Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

TÁC GIẢ LÁ QUỐC KỲ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.15 KB, 10 trang )

TÁC GIẢ LÁ QUỐC KFY VIỆT NAM
I.Tiểu Sử.Nguyễn Hữu Tiến
Ông sinh ngày 5 tháng 3 năm 1901 tại xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên,
tỉnh Hà Nam. Năm 1927, ông tham gia tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách
mạng Đồng chí Hội. Năm 1931 ông bị bắt và bị đưa ra nhà tù Côn Đảo.
Năm 1935, ông cùng một số tù chính trị khác là Tạ Un, Tống Văn Trân, Vũ
Cơng Phụ vượt ngục, trở về đất liền, hoạt động cách mạng tại Nam Bộ, sau đó
được phân cơng phụ trách cơng tác tun truyền, in ấn tài liệu cách mạng.
Chính trong thời gian này, ông được Xứ ủy Nam Kỳ trao nhiệm vụ vẽ cờ
hiệu để sử dụng trong các cuộc đấu tranh. Ơng đã vẽ lá cờ có nền đỏ và ngôi sao
vàng năm cánh, thể hiện ý tưởng máu đỏ da vàng, tượng trưng cho dân tộc và sự
đoàn kết các tầng lớp nhân dân bao gồm sỹ, nơng, cơng, thương, binh trong đại
gia đình các dân tộc Việt Nam. Mẫu cờ đã được Xứ ủy Nam Kỳ nhất trí và đã
xuất hiện lần đầu tiên trong khởi nghĩa Nam Kỳ ngày 23 tháng 11 năm 1940.
Tâm huyết của tác giả khi sáng tạo ra lá cờ được khắc họa rõ nét trong bài
thơ của ông:
Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi, da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ-nơng-cơng-thương-binh
Đồn kết lại như sao vàng
Tháng 7/1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp mở rộng thông qua đề cương khởi
nghĩa, được đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai mơ tả lại một số lá Quốc kỳ của
các nước. Tại đây chiến sĩ Nguyễn Hữu Tiến đã nung nấu ý định sẽ vẽ lá cờ Tổ
quốc nhằm tuyên truyền cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.
Vào trước khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ (23/11/1940), lá cờ đỏ sao
vàng 5 cánh lần đầu tiên được in trên trang nhật báo Tiến Lên, cùng với một bài



thơ do chính ơng sáng tác, kêu gọi nhân dân Việt Nam đoàn kết chiến đấu dưới
lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc:
“Việt Nam ta con Hồng cháu Lạc
Dòng máu đỏ, giống da vàng, trải bốn ngàn năm oanh liệt.
Thế mà chịu tám mươi năm rên xiết
Dưới giày đinh đế quốc sài lang!
Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi da của giống nịi
Đứng lên mau! Hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sĩ, nơng, cơng, thương, binh
Đồn kết lại như sao vàng năm cánh
Đoàn kết lại sức mình sẽ mạnh
Quyết đánh tan phát xít Nhật - Tây
Hỡi hai lăm triệu con yêu nước Việt Nam này
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh...”.
Bức chân dung liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến cùng những dòng nhắn nhủ trước
khi bị địch bắn.
Ngay sau đó, Nguyễn Hữu Tiến đã vẽ lá cờ vào phiến đá và in ra nhiều bản
cho chuyển xuống các cơ sở bí mật. Cơng việc in ấn gần xong thì lính Pháp ập
đến bắt giữ.
Sau khi khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, Nguyễn Hữu Tiến bị thực dân Pháp
xử bắn vào ngày 28/8/1941. Trước khi ra pháp trường, ơng đã để lại lời nhắn tha
thiết về lịng yêu nước, căm thù giặc cũng như tinh thần bất khuất, cùng niềm
tin vào tương lai. Những dòng nhắn nhủ của liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến được in ra
và treo ngay trên tấm chân dung của ông do cố nhạc sĩ Văn Cao vẽ.
"Vĩnh biệt hơm nay có mấy lời



Nhắn cùng đồng chí khắp nơi nơi
Tinh thần để lại cho non nước
Thù hận ghi sâu giữa đất trời
Án chém Hà Nam đà rũ sạch
Khổ sai Côn Đảo đã qua rồi
Anh em đi trọn con đường nhé
Cờ đỏ sao vàng sáng tương lai
Tuy nhiên, ơng khơng kịp nhìn thấy lá cờ của mình tung bay. Tháng 8 năm
1940, ơng bị thực dân Pháp bắt giam. Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, đàn áp đẫm
máu và bị khủng bố rất tàn bạo. Thực dân Pháp đưa ông và nhiều yếu nhân
của Đảng Cộng sản Đông Dương như Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Hà
Huy Tập,... xử bắn ngày 28 tháng 8 năm 1941.
Lá cờ của Nguyễn Hữu Tiến đã lan rộng ra và trở thành cờ hiệu của phong
trào Việt Minh. Tại Hội nghị Tân Trào chuẩn bị Tổng khởi nghĩa,Quốc dân đại
hội đã nhất trí chọn lá cờ của Nguyễn Hữu Tiến làm Quốc kỳ của đất nước Việt
Nam độc lập.
II.Nhà Lưu Niệm
Năm 1993, để ghi ơn Nguyễn Hữu Tiến, tỉnh Hà Nam đã cho xây dựng
Nhà lưu niệm, mang tên: "Nhà lưu niệm Đồng chí Nguyễn Hữu Tiến". Hiện, nơi
này do người con gái duy nhất của Nguyễn Hữu Tiến là bà Nguyễn Thị Xu
trông nom.Trong căn nhà có treo một bức tranh sơn dầu vẽ cảnh Nguyễn Hữu
Tiến đang ngồi vẽ lá cờ đỏ sao vàng, do cố nhạc sĩ Văn Cao vẽ.[3]
IIIII.Câu Chuyên Lá cờ đỏ sao vang
Nǎm 1927, Nguyễn Hữu Tiến tham gia tổ chức Thanh niên cách mạng
đồng chí hội, được cử làm phó bí thư tỉnh Đảng bộ năm 1930. Nǎm 1931 ơng bị
bắt và bị địch đưa ra nhà tù Côn Đảo. Nǎm 1935, Nguyễn Hữu Tiến cùng một
số tù chính trị vượt ngục Côn Đảo, trở về đất liền, ông hoạt động cách mạng tại


Cần Thơ, sau đó được phân cơng phụ trách cơng tác tuyên truyền, in ấn tài liệu

cách mạng.
Đêm 22 rạng 23-11-1940, cuộc khởi nghĩa Nam kỳ bùng nổ mãnh liệt. Ở
tỉnh Mỹ Tho, cuộc khởi nghĩa nổ ra quyết liệt nhất là tại xã Long Hưng (nay
thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Từ trong cao trào khởi nghĩa, chính
quyền cách mạng tỉnh Mỹ Tho được thành lập và lần đầu tiên, lá cờ đỏ sao vàng
đã xuất hiện ở tại đây. Viết về sự kiện này, quyển "Mỹ Tho - Gị Cơng trong
cuộc khởi nghĩa Nam kì (1940)" do Ban Tuyên giáo Tiền Giang xuất bản năm
2001 cho biết: "Ngay trong ngày 23-11-1940, chính quyền cách mạng tỉnh Mỹ
Tho được thành lập và tổ chức cuộc mít tinh có hơn 3.000 người tham dự tại
đình Long Hưng để ra mắt nhân dân. Lần đầu tiên, lá cờ đỏ sao vàng năm cánh
xuất hiện trên ngọn cây bàng, trước đình Long Hưng". Từ Long Hưng - Mỹ
Tho, lá cờ đỏ sao vàng đã tung bay khắp Nam kỳ trong những ngày cuối tháng
11-1940 lịch sử. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ bị thực dân Pháp đàn áp, khủng bố dã
man; nhưng lá cờ đỏ sao vàng luôn hiện hữu trong trái tim nhiệt tình cách mạng
của mỗi người, động viên nhân dân ta vững bước trên con đường đấu tranh giải
phóng dân tộc.
Tháng 5-1941, tại Pắc Bó (Cao Bằng), hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8
được triệu tập dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh, hội nghị đã hoàn chỉnh
sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng, tiếp tục nêu cao vấn
đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu và quyết định thành lập tổ chức Việt Nam
Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh). Cả Nghị quyết Trung ương
8 và Chương trình hành động của Việt Minh đều ghi là, sau khi đánh đuổi đế
quốc Pháp - Nhật sẽ lập nên Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng làm Quốc kỳ. (Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn
kiện Đảng Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia - Hà Nội - 2000, tr.466471). Được biết, lá cờ đỏ sao vàng treo tại buổi lễ thành lập Việt Minh hiện
được lưu giữ ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam tại Hà Nội.


Ngày 16-8-1945 tại Tân Trào (Tuyên Quang), Đại hội Quốc dân được triệu
tập. Đại hội đã tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng, lập ra Ủy ban

Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, quy định Quốc ca
là bài "Tiến quân ca" và Quốc kỳ là cờ đỏ sao vàng. Liền sau đó, Hồ Chủ tịch đã
gửi thư đến đồng bào cả nước, kêu gọi nhân dân nổi dậy tổng khởi nghĩa, giành
chính quyền; trong đó có đoạn: "Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng
bào hãy dũng cảm tiến lên!" (Hồ Chí Minh: Tồn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr. 553 – 554). Ngày 17-8-1945, một lá cờ
đỏ sao vàng có diện tích đến 48 mét vng (6m x 8m) đã được xuất hiện trước
tiền sảnh Nhà hát lớn Hà Nội, tạo nên sự phấn khích to lớn của quần chúng thủ
đơ. Ơng Trần Lâm - một trong hai người trực tiếp treo lá cờ đó - kể lại: "Cuộc
mít tinh bắt đầu, khi lá cờ của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim được kéo lên
thì tơi và anh Nam cũng mở lá cờ đỏ sao vàng từ trên tầng hai bng xuống. Lá
cờ to rộng, sáng chói, nổi bật trên cao. Sự kiện này làm đảo lộn tình thế. Tất cả
những người dự cuộc mít tinh đều sững sờ. Trong tay họ đang cầm những lá cờ
nhỏ tự nhiên giơ lên vẫy vẫy và hò hét như sấm".
Cuộc khởi nghĩa Tháng 8-1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời kể từ ngày 2-9-1945 lá cờ đỏ sao vàng tung bay từ Bắc đến Nam, từ
miền xuôi đến miền ngược, đến tận cùng các hải đảo xa xôi. Lá cờ đỏ sao vàng
reo vui trong những ngày chiến thắng Điện Biên, ngày giải phóng Thủ đơ, ngày
thống nhất đất nước.
Lá cờ đỏ sao vàng còn là niềm kêu hãnh của dân tộc ở vĩ tuyến 17 khi cuộc
chiến đang diễn ra hết sức khốc liệt. Lá cờ Tổ quốc khơng một ngày vắng bóng
cho đến ngày đất nước hồn tồn giải phóng. Lá cờ đỏ sao vàng trong thời điểm
ấy là điểm hội tụ tình cảm thiêng liêng của đồng bào miền Nam hướng về Bác
Hồ kính yêu, mãi mãi trở thành linh hồn của dân tộc.
Thật cảm động khi chúng ta nghe lại những câu chuyện của những chiến sĩ
ở giới tuyến giữ lá cờ Tổ quốc. Lá cờ Tổ quốc lúc đầu được dựng lên trên một
cây phi lao cao 12 mét ở bờ bắc sơng Bến Hải, đầu cầu Hiền Lương, phía


bờ Nam qn ngụy cắm cờ trên nóc lơ cốt Xuân Hòa cao 15 mét. Theo yêu cầu

của đồng bào miền Nam, cờ đỏ của Tổ quốc ta phải cao hơn cờ ngụy. Thế rồi
các đồng chí biên phịng lặn lội vào rừng sâu mang về một cây gỗ cao 18 m.
Niềm vui khơng được bao lâu, chính quyền Ngơ Đình Diệm chở sắt thép từ Sài
Gịn ra dựng một trụ cờ cao 25 mét. Đồng bào miền Nam lại nhắn sang bờ Bắc
phải xây trụ cờ cao hơn chúng. Để thực hiện ý nguyện của đồng bào ngày 19-71957, quân và dân Vĩnh Linh lại dựng trụ cờ bằng sắt cao 34,5 mét sơn màu
trắng. Lúc này cờ đỏ sao vàng bay cao hơn cờ ngụy, ít lâu sau trụ cờ của ngụy
nâng cao hơn 35 mét. Năm 1962, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa cho
chở vật liệu từ Hà Nội vào xây trụ cờ mới cao 38,6 mét. Lá cờ rộng 120 mét
vuông, nặng 15 kg phấp phới tung bay - ngày ngày vẫy gọi đồng bào chiến sĩ
giữ vững niềm tin tất thắng. Nhưng đối với các chiến sĩ đồn Hiền Lương khơng
phải ít vất vã khi lá cờ tung bay giữa một vùng trời lộng gió. Chỉ cần một cơn
gió nhẹ có thể làm rách lá cờ, chưa nói máy bay các loại của kẻ thù pháo kích từ
Cồn Tiên, Dốc Miếu, từ hạm đội 7 ném bom, bắn phá cột cờ. Khơng có đêm nào
mà các chiến sĩ biên phòng cùng các bà mẹ miền Bắc không ngồi lại để khâu vá
lá cờ để sáng hôm sau lại kéo lên trên bầu trời của Tổ quốc. Quốc kỳ của
Việt Nam được tô thắm bằng xương máu của biết bao chiến sĩ, đồng bào. Lá cờ
đỏ sao vàng là niềm tự hào của dân tộc, phát huy truyền thống đấu tranh vô
cùng anh dũng của giống nòi Lạc Việt đánh đổ chế độ thực dân phát xít, giành
lại độc lập tự do. Lá cờ đỏ sao vàng năm cánh ngày nay trở nên quen thuộc với
bạn bè khắp năm châu và được thế giới tin yêu.
IV.Kết Luận
Từ khi xuất hiện đến nay lá CỜ ĐỎ SAO VÀNG là một phần không thể
thiếu của dân tộc ta.Lá cờ tượng trưng cho độc lập dân tộc, cho sự tự do và
thiêng liêng của tổ quốc. Nền cờ đỏ tượng trưng cho màu nhiệt huyết cách
mạng, màu chiến đấu và chiến thắng.Dân tộc luôn nhớ tới công sức của các anh
hùng liệt sĩ đã chiến đấu và hi sinh cho dân tộc.Trong lá Quốc kì của dân tộc các
anh ln ở đó chứng kiến dân tộc, đất nước mình tiếp tục phát triển tiến lên


CNXH, tiếp tục chí hướng của những người đi trước. Màu vàng của ngôi sao

tượng trưng cho sự sáng ngời linh hồn dân tộc Việt nam.Dân tộc ta là một dân
tộc kiên cường, bất khuất.Điều đó đã được cả thế giới biết đến trong hai cuộc
đấu tranh trường kì để giải phóng dân tộc dành lại sự tự do độc lập cho nhân
dân. 5 cánh sao tượng trưng cho sức mạnh đại đoàn kết của các tầng lớp nhân
dân cùng nhau chiến đấu giành độc lập, tự do và xây dựng Tổ quốc .Sự đoàn kết
dân tộc là yếu tố tạo lên mọi thành công của dân tộc cả trong chiến tranh cũng
như xây dựng đất nước.Nhìn vào lá Quốc kì của để mỗi người dân ln nhớ rõ
điều đó cùng đoàn kết để xây dựng đất nước.
Lá cờ đỏ sao vàng là một minh chứng khẳng định sự thống nhất, độc lập,
tự chủ và hịa bình của dân tộc Việt Nam. Điều đó đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định và lịch sử kiểm chứng trong gần một thế kỷ qua, đó là: "Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sơng có thể cạn, núi có thể mịn
nhưng chân lý ấy khơng bao giờ thay đổi".Bác cũng đã khẳng định rằng dân tộc
ta là một dân tộc tự do, độc lập trong bản Tuyên ngôn độc lâp khai sinh ra nước
ta:” Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.Lá CỜ ĐỎ
SAO VÀNG sẽ mãi tung bay trên bầu trời nước ta chứng minh cho sự tự do,
độc lập, toàn vẹn của đất nước cũng như sự đoàn kết một nhà của toàn thể dân
tộc ta.






×