Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

BÁO cáo bài tập lớn môn ĐƯỜNG lối CÁCH MẠNG của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.71 KB, 54 trang )

0

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
NĂM HỌC 2019 – 2020
-------*-------

BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI 2: Q TRÌNH HỒN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ
ĐẦU TIÊN ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
NHĨM LỚP: A07 – Nhóm 5
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Nguyễn Hữu Kỷ Tỵ
THÀNH VIÊN: 1/ Nguyễn Xuân Hoàng An – 1710436 (Nhóm trưởng)
2/ Lâm Phan Nghĩa – 1712316
3/ Phan Thanh Phong – 1612583
4/ Lê Long Thịnh – 1713322
5/ Diệp Anh Thư – 1713416
6/ Lê Văn Vinh – 1713972


1

Tp. HCM, ngày 10 tháng 06 năm 2020
BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA
TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 5
STT
1.

Họ và tên


Nguyễn

MSSV

Nhiệm vụ

Kết quả

Xuân 1710436 3.2. Sự hoàn chỉnh

Hoàng An

Chữ ký

100%

đường lối cách mạng
Dân tộc Dân chủ Nhân
dân
Kết luận

2.

Lâm Phan Nghĩa

1712316 2.2. Sự hoàn chỉnh

100%

đường lối cách mạng

giải phóng dân tộc từ
năm 1939 đến năm
1945
3.

Phan Thanh Phong

1612583 3.1. Bối cảnh lịch sử

100%

và nội dung Chính
cương Đảng Lao động
Việt Nam
4.

Lê Long Thịnh

1713322 1.2. Cương lĩnh chính

100%

trị đầu tiên
5.

Diệp Anh Thư

1713416 Phần mở đầu

100%


Trình bày báo cáo
1.1. Bối cảnh lịch sử
6.

Lê Văn Vinh

1713972 2.1. Luận cương chính

100%

trị
NHĨM TRƯỞNG


2

LỜI NĨI ĐẦU
Trong q trình làm bài, chúng em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ mọi
người, đặc biệt là q thầy cơ GVC. TS. Đào Thị Bích Hồng và ThS. Nguyễn Hữu Kỷ
Tỵ. Chúng em rất cảm ơn thầy cơ đã có những hướng tận tình và kịp thời trong quá
trình làm bài tập lớn. Tuy chúng em đã cố gắng làm thật tốt, nhưng cũng không thể
tránh khỏi những sai sót nhất định, vì thế nhóm rất mong muốn thầy cơ góp ý chân
thành để hiểu biết hơn về chủ trương, đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cùng
với đó là bồi dưỡng niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, định hướng
phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng và đường lối của Đảng, nâng cao ý thức trách nhiệm
của bản thân trước những nhiệm vụ, vận mệnh của đất nước, giúp nâng cao tinh thần
yêu nước, đóng góp tài sức, trí tuệ để cùng nhau xây dựng đất nước, đặc biệt là trong
thời kỳ đất nước đang phát triển và hội nhập trên trường quốc tế.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

NHÓM 5 – A07


3

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU..............................................................................................................2
MỤC LỤC..................................................................................................................... 3
PHẦN MỞ ĐẦU...........................................................................................................5
I.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:.......................................................................................5

II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:................................................................................6
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU................................................................................6
IV. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:...........................................................................................7
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................9
I.

BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM DƯỚI CHÍNH SÁCH THỐNG TRỊ VÀ

KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH
TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG:....................................................................................9
1.1.

Bối cảnh lịch sử.............................................................................................9

1.1.1.

Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp............................9


1.1.2.

Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế

kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.....................................................................................19
1.1.3.
1.2.

Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vơ sản...................................22

Cương lĩnh chính trị.....................................................................................28

II. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TỪ THÁNG 10 NĂM
1930 ĐẾN THÁNG 5 NĂM 1941:...........................................................................33
2.1.

Luận cương chính trị....................................................................................33


4

2.1.1.

Bối cảnh ra đời của Luận cương chính trị.............................................33

2.1.2.

Nội dung của Luận cương chính trị.......................................................34


2.2.

Sự hồn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc từ năm 1939 đến

năm 1945...............................................................................................................40
2.2.1.

Bối cảnh lịch sử.....................................................................................40

2.2.2.

Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng..........................41

III. CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ SỰ HOÀN CHỈNH
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN:.......................44
3.1.

Bối cảnh lịch sử và nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam........44

3.1.1.

Bối cảnh lịch sử.....................................................................................44

3.1.2.

Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam................................44

3.2.

Sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân................46


3.2.1.

Nội dung hoàn chỉnh.............................................................................46

3.2.2.

Giá trị thực tiễn......................................................................................50

PHẦN KẾT LUẬN.....................................................................................................52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................54


5

PHẦN MỞ ĐẦU
I.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng là một hệ thống quan

điểm, chủ trương, chính sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của
cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, giành độc lập dân tộc.
Những quan điểm, chủ trương, chính sách đó gắn liền với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
đất nước ta lúc bấy giờ. Đó là đứng trước những thuận lợi và vơ vàng những khó khăn.
Trước tình hình đó Đảng đã đề ra đường lối kháng chiến cho toàn dân với những nội
dung cơ bản, đúng đắn, sáng tạo phù hợp với tình hình nước ta lúc bấy giờ, kế thừa
được kinh nghiệm của tổ tiên, những tiền bối đi trước đúng với nguyên lí về chiến
tranh cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính vì thế đã đưa cuộc kháng chiến
của dân tộc ta nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng và từng bước đi

đến thắng lợi.
Vậy nên để làm sáng tỏ và nhận thức đúng đắn hơn về đường lối kháng chiến
chống Pháp của Đảng, chúng em đã chọn đề tài: “Quá trình hoàn chỉnh Đường lối
Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên đến Chính
cương Đảng Lao động Việt Nam” để làm bài tập lớn của nhóm.
Từ ngày thành lập đến nay, dưới những hình thức và tên gọi khác nhau, Ðảng ta
đã năm lần ban hành cương lĩnh hoặc những văn bản có tính cương lĩnh. Mỗi cương
lĩnh đều chứa đựng những giá trị nội dung, ý nghĩa lớn lao riêng và có vai trò lịch sử
trọng đại đối với vận mệnh của dân tộc ta. Ba văn kiện Cương lĩnh chính trị, Luận
cương chính trị và Chính cương Đảng Lao động Việt Nam là những tiền đề lớn góp
phần đưa nước ta đi đến thắng lợi, giành độc lập cho dân tộc. Đề tài này nêu lên bối
cảnh, nội dung và đi đến so sánh, từ đó hiểu được tầm quan trọng của các văn kiện này.
Thực hiện tốt đề tài này giúp nhóm sinh viên nói riêng và người đọc nói chung hiểu
được tư tưởng nhất quán về cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đến cách


6

mạng XHCN, độc lập dân tộc gắn với CNXH; nhân dân là động lực cách mạng; Đảng
Cộng sản lãnh đạo cách mạng; Nhà nước, Chính phủ, quân đội của nhân dân; xây dựng
nước Việt Nam hịa bình, thống nhất dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
II.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Việc nghiên cứu đề tài này giúp trang bị cho bản thân những hiểu biết cơ bản về

tình hình nước ta trong giai đoạn này: những chủ trương, chính sách của Đảng đã đề ra
để có thể vận dụng để giải quyết những khó khăn mà nhân dân ta phải đương đầu, đưa
cuộc cách mạng của dân tộc đi đến thắng lợi hồn tồn.

Nghiên cứu vấn đề này cịn bồi dưỡng niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt, tài
tình của Đảng, định hướng phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng và đường lối của Đảng,
nâng cao ý thức trách nhiệm của bản thân trước những nhiệm vụ, vận mệnh của đất
nước, giúp nâng cao tinh thần yêu nước, đóng góp tài sức, trí tuệ để cùng nhau xây
dựng đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đất nước đang phát triển và hội nhập trên
trường quốc tế.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Các nhiệm vụ mà đề tài cần đạt được bao gồm:
-

Làm rõ bối cảnh lịch sử của Việt Nam và sự ra đời của Cương lĩnh chính trị,
Luận cương chính trị và Chính cương Đảng Lao động Việt Nam. Dựa vào thực
tiễn lúc bấy giờ, chứng minh được sự đúng đắn của các văn kiện này.

-

Phân tích nội dung của các văn kiện.

-

Thể hiện được vai trò và vị trí cách mạng của các tầng lớp, giai cấp của xã hội
Việt Nam trong q trình hồn chỉnh đường lối cách mạng.

-

Những chủ trương, chính sách của Đảng đã đề ra trong q trình hồn chỉnh
Đường lối Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân.

-


So sánh được các điểm giống và khác nhau giữa các văn kiện.


7

-

Làm rõ giá trị của sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân
dân của Đảng đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đối
với sự phát triển của đất nước hiện nay.

-

Hiểu được Đảng có những bước chuyển tích cực, thể hiện sự trưởng thành của
Đảng về mọi mặt.

-

Nêu lên vai trị quan trọng của Nguyễn Ái Quốc trong q trình thành lập Đảng
và hoàn chỉnh đường lối Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân.

IV.
NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
Nội dung đề tài được kết cấu thành 3 mục như sau.
Mục 1 – Bối cảnh lịch sự Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: Mục này trình bày
bối cảnh lịch sử về mặt kinh tế, chính trị và xã hội của Việt Nam dưới sự thống trị của
thực dân Pháp. Đồng thời nêu lên tình trạng giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã
hội nước ta trong những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Từ đó đi đến phân tích
từng nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và dựa vào thực tiễn Việt

Nam ở phần Bối cảnh lịch sử để làm rõ sự đúng đắn của văn kiện này.
Mục 2 – Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ 10-1930 đến tháng 51941: Trong phần này, nhóm đi vào phân tích hai nội dung đó là Luận cương chính trị
và sự hồn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc từ năm 1939 đến năm 1945.
Thứ nhất là, bối cảnh lịch sử giai đoạn từ tháng 10/1930 đến tháng 5/1941. Từ những
thực tiễn Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
vào đầu năm 1930, nhóm phân tích từng nội dung của Luận cương chính trị. Sau đó là
so sánh với Cương lĩnh chính trị đầu tiên có những điểm giống và khác nhau và ưu
điểm hay hạn chế. Thứ hai là, phân tích từng nội dung của Nghị quyết Hội nghị tháng
11/1939, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương
(5/1941); so sánh với Luận cương chính trị 10/1930 để làm rõ sự khắc phục hạn chế


8

của Đảng; so với Cương lĩnh chính trị đầu tiên để thấy được sự khẳng định quan điểm
đúng đắn của Hồ Chí Minh và hồn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc.
Mục 3 – Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và sự hoàn chỉnh đường lối
cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân: Trình bày từng nội dung của Chính cương
Đảng Lao động Việt Nam. Dựa vào thực tiễn Việt Nam để làm rõ sự đúng đắn của văn
kiện này. Nhóm so sánh Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (2/1951) với Cương
lĩnh chính trị đầu tiên (đầu năm 1930), Luận cương chính trị (10/1930 xung quanh
những nội dung: Về nhiệm vụ cách mạng, tập hợp lực lượng tham gia cách mạng,
phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc. Cuối cùng là làm rõ giá trị của sự hoàn chỉnh đường
lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân của Đảng đối với sự nghiệp giải phóng dân
tộc, thống nhất Tổ quốc và đối với sự phát triển của đất nước hiện nay.


9

PHẦN NỘI DUNG

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM DƯỚI CHÍNH SÁCH THỐNG
TRỊ VÀ KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ CƯƠNG
LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG:
1.1.

Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp

Vào giữa thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thống trị ở
Anh, Pháp, Đức và một số nước khác ở Tây Âu. Ở các nước này, giai cấp tư sản tăng
cường áp bức, bóc lột giai cấp cơng nhân. Và cũng tại đây, phong trào công nhân phát
triển từ “tự phát” đến “tự giác”, mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp công nhân và giai cấp
tư sản trở nên gay gắt. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đối với chủ nghĩa tư bản
địi hỏi phải có lý luận tiên phong dẫn đường. Để đáp ứng địi hỏi đó, chủ nghĩa Mác ra
đời với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Lý luận của chủ nghĩa Mác khẳng định sứ
mệnh lịch sử tồn thế giới của giai cấp cơng nhân là lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây
dựng xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Đến cuối thế kỷ thứ XIX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc tranh giành nhau xâm chiếm thuộc địa và đã căn
bản hoàn thành việc phân chia thế giới, áp đặt ách thống trị thực dân ở khắp các nước
Á, Phi và Mỹ Latinh. Thế giới bị chia cắt làm hai: một khu vực gồm các nước tư bản,
có nền cơng nghiệp phát triển, thường được gọi là phương Tây, còn khu vực còn lại
gồm các nước thuộc địa và phụ thuộc, nền kinh tế còn lạc hậu, thường được gọi là
phương Đông. Vấn đề đặt ra cho các nước thuộc địa và phụ thuộc là làm thế nào để
được giải phóng. Thế giới hình thành mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa các dân tộc
thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Nó trở thành điều kiện khách quan cho phép
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa gắn bó với phong trào cách mạng quốc tế,
đặc biệt là với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước tư bản.



10

Sang đầu thế kỷ XX, nhiều sự kiện lịch sử diễn ra dồn dập, báo trước sự chuyển
biến của tình hình quốc tế. Cuộc xung đột, tranh giành quyền lợi giữa các nước đế quốc
đã dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), làm cho các mâu thuẫn
vốn có của chủ nghĩa đế quốc trở nên gay gắt. Cùng với phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân ở các nước đế quốc, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa và phụ thuộc bùng lên mạnh mẽ, điển hình là Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Thổ
Nhĩ Kỳ, Ápganixtan, Inđônêxia… Bão táp cách mạng với “phương Đông thức tỉnh” là
nét đặc sắc của tình hình quốc tế trong giai đoạn này.
Trong bối cảnh lịch sử ấy, Lênin đã phân tích tình hình cụ thể, tiếp tục phát triển
chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đề ra lý luận cách mạng vơ sản có
thể thành cơng ở một số nước, thậm chí trong một nước tư bản phát triển trung bình;
đồng thời nêu lên nguyên lý về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa, về sự đồn kết
giữa giai cấp công nhân ở các nước tư bản và các dân tộc ở các nước thuộc địa trong
cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Thực tiễn chứng minh lý
luận của Lênin là đúng với thắng lợi của cuộc Cách mang Tháng Mười năm 1917 dưới
sự lãnh đạo của Đảng Bơnsêvích Nga. Thắng lợi đó là nguồn cổ vũ lớn lao đối với cách
mạng thế giới, nhất là cách mạng ở thuộc địa. Năm 1919, Lênin cùng các nhà cách
mạng chân chính ở các nước thành lập Quốc tế Cộng sản – một tổ chức quốc tế của
phong trào cách mạng thế giới. Quốc tế Cộng sản ra đời đánh dấu bước phát triển mới
về chất của phong trào cách mạng vô sản và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
trên phạm vi thế giới.
Trong bối cảnh chung của tình hình quốc tế, Việt Nam cũng bị chi phối bởi
những điều kiện lịch sử đó. Việt Nam là một quốc gia hình thành sớm. Ý thức quốc
gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt có từ ngàn xưa. Cuộc đấu
tranh chống thiên tai và giặc ngoại xâm trong hàng ngàn năm lịch sử đã hun đúc cho
dân tộc Việt Nam những truyền thống tốt đẹp: yêu nước nồng nàn, độc lập tự chủ, kiên
cường bất khuất, đoàn kết thống nhất... Dân tộc Việt Nam khơng ngừng giữ gìn và phát
huy những truyền thống tốt đẹp đó.



11

Từ năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Chúng từng bước
thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
Sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình định vũ trang, thực dân Pháp tiến hành
những cuộc khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt tài nguyên thiên nhiên, bóc lột nhân
cơng rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hố của chính quốc.
Chính sách “khai hố văn minh của thực dân Pháp được Hồ Chí Minh vạch rõ: “Khi
người ta có da trắng thì nghiễm nhiên người ta là một nhà khai hóa. Mà khi người ta đã
là nhà khai hóa thì người ta có thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là người văn
minh nhất”1. Trên tất cả mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến văn hố tư tưởng chúng
đều tìm mọi cách kìm hãm sự phát triển của dân tộc ta.
Về chính trị, pháp lý, sau khi xâm chiếm Việt Nam, thực dân Pháp không áp
dụng những thành tựu của cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789 để thủ tiêu chế độ
phong kiến chuyên chế đã lỗi thời, thay bằng một chế độ chính trị mới tiến bộ hơn,
được soi chiếu bởi tư tưởng của những nhà khai sáng dân chủ tư sản; trái lại, Pháp lại
duy trì chế độ phong kiến làm tay sai cho bộ máy thống trị thực dân. Đặc biệt, thực dân
Pháp thi hành ở Việt Nam chính sách pháp luật hết sức phản động, phân biệt đối xử
giữa người da trắng và người bản địa. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”
(năm 1925), Hồ Chí Minh viết: “Về hành chính và pháp lý: cả một vực thẳm cách biệt
người Âu với người bản xứ. Người Âu hưởng mọi tự do và ngự trị như người chủ tuyệt
đối; còn người bản xứ thì bị bịt mõm và bị buộc dây dắt đi, chỉ có quyền phải phục
tùng, khơng được kêu ca, vì nếu anh ta dám phản đối thì anh ta liền bị tuyên bố là kẻ
phản nghịch hoặc là một tên cách mạng, và bị đối xử đúng với tội trạng ấy”2
Để duy trì ách thống trị của mình, thực dân Pháp cịn thi hành chính sách “chia
để trị”, chia nước ta làm 3 xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, hịng “làm nguội được
tình đồn kết, nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam và tạo ra những mối xung


1

Nguyễn Ái Quốc (1925), Bản án chế độ thực dân Pháp, Nxb. Trẻ, tr.74

2

Hồ Chí Minh (2011): Tồn tập, Nxb. Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, t.1, tr.11.


12

khắc giữa anh em ruột thịt với nhau”1. Thực dân Pháp đã bộc lộ rõ bộ mặt lừa dối và
tàn bạo khi thực hiện “chế độ lính tình nguyện” bằng cách tiến hành những cuộc lùng
ráp lớn về nhân lực trên tồn cõi Đơng Dương, đẩy hàng chục vạn người dân Việt Nam
phải bỏ mạng nơi đất khách quê người, trở thành người đóng “thuế máu” cho chúng.
Thậm chí, chính quyền thực dân đã hành hạ, tra tấn những người trong gia đình họ, cho
đến khi những người trốn lính buộc phải nhận “tình nguyện” tham gia qn đội.
Khơng những thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ của người dân, thực dân Pháp
còn câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế, áp bức chính trị nhân dân ta.
Chúng thẳng tay chém giết những người con Việt Nam yêu nước dám đứng lên chống
lại sự thống trị tàn bạo của chúng, tắm các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đấu tranh
yêu nước trong biển máu. Sự “khai hóa văn minh” được thể hiện ở phương châm: “Đối
với cái giống nịi Annamít ấy, chỉ có một cách tốt để cai trị nó - đó là ách thống trị
bằng sức mạnh...”2. Với một ách cai trị hà khắc, thiếu nhân tính, dân tộc ta đi vào cảnh
cùng cực còn hơn cả “địa ngục”. Lúc này đây, họ cần nhất một sự lãnh đạo và những
đường lối đúng đắn để giải phóng dân tộc, cứu lấy đất nước mà cha ơng ta đã nghìn
năm xây dựng và gìn giữ. Đây chính là những điển hình thực tế thơi thúc thành lập một
chính Đảng, một giai cấp lãnh đạo tại Việt Nam.
Trong lĩnh vực kinh tế, nhằm vơ vét tài ngun, khống sản, làm giàu cho chính
quốc, thực dân Pháp đã đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa, đỉnh cao là cuộc khai

thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914) và lần thứ hai (1919 – 1929), làm khánh kiệt
tài nguyên của đất nước. Đi kèm với đó, hệ thống giao thông (đường bộ, đường sắt,
đường thủy, cảng biển…) phục vụ cho việc khai thác thuộc địa được mở mang; một số
cơng trình dân sinh phục vụ cho nhu cầu của giới thực dân được xây dựng, chứ không
nhằm đem lại cuộc sống tốt đẹp cho người dân bản xứ.
Đáng nói hơn là, nhằm nơ dịch, đầu độc, bóc lột dân ta, chính quyền thuộc địa
đã áp dụng chính sách độc quyền, khuyến khích tiêu thụ rượu, thuốc phiện. “Lúc ấy, cứ
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.125.

2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.1, tr.11


13

một nghìn làng thì có đến một nghìn năm trăm đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện.
Nhưng cũng trong số một nghìn làng đó lại chỉ có vẻn vẹn mười trường học” 1. Từ năm
1900 đến năm 1910, chính quyền thuộc địa thu về 45 triệu tiền lời từ rượu. Đồng thời,
sử dụng nhiều biện pháp khuyến khích, ép buộc người dân sử dụng thuốc phiện. Chế
độ đó đã làm hại giống nòi Việt Nam nhưng đem lại nguồn thu khơng nhỏ cho những
tên thực dân. Cùng với đó, thực dân Pháp còn thực hiện chế độ cho vay nặng lãi, sưu
cao, thuế nặng, với nhiều loại thuế, chỉ tính “từ năm 1890 đến năm 1896, thuế trực thu
tăng gấp đôi; từ năm 1896 đến năm 1898 lại tăng lên gấp rưỡi” 2. Điều đó làm cho đời
sống người dân vốn đã cơ cực lại càng cơ cực, nhiều người vì gánh nặng nợ nần đã
phải “bán vợ, đợ con” và nhà cửa, ruộng vườn để thoát nợ nần, tù tội.
Vì vậy, trong Tun ngơn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hịa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án những chính sách kinh tế thời kỳ chế độ thực dân:

“Về kinh tế - Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân nghèo nàn, thiếu
thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, rừng mỏ, nguyên liệu…
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở
nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta được giầu lên. Chúng bóc lột cơng
nhân ta một cách vơ cùng tàn nhẫn” 3. Từ đó có thể thấy, đây là thời kỳ đen tối của lịch
sử Việt Nam, một thời điểm cấp thiết cần có một giai cấp lãnh đạo sáng suốt để soi lối
cho con đường giải phóng dân tộc.
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, thực dân Pháp đã thể hiện sự “khai hóa” bằng
“chính sách ngu dân” để trị. Tuy người Pháp có mở một số trường dạy chữ, dạy nghề,
nhưng khơng phải vì mục tiêu nâng cao dân trí, mà chủ yếu nhằm đào tạo ra một đội
ngũ người Việt có thể giúp việc đắc lực cho việc khai thác, bóc lột và duy trì lâu dài
nền thống trị thuộc địa của mình. Điều này được Hồ Chí Minh dẫn ý kiến của ngay
chính những người Pháp có “tâm địa thực dân” về nền giáo dục ở Đơng Dương và Việt
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.40

2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.81

3

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.2


14

Nam: “Truyền học vấn cho bọn Annamít hoặc cho phép chúng tự chúng có học vấn,
tức là một mặt cung cấp cho chúng những súng bắn nhanh để chống chúng ta, và mặt

khác đào tạo những con chó thơng thái gây rắc rối hơn là có ích...” 1, hoặc “Chúng ta
chỉ cần dạy tiếng Pháp cho người An Nam, dạy cho họ biết đọc, biết tính tốn chút ít
thơi; biết hơn nữa chỉ là thừa vơ ích” 2. Với mục đích hạn chế thanh thiếu niên Việt
Nam đến trường, chính quyền thực dân quy định, hệ tiểu học gồm 5 lớp từ thấp đến
cao, học sinh phải thi lấy bằng Sơ học yếu lược sau khi học được 3 năm và phải học
bằng tiếng Pháp ở hai năm cuối. Các quy định khắt khe đó đã khiến nhiều học sinh
nơng thơn bỏ học, nên tình trạng mũ chữ vẫn là phổ biến trong dân chúng. Theo thống
kê năm 1914, bình quân cả ba xứ, chỉ có 20% số trẻ em đến tuổi đi học được đến
trường, 80% trẻ em Việt Nam bị thất học3.
Ngay cả người Pháp cũng nhận xét: “Về phương diện tinh thần, người Pháp
không tổ chức một nền giáo dục mới thay thế cho nền giáo dục An Nam mà họ đã bỏ
đi. Họ chỉ xây dựng được một ít trường học để đào tạo ra những con vẹt, những người
vong bản thiếu đạo đức và thiếu cả kiến thức phổ thông”4. Không chỉ vậy, thực dân
Pháp cịn tăng cường kiểm sốt các ấn phẩm, nhất là báo chí, sử dụng phương tiện văn
hóa để tun truyền cho chủ nghĩa thực dân, cơng kích tư tưởng tiến bộ, phong trào
cách mạng trên thế giới. Họ “cấm học sinh đọc tác phẩm của Huygơ, Rútxơ và
Mơngtexkiơ”5, vì lo sợ tư tưởng của các nhà khai sáng sẽ tác động đến thanh niên. Đi
cùng với chính sách ngu dân, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chính sách đầu độc,
trụy lạc đối với người dân, nhất là đối với thanh niên; nạn cờ bạc, mại dâm, mê tín, thói

1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.1, tr.11

2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.1, tr.424

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Lịch sử (2013): Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, t.7, tr. 172.

3

4

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.1, tr.424.

5

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.1, tr.424.


15

hư, tật xấu,… được chính quyền các cấp dung túng, cho phát triển, trở thành ung nhọt,
gây nhức nhối trong xã hội Việt Nam, v.v.
Còn trên lĩnh vực y tế, hầu như người dân khơng được hưởng sự chăm sóc y tế,
thường xuyên đối mặt với các loại dịch bệnh, đặc biệt là các loại bệnh truyền nhiễm có
ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và khả năng gây tử vong.
Rõ ràng, với những tư liệu sinh động, thuyết phục trên, nhất là những chỉ dẫn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã vạch trần bản chất của chủ nghĩa thực dân là khai thác
kinh tế. Cịn chiêu bài “khai hóa”, “bình đẳng, bác ái” chỉ là bình phong để họ thực
hiện mục đích của mình. Đó là sự thật lịch sử, mà khơng ai có thể phủ nhận. Và cũng
chính từ những sự thật đó cũng chứng minh rằng nếu khơng nhanh chóng có những
bước đi có chiến lược và đối sách có tầm nhìn, người dân Việt Nam sẽ càng lúc càng
mất dần nền văn hóa nghìn năm, chịu áp bức về mặt văn hóa nặng nề, lâm vào tệ nạn
và bệnh tật. Đồng thời những thực tế trên cũng chứng tỏ cần một chính Đảng để lãnh
đạo nhân dân đứng lên chống thực dân Pháp.
-

Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam

Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình

hình xã hội Việt Nam. Sự phân hố giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn.
Giai cấp địa chủ phong kiến đã tồn tại hơn ngàn năm. Chủ nghĩa tư bản thực
dân được đưa vào Việt Nam và trở thành yếu tố bao trùm, song vẫn khơng xóa bỏ mà
tiếp tục bảo tồn và duy trì giai cấp địa chủ để làm cơ sở cho chế độ thuộc địa. Tuy
nhiên, do chính sách kinh tế và chính trị phản động của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ
càng bị phân hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung và đại địa chủ. Có một số địa
chủ bị phá sản. Vốn sinh ra và lớn lên trong một quốc gia dân tộc có truyền thống yêu
nước chống ngoại xâm, lại bị chính sách thống trị tàn bạo về chính trị, chèn ép về kinh
tế, nên một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ không chịu nỗi nhục mất nước, có
mâu thuẫn với đế quốc về quyền lợi dân tộc nên đã tham gia đấu tranh chống thực dân
và bọn phản động tay sai. Trong tình thế này, bộ phân các địa chủ yêu nước cần được
khuyến khích và giác ngộ để tham gia cách mạng. Đối với bọn phản quốc cần có thời


16

gian dị xét, theo dõi, nếu có thể thì lợi dụng để làm cách mạng, còn trong trường hợp
đã bị tha hóa thì sẽ tìm cách đánh đổ sau khi đã chống đế quốc thành công.
Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số. Họ bị đế quốc, phong kiến địa
chủ và tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề. Ruộng đất của nông dân đã bị bọn tư bản
thực dân chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua rẻ bán đắt, tô cao, thuế nặng,
chế độ cho vay nặng lãi... của đế quốc và phong kiến đã đẩy nơng dân vào con đường
bần cùng hóa khơng lối thốt. Một số ít bán sức lao động, làm thuê trong các nhà máy,
hầm mỏ, đồn điền hoặc bị bắt đi làm phu tại các thuộc địa khác của đế quốc Pháp. Cịn
số đơng vẫn phải gắn vào đồng ruộng và gánh chịu sự bóc lột vơ cùng nặng nề ngay
trên mảnh đất mà trước đây là sở hữu của chính họ.
Vì bị mất nước và mất ruộng đất nên nơng dân có mâu thuẫn với đế quốc và
phong kiến, đặc biệt sâu sắc nhất với đế quốc và bọn tay sai phản động. Họ vừa có yêu

cầu độc lập dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu về độc lập dân tộc là
bức thiết nhất. Giai cấp nơng dân có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất, là
lực lượng to lớn nhất, một động lực cách mạng mạnh mẽ. Giai cấp nông dân khi được
tổ chức lại và có sự lãnh đạo của một đội tiên phong cách mạng, sẽ phát huy vai trò cực
kỳ quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.
Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng lớp
nhỏ bé. Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời trong
điều kiện bị tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng tư sản Việt Nam
không nhiều, thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối.
Trong q trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ phận:
Tư sản mại bản là những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, bao thầu
những cơng trình xây dựng của chúng ở nước ta. Nhiều tư sản mại bản có đồn điền lớn
hoặc có nhiều ruộng đất cho phát canh, thu tơ. Vì có quyền lợi kinh tế và chính trị gắn
liền với đế quốc thực dân, nên tư sản mại bản là tầng lớp đối lập với dân tộc.


17

Tư sản dân tộc là bộ phận đông nhất trong giai cấp tư sản, bao gồm những tư
sản loại vừa và nhỏ, thường hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp và
cả tiểu thủ công nghiệp. Họ muốn phát triển chủ nghĩa tư bản của dân tộc Việt Nam,
nhưng do chính sách độc quyền và chèn ép của tư bản Pháp nên không thể phát triển
được. Xét về mặt quan hệ với đế quốc Pháp, tư sản dân tộc phải chịu số phận mất
nước, có mâu thuẫn về quyền lợi với bọn đế quốc thực dân và phong kiến, nên họ có
tinh thần chống đế quốc và phong kiến. Giai cấp tư sản dân tộc là một lực lượng cách
mạng không thể thiếu trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Họ cần được chỉ
hướng và dẫn dắt bởi một Đảng có đường lối đúng đắn để làm cách mạng.
Giai cấp tiểu tư sản bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu chủ,
thợ thủ công, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghề tự do.

Giữa những bộ phận đó có sự khác nhau về kinh tế và cách sinh hoạt, nhưng nhìn
chung, địa vị kinh tế của họ rất bấp bênh, luôn ln bị đe dọa phá sản, thất nghiệp. Họ
có tinh thần yêu nước nồng nàn, lại bị đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột và khinh
rẻ nên rất hăng hái cách mạng. Đặc biệt là tầng lớp trí thức là tầng lớp rất nhạy cảm với
thời cuộc, dễ tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ và canh tân đất nước, tha thiết bảo vệ
những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Khi phong trào quần chúng công nông
đã thức tỉnh, họ bước vào trận chiến đấu giải phóng dân tộc ngày một đơng đảo và
đóng một vai trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của quần chúng, nhất là ở đô
thị. Giai cấp tiểu tư sản là một lực lượng cách mạng quan trọng trong cuộc đấu tranh vì
độc lập tự do của dân tộc.
Giai cấp cơng nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của
Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp công
nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở
công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình định của chúng ở nước
ta. Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc Pháp, giai cấp cơng nhân
đã hình thành. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp công nhân đã phát
triển nhanh chóng về số lượng, từ 10 vạn (năm 1914) tăng lên hơn 22 vạn (năm 1929),


18

trong đó có hơn 53.000 cơng nhân mỏ (60% là công nhân mỏ than), và 81.200 công
nhân đồn điền.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam tuy cịn non trẻ, số lượng chỉ chiếm khoảng 1% số
dân, trình độ học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng sống khá tập trung tại các thành phố, các
trung tâm công nghiệp và các đồn điền.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp cơng nhân
quốc tế, đồng thời cịn có những điểm riêng của mình như: phải chịu ba tầng lớp áp
bức bóc lột (đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ); phần lớn vừa mới từ nông dân bị
bần cùng hóa mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều mặt với nông dân. Giai cấp

công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ thuần nhất, không
bị phân tán về lực lượng và sức mạnh. Sinh ra và lớn lên ở một đất nước có nhiều
truyền thống văn hóa tốt đẹp, nhất là truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, sớm tiếp
thu được tinh hoa văn hóa tiên tiến trong trào lưu tư tưởng của thời đại cách mạng vô
sản để bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho
phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách
mạng triệt để, lại mang bản chất quốc tế. Họ là một động lực cách mạng mạnh mẽ và
khi liên minh được với giai cấp nông dân và tiểu tư sản sẽ trở thành cơ sở vững chắc
cho khối đại đồn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Khi được tổ chức
lại và hình thành được một đảng tiên phong cách mạng được vũ trang bằng một học
thuyết cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác – Lênin thì giai cấp cơng nhân trở thành
người lãnh đạo cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam và cả Đông
Dương nói chung là một chính sách thống trị chun chế về chính trị, bóc lột nặng nề
về kinh tế nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nơ dịch về văn hóa,
giáo dục, chứ khơng phải đem đến cho nhân dân một sự "khai hoá văn minh" – một sự
khai hoá và cải tạo thực sự theo kiểu phương Tây. Bản chất của "sứ mạng khai hố" đó
chính là sự khai thác thuộc địa diễn ra dưới lưỡi lê, họng súng, máy chém… Ách thống


19

trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời của 2 giai cấp mới:
công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này
đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau đều bị thực
dân Pháp áp bức, bóc lột. Chính sách cai trị, áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và
phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn
giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân

dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến. Trong đó, mâu
thuẫn chủ yếu nhất là: mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp
xâm lược. Tính chất xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Thực tiễn
lịch sử Việt Nam đặt ra hai nhiệm vụ cách mạng: một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp
xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong
kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó
chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
1.1.2. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối
thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỉ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã kí các hiệp ước
Ác-măng (1883) và hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884), đầu hàng thực dân Pháp, song phong
trào chống thực dân Pháp vẫn diễn ra, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo
khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Những phong trào tiêu biểu thời
kỳ này là Phong trào Cần Vương, Cuộc khởi nghĩa Yên Thế và các cuộc khởi nghĩa vũ
trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam.
a. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến:
Phong trào Cần Vương (1885 – 1896): Một phong trào đấu tranh do Hàm Nghi
và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở ra cuộc tấn cơng trại lính Pháp ở cạnh Kinh
thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy trốn ra Tân
Sở (Quảng Trị) ban chiếu Cần Vương (13/7/1885). Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt
nhưng phong trào vẫn phát triển mạnh mẽ, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ tiêu biểu


20

là các cuộc khởi nghĩa: Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1881-1887), Bãi
Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và Hương Khuê của Phan Đình Phùng
(1885-1895). Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng
phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra.
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884-1913) đã đánh

thắng Pháp nhiều trận và gây cho chúng bao khó khăn, thiệt hại. Cuộc chiến đấu của
nghĩ quân Yên Thế kéo dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), các cuộc khởi nghĩa vũ
trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam vẫn tiếp diễn, nhưng đều không thành cơng.
Thất bại của các phong trào nói trên đã chứng tỏ giải cấp phong kiến và hệ tư tưởng
phong kiến không đủ điều kiện lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công
nhiệm vụ dân tộc.
b. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản:
Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nêu trên, đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước
dưới sự lãnh đạo nước của các tần lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân
chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào
giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có sự phân hóa 2 xu hướng, khôi phục chủ quyền
quốc gia bằng biện pháp bạo động; một số bộ phận khác coi cải cách là giải pháp để
tiến đến khôi phục độc lập.
Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, với chủ trương dùng biện
pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Đầu
thế kỷ XX, Phân Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật
Bản để đánh Pháp giành độc lập dân tộc thiết lập một nhà nước theo mơ hình đân chủ
lập hiến của Nhật. Ông lập ra hội Duy Tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906
– 1908). Chủ trương dựa vào đế quốc Nhật để chống đế quốc Pháp không thành, ông
về Xiêm nằm chờ thời. Giữa lúc cách mạng Tân Hợi bùng nổ vào thắng lợi (1911), ông
về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang Phục hội (1912) với ý định tập hợp lực lượng


21

rồi kéo quân về nước vũ trang bạo động đánh Pháp, giải phóng dân tộc nhưng cũng
khơng thành.
Đại diện xu hướng cải cách là Phan Chu Trinh, với chủ trương vận động cải
cách văn hóa, xã hội; động viên lịng yêu nước trong nhân dân; đả kích bọn vua quan

phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn
hưng khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang và cầu ngoại
viện. Ở Bắc Kì, có việc mở trường học, giảng dạy và học tập theo nội dung và phương
pháp mới, tiêu biểu là trường Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội. Ở Trung Kì, có cuộc vận
động Duy Tân, hô hào thay đổi phong tục, nếp sống, kết hợp với phong trào đấu tranh
chống thuế (1908).
Do những hạn chế về lịch sử và về giai cấp nên Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh cũng như các sĩ phu khác cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX
khơng thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, nên chỉ sau một thời kì phát triển đã bị kẻ thù vùi dập.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế
lực kinh tế và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam
đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ
thể với những hình thức khác nhau:
Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư
sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam Nghĩa
đồn, Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng (1926); thành lập nhiều nhà
xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng
thư (Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như Chng rạn (La Cloche fêlée), Người nhà quê
(Le Nhaque), An Nam trẻ (La jeune Annam)… Có nhiều phong trào đấu tranh chính trị
gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để
tang Phan Châu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Cùng
với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận
động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy nhiên,


22

càng về sau, cùng sự thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào trên đây ngày càng bị
phân hoá mạnh. Có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản (như

Nam Đồng thư xã), có bộ phận chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu biểu
là Phục Việt, Hưng Nam).
Ngày 9-2-1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, trung tâm là thị xã n Bái
với cuộc tiến cơng trại lính Pháp của qn khởi nghĩa. Ở một số địa phương như Thái
Bình, Hải Dương… cũng có những hoạt động phối hợp. Khởi nghĩa n Bái nổ ra khi
chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh chóng bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh
tụ của Việt Nam quốc dân Đảng cùng hàng ngàn chiến sĩ yêu nước bị bắt và bị kết án
tử hình. Trước khi bước lên đoạn đầu đài họ hơ vang khẩu hiệu “Việt Nam vạn tuế”.
Vai trị của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt
cùng với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt
Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những
hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của
giai cấp tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất
nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự
nghiệp giải phóng dân tộc.
Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư
sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là
lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con đường mới,
một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu mới
của nhân dân Việt Nam.
1.1.3. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vơ sản
Vai trị của Nguyễn Ái Quốc đối với sự phát triển của phong trào yêu nước theo
khuynh hướng vô sản:


23

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam đứng trước những thách

thức hết sức nặng nề khi rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp. Dưới ách thống trị của
thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta đã liên tiếp diễn ra theo
khuynh hướng tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản nhưng đều lần lượt bị thất bại.
Nguyên nhân chính của sự thất bại đó là do thiếu đường lối và một tổ chức lãnh đạo
đúng đắn. Trong khi đó, giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX
do chưa được trang bị lý luận tiên phong là chủ nghĩa Mác – Lênin nên các cuộc đấu
tranh vẫn còn tự phát, chưa trở thành phong trào độc lập. Vì vậy, đầu thế kỷ XX, đất
nước ta bị lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước đúng đắn.  
Trước tình hình đó, ngày 5 tháng 6 năm 1911, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm
đường cứu nước. Trải qua q trình bơn ba đến hàng loạt các nước, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng, nghiên cứu nhiều lý thuyết cách mạng ở
trên thế giới như Cách mạng Mỹ (1776), Cách mạng Pháp (1789),… nhưng cũng nhận
thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Từ đó, Người khẳng định: con
đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân
các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu cuộc cách mạng tháng Mười Nga
năm 1917. Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã
thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự
do, bình đẳng thật”1.
Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin trên báo Nhân đạo. Luận cương
đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết của Người là độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng
bào. Từ đó Người hồn tồn tin theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tin theo Quốc tế thứ III.
Tháng 12 năm 1920 tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp ở Tua đã diễn
ra cuộc tranh luận gay gắt giữa việc ra quyết định gia nhập Quốc tế III hay ở lại Quốc
tế II. Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, t.1, tr.39



24

sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc
đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ chiến
sĩ yêu nước sang chiến sĩ cộng sản và và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”1. Sau đó, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác –
Lênin để nâng cao, hoàn thiện tư tưởng cách mạng của mình, vừa tích cực truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị những điều kiện cho việc thành lập Đảng cộng sản ở
nước ta.
Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam qua
những bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và xuất
bản các tác phẩm, đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (năm 1925). Tác
phẩm này đã vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, khơi dậy mạnh mẽ tinh
thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.
Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6
năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Từ năm 1925 đến
năm 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở các lớp huấn luyện chính trị cho
cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng được nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh
tế, chính trị trong nước. Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “vơ sản hóa”, đưa hội
viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công
nhân; để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và lý luận giải phóng dân tộc vào phong trào
cách mạng Việt Nam.
Ngoài việc trực tiếp huấn luyện cán bộ của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên Việt Nam ưu tú gửi đi học tại trường
Đại học Phương Đơng (Liên Xơ) và trường Lục qn Hồng Phố (Trung Quốc) nhằm
đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Cùng với việc đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra các tờ báo Thanh
niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền Phong nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin

1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.12, tr.30


×