhóm nhằm nâng cao năng lực từ giải quyết vấn đề của HS khi bị bạo lực học đương như: Tự an ủi
bản thân, suy nghĩ tích cực để tìm ra hướng giải quyết; Cân bằng cảm xúc trước các hành vi bạo lực với bản thân;
Đương đầu với các hành vi bạo lực và tìm kiếm các nguồn lực trợ giúp khi bị bạo lực; Có hành động để giải quyết
vấn đề của bản thân; Hãy lên tiếng và không im lặng trước các hành vi bạo lực. Đây là những cách ứng phó tích
cực giúp HS có thể chấm dứt bạo lực với bản thân mình.
- Nhân viên công tác xã hội trường học phát hiện và tiến hành can thiệp chuyên sâu cho HS bị BLHĐ đang có
cách ứng phó tiêu cực, như hủy hoại bản thân, suy nghĩ, cảm xúc và hành động tiêu cực ảnh hưởng đến tâm lí của
các em. Sự can thiệp này mang tính chuyên mơn sâu cho cá nhân HS đã là nạn nhân hoặc đã chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ vấn đề bạo lực, đang gặp những vấn đề, khó khăn về tâm lí, sức khỏe thể chất, học tập và các mối quan hệ xã
hội khác, đặc biệt là những rối loạn về tâm lí. Can thiệp ở cấp độ này cần có thời gian khá dài. Do đó, HS có thể được
giới thiệu đến các chương trình/trung tâm hỗ trợ chuyên nghiệp. Nhiệm vụ của nhân viên công tác xã hội là thực hiện
bản đánh giá sơ bộ, kết nối, chuyển gửi HS bị bạo lực đến những dịch vụ để được hỗ trợ, can thiệp.
3. Kết luận
Nghiên cứu cho thấy, trước các hành vi bạo lực, HS đã có các cách ứng phó khác nhau. Trong khi một số HS đã
biết đương đầu và tìm kiếm các nguồn lực trợ giúp hoặc đã có những suy nghĩ tích cực như an ủi bản thân, tìm cách giải
quyết hoặc cân bằng cảm xúc trước thì nhiều em vẫn còn thể hiện các biểu hiện của ứng phó tiêu cực, như: tự đổ lỗi cho
bản thân hoặc chấp nhận bị bạo lực; thể hiện những cảm xúc tiêu cực hoặc kìm nén cảm xúc; hơn nữa, các em còn có
những hành động tiêu cực như trốn tránh, thấm chí tự hủy hoại bản thân. Điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm
lí, mối quan hệ của HS với bạn bè cũng như học tập. Do vậy, bài báo đã đề xuất một số hoạt động của công tác xã hội
trong trường học để nâng cao năng lực và cách ứng phó tích cực cho HS có liên quan đến BLHĐ, thực hiện môi trường
học đường an toàn, thân thiện và bình đẳng, hướng tới xây dựng “nhà trường thân thiện, HS tích cực”.
Lời cảm ơn: Tác giả cảm ơn sự tài trợ của Bộ Giáo dục và Đào tạo qua đề tài “Phòng ngừa bạo lực học đường cho học sinh
trung học cơ sở thông qua công tác xã hội học đường”, thuộc Chương trình KH&CN cấp Bộ, mã số: B2019-SPH-10.

Tài liệu tham khảo
Bộ GD-ĐT (2018). Thông tư số 33/2018/BGDĐT ngày 28/12/2018 về Hướng dẫn công tác xã hội trường học.
Đinh Thị Hồng Vân (2014). Cách ứng phó với những cảm xúc âm tính trong quan hệ xã hội của trẻ vị thành niên
thành phớ H́. Luận án tiến sĩ Tâm lí học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Lương Quang Hưng và cộng sự (2019). Công tác xã hội với vấn đề bạo lực học đường. NXB Giáo dục Việt Nam.
Nguyễn Thị Huệ (2012). Một số vấn đề lí luận về kĩ năng ứng phó với các khó khăn tâm lí trong hoạt động. Tạp chí
Giáo dục, số 277, tr 12-14.
Nguyễn Văn Tường (2019). Ứng phó với hành vi bạo lực học đường của học sinh trung học cơ sở. Luận án tiến sĩ
Tâm lí học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Phan Thị Mai Hương và cộng sự (2007). Cách ứng phó của trẻ vị thành niên với hoàn cảnh khó khăn. NXB Khoa
học xã hội.
Richard S.Lazarus & Susan Folkman,Stress (1984). Appraisal, and Coping. New York: Springer, Publishing.
Snyder, C. R.; Dinoff , B. L., Coping (1999). Where have you been, Coping: The psychology of what works. Oxford
University Press.
Trần Văn Công và cộng sự (2015). Chiến lược ứng phó của học sinh với bắt nạt trực tuyến. Tạp chí Khoa học, Đại
học Quốc gia Hà Nội, số 3, tr 11-24.

27



×