Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Hiện trạng đánh giá và can thiệp dinh dưỡng trên người bệnh nội trú tại Bệnh viện Ung Bướu Tp. Hồ Chí Minh năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.76 KB, 7 trang )

Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2

HIỆN TRẠNG ĐÁNH GIÁ VÀ CAN THIỆP DINH DƯỠNG
TRÊN NGƯỜI BỆNH NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU
TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2020
NGUYỄN THANH THỦY TRANG1, TRẦN THỊ ANH TƯỜNG1,
LÊ THỊ THÙY TRANG1, NGUYỄN HỒNG QUANG1
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm khảo sát công tác đánh giá và can thiệp dinh dưỡng bước đầu tại bệnh
viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp: Cắt ngang mô tả, 275 bệnh nhân đang điều trị nội trú tại bệnh viện Ung Bướu Thành
phố Hồ Chí Minh từ tháng 5/2020 đến tháng 8/2020.
Kết quả: 34.2% bệnh nhân suy dinh dưỡng và có nguy cơ suy dinh dưỡng bị bỏ sót. 43.6% bệnh nhân
khơng được cân đo thực tế lúc nhập viện. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng chủ yếu dựa vào BMI, 83.6%
trường hợp không đánh giá tình trạng sụt cân và 85.5% khơng đánh giá tình trạng ăn kém. 43.3% trường
hợp ghi sai mã chế độ ăn trong hồ sơ bệnh án. 52.7% bệnh nhân chi được đánh giá tình trạng dinh dưỡng
1 lần trong suốt quá trình điều trị.
Kết luận: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và can thiệp dinh dưỡng đã được triển khai trên 100% khoa
lâm sàng nhưng cịn mang tính hình thức và có nhiều sai sót. Do vậy, tập huấn, giám sát công tác đánh
giá và can thiệp dinh dưỡng là công tác không thể thiếu của khoa Dinh dưỡng - tiết chế.
Từ khóa: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng, can thiệp dinh dưỡng, ung thư, bệnh viện Ung Bướu
TP. Hồ Chí Minh.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tầm sốt, chẩn đốn và can thiệp dinh dưỡng
rất quan trọng với bệnh nhân ung thư, vì tỉ lệ suy
dinh dưỡng khá cao so với các mặt bệnh khác.
Do đó, hướng dẫn của Hiệp hội Dinh dưỡng Lâm
sàng và Chuyển hóa Châu Âu (ESPEN) khuyến cáo
rằng nên thường xuyên đánh giá lượng dinh dưỡng,
sự thay đổi cân nặng và BMI, bắt đầu trong q trình


chẩn đốn ung thư và được lặp lại tùy thuộc vào
sự ổn định của tình trạng lâm sàng[1]. Tại thời điểm
nhập viện, tỉ lệ này trên thế giới dao động từ 30 80%. Trong hai nghiên cứu về bệnh nhân ung thư
đầu cổ và tiêu hóa ở bệnh viện Ung Bướu Thành
phố Hồ Chí Minh là 16 - 67%[5,9]. Gần 30% bệnh
nhân ung thư tiếp tục sụt cân trong quá trình điều trị.
Sụt 10% cân nặng là yêu tố nguy cơ dự đoán giảm
hiệu quả điều trị, tăng tái phát và giảm sống còn[8].
Đáng tiếc là, mặc dù sàng lọc và đánh giá tình trạng
dinh dưỡng đã được cơng nhận và là một phần của
một số hướng dẫn quốc gia và quốc tế, nhưng lại
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thanh Thủy Trang
Email:
1

Khoa Dinh dưỡng - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM

388

không được thực hiện ở tất cả các cơ sở y tế. Trong
nghiên cứu cắt ngang nổi tiếng "NutriDay" được
thực hiện trong năm 2007 - 2008, 21.007 bệnh nhân
từ 325 bệnh viện ở 25 quốc gia châu Âu, cho thấy
quy trình khám sàng lọc chỉ tồn tại ở một nửa (53%)
bệnh viện, hầu hết được thực hiện bằng các phương
pháp tự phát tại địa phương[10]. Trong khi 93% đơn
vị ở Vương quốc Anh thực hiện sàng lọc định kỳ
bệnh nhân suy dinh dưỡng khi nhập viện, thì chưa
đến 33% đơn vị áp dụng phương pháp này ở Áo,
Đức và khu vực Đông Nam Bộ[10]. Một nghiên cứu

tại Anh quốc, trên 334 bác sĩ ung thư cho thấy chỉ có
65% quan tâm đến tầm quan trọng của suy dinh
dưỡng lên độc tính và tỉ lệ tử vong[2]. Các trường
hợp suy dinh dưỡng không được phát hiện đầy đủ
do có đến 2/3 các bác sĩ đánh giá tình trạng dinh
dưỡng dựa trên BMI, khơng chú ý đến tình trạng sụt
cân và ăn kém[2].
BMI là thông số đơn giản thường được sử
dụng, nhưng hạn chế ở bệnh nhân phù và cổ
Ngày nhận bài: 02/10/2020
Ngày phản biện: 03/11/2020
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020


Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2
trướng. Ngày nay, thay vì chỉ sử dụng 1 thơng số cụ
thể để tầm sốt và đánh giá tình trạng dinh dưỡng,
nhiều yếu tố được kết hợp để đánh giá nguy cơ dinh
dưỡng và đánh giá tình trạng dinh dưỡng. MUST,
NRS 2002, MNA, và MST là những công cụ sàng lọc
nguy cơ dinh dưỡng đã được kiểm chứng và sử
dụng rộng rãi[7]. Mặc dù các công cụ áp dụng trên
các bệnh nhân mục tiêu khác nhau, tất cả các công
cụ sàng lọc đều sử dụng các thơng số về BMI, tình
trạng sụt cân, tình trạng ăn kém và bệnh kèm theo[1].
PG-SGA (Scored Patient - Generated Subjective
Global Assessment) đã được dùng để đánh giá tình
trạng dinh dưỡng đầy đủ cho bệnh nhân ung thư
trưởng thành, nhưng rất khó để các bác sĩ ung thư

thực hành trên các khoa lâm sàng[6]. Tại bệnh viện
Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tơi lựa
chọn xây dựng phiếu đánh giá tình trạng dinh dưỡng
dựa trên phương pháp NRS 2002.

Khảo sát hiện trạng đánh giá và tái đánh giá
tình trạng dinh dưỡng định kỳ.

Nhân viên y tế tại các khoa lâm sàng có thể can
thiệp dinh dưỡng bước đầu bằng việc tư vấn dinh
dưỡng, hướng dẫn bổ sung dinh dưỡng đường
miệng và cho khám - hội chẩn dinh dưỡng với khoa
Dinh dưỡng - Tiết chế. Trong 1 thử nghiệm ngẫu
nhiên có đối chứng tại Anh, Cochrane báo cáo rằng
tư vấn dinh dưỡng có tác dụng cải thiện tình trạng
sụt cân và chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân ung
thư[4]. Ngồi tư vấn dinh dưỡng, một đánh giá có hệ
thống và phân tích tổng hợp 13 nghiên cứu báo cáo
rằng các bổ sung dinh dưỡng đường uống có tác
dụng có lợi đối với chất lượng cuộc sống, giúp tăng
cân nhưng không làm giảm tỷ lệ tử vong ở bệnh
nhân ung thư[3].

Các bệnh nhân ở khoa Nhi (công cụ đánh giá
khác người lớn).

Nghiên cứu này nhằm nhìn lại hiệu quả của
công tác thực hành dinh dưỡng bước đầu tại bệnh
viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó tìm ra
các giải pháp cải thiện. Nghiên cứu thông qua hai

mục tiêu:

Khảo sát hiện trạng can thiệp dinh dưỡng bước
đầu tại các khoa lâm sàng.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
275 bệnh nhân đang điều trị nội trú trên 14 khoa
lâm sàng (Nội 1, Nội 2, Nội 4, Chăm sóc giảm nhẹ,
Ngoại 1, Ngoại 2, Ngoại 3, Ngoại 4, Ngoại 5, Ngoại
6, Điều trị tổng hợp, Xạ 2, Xạ 3, Xạ 4) tại bệnh viện
Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 5/2020
đến tháng 8/2020.
Các đối tượng được loại trừ khỏi nghiên cứu
Các bệnh nhân ở khoa ICU (không lưu bệnh),
Y học hạt nhân (khu vực cách ly).

Lấy mẫu ngẫu nhiên, mỗi khoa chọn 10 bệnh
nhân bất kì, mỗi phịng 1 bệnh nhân theo số thứ tự
phịng xoay vòng đến khi đủ 10 bệnh nhân.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mô tả.
Phương pháp thu thập dữ liệu: Tra cứu qua hồ
sơ, phỏng vấn bệnh nhân, kiểm tra thực tế tình trạng
cân đo và hướng dẫn dinh dưỡng tại các khoa lâm
sàng. Mỗi bệnh nhân được khảo sát trong khoảng
10 phút. Sau khảo sát, chúng tôi dành ra khoảng
10 phút để tổng kết và trao đổi với nhân viên các
khoa phòng, lập biên bản kiểm tra.

389



Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2
Một số tiêu chí đánh giá
Tầm sốt và đánh giá suy dinh dưỡng theo bảng sau

Can thiệp dinh dưỡng ban đầu của nhân viên y tế tại các khoa lâm sàng
 Cân đo thực tế.
 Ghi mã chế độ ăn hàng ngày, theo quy định của Bộ Y tế.
 Tư vấn ăn uống cho các bệnh nhân ung thư suy dinh dưỡng.
 Bổ sung dinh dưỡng hoặc hỗ trợ dinh dưỡng tĩnh mạch cho bệnh nhân ăn kém hay không ăn được
qua đường miệng.
 Đăng ký khám tư vấn - hội chẩn dinh dưỡng cho bệnh nhân nặng hay có bệnh nền (đái tháo đường,
suy thận) và cho y lệnh theo tinh thần hội chẩn.
 Tái khám dinh dưỡng theo hẹn.
Nghiên cứu được chia làm 2 đợt, đợt 2 với các cải tiến chủ yếu về mặt hành chánh:
1. Nội dung phiếu đánh giá tình trạng dinh dưỡng:


Thiết kế phiếu được tái sử dụng tối đa 6 lần đánh giá.



Dùng vòng cánh tay thay cho cân nặng, dành cho bệnh nhân có phù, bụng báng.

2. Dán các phiếu đánh giá tình trạng dinh dưỡng vào 1 vị trí trước phiếu điều trị.
3. Nội dung bảng mã chế độ ăn.

390



Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2
Phương pháp phân tích và thống kê: Thống kê mơ tả, trên phần mềm Stata.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Thực trạng suy dinh dưỡng tại bệnh viện Ung Bướu
Đặc điểm

(n = 275)

Sụt cân (kg) trung bình trong quá trình điều trị
Tỉ lệ suy dinh dưỡng

n

%

Khoa lâm sàng tự đánh giá

86

31.3

Khoa Dinh dưỡng đánh giá

180

65.5


2 (-8 - 24)

Bảng 2. Hiện trạng tầm soát và đánh giá tình trạng dinh dưỡng
Đặc điểm
Cân đo thực tế

Tính BMI

Trước cải tiến

Sau cải tiến

Chung

Chính xác

(n = 275)

41 (30.4%)

43 (30.7%)

84 (30.5%)

Khơng chính xác

34 (25.2%)

37 (26.4%)


71 (25.8%)

Khơng cân đo

60 (44.4%)

60 (42.9%)

120 (43.7%)

Chính xác

53 (39.3%)

50 (35.7%)

103 (37.5%)

Khơng chính xác

48 (35.6%)

47 (33.6%)

95 (34.5%)

Khơng tính BMI

34 (25.2%)


43 (30.7%)

77 (28%)

Ghi nhận

Thường xuyên

24 (16.7%)

18 (13.7%)

42 (15.3%)

tình trạng sụt cân và ăn kém

Không thường xuyên

2 (1.4%)

1 (0.8%)

3 (1.1%)

Không ghi nhận

118 (81.9%)

112 (85.5%)


230 (83.6%)

Tái đánh giá

Nội dung chính xác

41 (30.4%)

45 (32.1%)

86 (31.3%)

thực tế tình trạng

Khơng chính xác

74 (54.8%)

70 (50%)

144 (52.4%)

dinh dưỡng

Không thực hiện

20 (14.8%)

25 (17.9%)


45 (16.3%)

391


Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2
Bảng 3. Hiện trạng can thiệp dinh dưỡng bước đầu tại các khoa lâm sàng
Đặc điểm

(n = 275)
Chính xác

Ghi mã chế độ ăn theo hướng dẫn
của Bộ Y tế
Bác sĩ hướng dẫn chế độ ăn và hỗ
trợ dinh dưỡng
Điều dưỡng hướng dẫn chế độ ăn

Đăng ký khám tư vấn và hội chẩn
dinh dưỡng

Sau cải tiến

Chung

54 (40%)

65 (46.4%)


119 (43.3%)

Khơng chính xác

62 (45.9%)

57 (40.7%)

119 (43.3%)

Khơng ghi, thiếu

19 (14.1%)

18 (12.9%)

37 (13.4%)



91 (67.4%)

93 (66.4%)

184 (66.9%)

Khơng

44 (32.6%)


47 (33.6%)

91 (33.1%)



79 (58.5%)

82 (58.6%)

161 (58.5%)

Khơng

56 (41.5%)

58 (41.4%)

114 (41.5%)

Có, có tái khám

25 (18.5%)

29 (20.7%)

54 (19.6%)

Có, khơng tái khám


10 (7.4%)

12 (8.6%)

22 (8.0%)

100 (74.1%)

99 (70.7%)

199 (72.4%)

Không đăng ký

BÀN LUẬN
Tại thời điểm tiến hành nghiên cứu đợt 1, có 2
khoa lâm sàng khơng đủ 10 bệnh nhân nội trú nên
chỉ thu thập đợt 1 là 135 bệnh nhân, đợt 2 là 140
bệnh nhân. Những trường hợp bệnh nhân mới nhập
viện hay chưa đến ngày tái đánh giá tình trạng dinh
dưỡng, chúng tơi khơng khơng xếp vào nhóm khơng
thực hiện tái đánh giá. Sau đợt khảo sát vào tháng
5/2020, cùng với học hỏi kinh nghiệm từ các bệnh
viện khác, chúng tôi đã thống kê ý kiến nhân viên,
mỗi khoa 4 nhân viên đại diện gồm 1 ban chủ nhiệm
khoa, 1 điều dưỡng trưởng, 1 bác sĩ, 1 điều dưỡng.
Khi khảo sát ý kiến nhân viên đại diện, chúng tôi ghi
nhận được nhiều rào cản trong thực hiện công tác
dinh dưỡng tại các khoa lâm sàng, như thủ tục hành
chánh nhiều, bệnh ung thư cần điều trị lâu dài nên

nhiều phiếu đánh giá tình trạng dinh dưỡng làm dày
hồ sơ bệnh án, một số thành viên mạng lưới dinh
dưỡng lâm sàng đã nghỉ việc, nhân viên chưa có
thói quen đánh giá tình trạng dinh dưỡng định kì và
chưa thấy rõ ảnh hưởng của suy dinh dưỡng đối với
bệnh nhân ung thư. Trong điều kiện hiện tại, chúng
tôi cải tiến về các thủ tục hành chánh và tiếp tục duy
trì tập huấn cho nhân viên.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận tỉ lệ
bệnh nhân ung thư suy dinh dưỡng và có nguy cơ
suy dinh dưỡng là 31.3 - 65.5%, phù hợp với các
nghiên cứu trước đây tại bệnh viện Ung Bướu và
trên thế giới. Mặc dù dùng chung 1 mẫu phiếu đánh
giá tình trạng dinh dưỡng, nhưng kết quả đánh giá
từ nhân viên khoa lâm sàng và nhân viên khoa
Dinh dưỡng cho tỉ lệ suy dinh dưỡng khác biệt rõ rệt.
Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự khác biệt này là
có hơn 40% bệnh nhân khơng được cân đo thực tế
lúc nhập viện và cân đo định kì. Điều đáng ngạc
nhiên là có đến 1/3 trường hợp có kết quả tính BMI

392

Trước cải tiến

khơng chính xác và gần 1/3 hồ sơ bệnh án khơng có
ghi nhận BMI. Chỉ có 1 số khoa lâm sàng có ghi
nhận tình trạng sụt cân và ăn kém. Như vậy, hơn
80% trường hợp chỉ đánh giá tình trạng dinh dưỡng
dựa vào BMI. Con số này khá cao, so với nghiên

cứu tại Anh quốc (2/3 bác sĩ ung thư khơng chú ý
đến tình trạng sụt cân và ăn kém). Cuối cùng, khi
tổng hợp 4 thơng số trong đánh giá tình trạng dinh
dưỡng, 1/2 số bệnh nhân suy dinh dưỡng đã bị bỏ
sót (31.3% so với 65.5%) và hơn 1/2 hồ sơ tái đánh
giá tình trạng dinh dưỡng khơng chính xác.
Mặc dù tổ chức tập huấn hàng năm, cùng với
cải tiến giảm các thủ tục hành chánh, việc đánh giá
tình trạng dinh dưỡng, hướng dẫn chế độ ăn tại
giường bệnh, ghi mã chế độ ăn phù hợp vẫn chưa
được cải thiện. Tỉ lệ bệnh nhân nội trú được hướng
dẫn chế độ ăn và hỗ trợ dinh dưỡng tại phòng bệnh
chỉ khoảng 60%. So với tỉ lệ suy dinh dưỡng tại
bệnh viện là 65.5%, tỉ lệ bệnh nhân được khám
tư vấn - hội chẩn dinh dưỡng chỉ chiếm 30%.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận ra những cải
tiến của chúng tôi đã giảm được thủ tục hành chánh,
đơn giản để ghi nhớ, dựa trên khảo sát sự hài lòng
của nhân viên y tế lúc kiểm tra. Tuy nhiên, những cải
tiến này không cải thiện được thói quen và sự quan
tâm của nhân viên y tế về dinh dưỡng đã ảnh hưởng
lên kết cục điều trị bệnh lý ung thư như thế nào trong
thời gian vừa qua. Hiện tại, can thiệp dinh dưỡng
trong bệnh viện hiện chủ yếu là do nhân viên khoa
Dinh dưỡng - Tiết chế đảm trách. Cần có những đợt
kiểm tra định kỳ thường xuyên hơn, những biện
pháp chế tài rõ ràng sau khi đã đào tạo mạng lưới
dinh dưỡng, với nhân lực là Trưởng các khoa
phịng. Từ đó góp phần cải thiện chất lượng chăm



Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2
sóc dinh dưỡng bệnh nhân tại bệnh viện Ung Bướu
TP. Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arends J, Bachmann P, Baracos V, et al.
ESPEN guidelines on nutrition in cancer
patients. Clin Nutr. 2017; 36: 11 - 48.
2. A. Spiro, C. Baldwin, A. Patterson, et al (2006).
The views and practice of oncologists towards
nutritional support in patients receiving
chemotherapy. Br J Cancer, 95 pp. 431-434.
3. Baldwin C, Weekes CE. Dietary advice with or
without oral nutritional supplements for diseaserelated malnutrition in adults. Cochrane
Database Syst Rev. 2011; (9): CD002008.
4. Baldwin C, Spiro A, Ahern R, Emery PW. Oral
nutritional interventions in malnourished patients
with cancer: a systematic review and metaanalysis. J Natl Cancer Inst. 2012; 104:
371 - 385.
5. Đoàn Trọng Nghĩa và cộng sự (2013). Khảo sát
tình trang dinh dưỡng tiền phẫu của bệnh nhân

ung thư đường tiêu hóa. Tạp chí Y Dược Học
TP.HCM, 99 - 109.
6. Isabela Borges Ferreira, et al (2015). Food
intake and the nutritional status of women
undergoing chemotherapy, pp 2209 - 2018.
7. Isenring E, Elia M. Which screening method is

appropriate for older cancer patients at risk for
malnutrition? Nutrition. 2015; 31: 594 - 597.
8. Michael J. Baine (2017). Tube Placement during
chemoradiotherapy for locally advanced cancer
of the Oropharynx. Do not negatively impact
Outcomes.
9. Phạm Thanh Thúy và cộng sự (2010). Khảo sát
tình trạng dinh dưỡng bệnh nhân ung thư vùng
đầu cổ. Tạp chí Y Học TP.HCM, 85 - 93.
10. Schindler K., et al. How nutritional risk is
assessed and managed in European hospitals: A
survey of 21,007 patients findings from the
2007 - 2008 cross-sectional nutritionDay survey.
Clin. Nutr. 2010; 29: 552 - 559.

393


Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2
ABSTRACT
The study aimed to examine the current status of nutritional assessment and intervention in Ho Chi
Minh city Oncology hospital
Methods: A cross-sectional description studie, including 275 patients who were treated in almost clinical
departments in Ho Chi Minh city Oncology hospital from May 2020 to August 2020.
Results: 34.2% of patients with malnutrition and malnutrition risk were missed. 43.6% of patients were not
gotten weight at admission. The assessment of nutritional status was mainly based on BMI, 83.6% of cases
whose weight loss were not recorded and 85.5% of cases were not followed intake. In 43.3% of cases, the
dietary code was incorrectly recorded in the medical report. 52.7% of patients were nutritional assessed once
during treatment.

Conclusion: Nutritional status and interventions were done on all clinical departments, but there were still
many mistakes. Training and monitoring of nutritional evaluation and intervention is an indispensable task of
the Department of Nutrition and Dietetics.
Key words: Assessment of nutritional status, nutritional intervention, cancer, Ho Chi Minh city Oncology
hospital.

394



×