Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Chính sách phát triển thị trường trái phiếu xanh ở Việt Nam hướng tới tăng trưởng xanh và bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.06 KB, 14 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

40.

1Đỗ

Thị Thu Thủy *

Trịnh Mai Vân *
Tóm tắt
Tăng trưởng xanh được xác định là vấn đề trọng tâm trong chính sách phát triển của
nhiều quốc gia trên thế giới, nhằm hướng tới sự phát triển bền vững. Tăng trưởng xanh
là xu hướng phát triển tất yếu, đòi hỏi phải huy động được ng̀n vốn đa dạng, phong
phú. Trong đó thị trường trái phiếu xanh là kênh huy động vốn quan trọng cho tăng
trưởng xanh ở các nền kinh tế. Tại Việt Nam, dù cơ chế chính sách phát triển thị trường
này đã bắt đầu được hình thành. Song đây vẫn là công cụ huy động vốn khá mới mẻ trên
thị trường, chưa được nhiều nhà đầu tư quan tâm. Bài viết tập trung phân tích cơ sở pháp
lý và hiện trạng phát triển trái phiếu xanh ở Việt Nam thời gian qua. Từ đó, đề xuất kiến
nghị nhằm phát triển thị trường trái phiếu xanh ở Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khoá: Trái phiếu, trái phiếu xanh, tăng trưởng xanh.
1. Khái quát về trái phiếu xanh
Trái phiếu xanh được ra đời vào năm 2008, do Ngân hàng Thế giới (World Bank) phát
hành với mục đích tài trợ vốn cho các dự án xanh về môi trường. Mặc dù thời gian đầu
chưa được các nhà đầu tư quan tâm, nhưng khi các vấn đề về môi trường ngày càng trở
nên trầm trọng, trái phiếu xanh trở thành một trong những công cụ huy động vốn phổ biến
ở các quốc gia trên thế giới.
Theo Tổ chức Sáng kiến Trái phiếu khí hậu (Climate Bonds Initiative - CBI): “Trái
phiếu xanh là trái phiếu được phát hành nhằm huy động vốn cho những giải pháp biến
đổi khí hậu do chính phủ, ngân hàng, địa phương hoặc doanh nghiệp phát hành, dán nhãn


trái phiếu xanh dưới dạng chứng khốn nợ bao gồm chứng khốn hóa, phát hành riêng lẻ,
trái phiếu có đảm bảo”.

* Trường Đại học Kinh tế Quốc dân | Email liên hệ:

564


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Theo Bộ nguyên tắc phát hành và sử dụng nguồn thu từ trái phiếu xanh (Green Bond
Principles - GBP) (2015): “Trái phiếu xanh là bất kỳ một loại trái phiếu nào mà số tiền
thu được từ việc phát hành trái phiếu được sử dụng cho việc tài trợ hoặc tái tài trợ một
phần hoặc toàn bộ dự án liên quan đến mơi trường hay cịn gọi là dự án xanh như dự án
năng lượng sạch, nước sạch... Mỗi quốc gia, tổ chức, khu vực khác nhau sẽ có những
cách thức, quy định riêng về việc phát hành loại trái phiếu này nhưng tất cả đều dựa trên
một tiêu chuẩn quốc tế GBP. Trong đó, trái phiếu xanh cần tuân thủ 4 nguyên tắc được
quy định trong GBP là: sử dụng tiền thu được, đánh giá và chọn lựa dự án, quản lý tiền
thu được và báo cáo về việc sử dụng vốn”.
Theo G20 Green Finance (2016): “Trái phiếu xanh được phân biệt với trái phiếu thông
thường bởi cam kết sử dụng nguồn vốn huy động để tài trợ hoặc tái cấp vốn cho các dự
án hoặc doanh nghiệp xanh. Trái phiếu xanh có thể được phát hành bởi các chủ thể cơng
như chính phủ, chính quyền địa phương hoặc khu vực tư nhân như ngân hàng, doanh
nghiệp để tăng vốn cho các dự án gắn liền với môi trường”.
Như vậy, trái phiếu xanh được định nghĩa như một loại chứng khoán có thu nhập cố
định nhằm thu hút vốn cho các dự án có lợi ích về mơi trường. Theo đó, các khoản tiền
thu được từ việc phát hành trái phiếu này sẽ được cam kết đầu tư cho các chương trình
tăng cường sự thích nghi và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm các dự án

năng lượng sạch, sử dụng năng lượng hiệu quả, giao thông cơng cộng và nước sạch…
Trái phiếu xanh có thể được phát hành bởi chính phủ, các ngân hàng thương mại, ngân
hàng phát triển, các tổ chức tài chính quốc tế, các cơng ty…
Theo ước tính của Tổ chức năng lượng quốc tế IEA, để giảm một nửa lượng khí thải
tồn cầu vào năm 2050, thế giới sẽ cần khoản đầu tư lên đến 46.000 tỷ USD. Trong bối
cảnh đó đó, trái phiếu xanh được xem như giải pháp hiệu quả, có thể giúp huy động hàng
trăm tỷ USD/năm cho việc phát triển nền kinh tế “sạch” và bền vững.
2. Cơ sở pháp lý cho thị trường trái phiếu xanh ở Việt Nam
Trái phiếu xanh là lĩnh vực đầu tư có tiềm năng phát triển rất lớn, thu hút nguồn vốn từ
xã hội để thực hiện những dự án xanh. Nhu cầu về nguồn lực tài chính cho tăng trưởng
xanh hiện khơng nhỏ, ước tính Việt Nam cần tới 30 tỷ USD và cam kết của Chính phủ
thơng qua hỗ trợ ngân sách quốc gia là cần thiết.
Tại Việt Nam, cơ chế chính sách phát triển thị trường trái phiếu xanh đã cơ bản
được hình thành. Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế chính sách pháp
lý về tăng trưởng xanh và phát triển thị trường trái phiếu xanh:
Ngày 12/4/2012, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 432/QĐ-TTg về “phê duyệt
565


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020”, trong đó đã đề đến cơ
chế, chính sách, huy động nguồn lực tài chính để thực hiện phát triển bền vững.
Ngày 25/09/2012, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 1393/QĐTTg phê duyệt về “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm
nhìn đến năm 2050”, trong đó xác định tăng trưởng xanh là cách thức phát triển phù hợp
với yêu cầu đổi mới mơ hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế trong giai đoạn sắp
tới của Việt Nam.
Ngày 03/6/2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ban hành Nghị quyết

số 24-NQ/TW về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên
và bảo vệ mơi trường”, trong đó khẳng định “Thúc đẩy chuyển đổi mơ hình tăng trưởng
gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững”.
Ngày 20/03/2014, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 403/QĐTTg phê duyệt “Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn đoạn 20142020”, trong đó quy định về các nguồn vốn thực hiện các hoạt động gồm: vốn từ NSNN
trong Chương trình hỗ trợ ứng phó biến đổi khí hậu; từ nguồn lực của các doanh nghiệp;
từ cộng đồng và từ nguồn viện trợ của quốc tế. Đồng thời, Nhà nước sẽ ưu tiên và dành
kinh phí thỏa đáng từ ngân sách trung ương và ngân sách địa phương để thực hiện Kế
hoạch hành động tăng trưởng xanh, đặc biệt cho nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng
và phát triển năng lượng tái tạo. Nhà nước cũng sẽ tạo cơ sở pháp lý khuyến khích các tổ
chức tài chính, các DN đầu tư nguồn lực để thực hiện các hoạt động của Kế hoạch hành
động tăng trưởng xanh...
Cuối năm 2015, trên khn khổ chương trình hợp tác giữa Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước với Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ), Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
(HNX) đã xây dựng Đề án Phát triển thị trường trái phiếu xanh.
Năm 2017, Chính phủ ban hành lộ trình phát triển thị trường trái phiếu năm 20172020, tầm nhìn năm 2030 (Quyết định số 1191/QĐ-TTg ngày 14/8/2017), quy định cơ
chế và chính sách phân phối thị trường trái phiếu xanh nhằm mục đích cho phép tổ chức
phát hành huy động vốn thơng qua việc phát hành trái phiếu để thực hiện các dự án xanh.
Theo đó, các cơ chế, chính sách về phát triển thị trường trái phiếu xanh được xây dựng
theo hướng tạo thuận lợi cho các chủ thể huy động vốn trái phiếu xanh để thực hiện các
dự án xanh. Trong đó bao gồm việc xây dựng, hồn thiện khung tài chính xanh cho các
hoạt động trên thị trường vốn như ban hành các quy định, điều kiện khi niêm yết cổ phiếu
xanh, báo cáo và giám sát theo các tiêu chí tài chính xanh; huy động vốn đầu tư cho tăng
trưởng xanh thông qua thị trường vốn cho các doanh nghiệp, dự án và sản phẩm xanh,
niêm yết, phát hành trái phiếu xanh cho các dự án, chương trình và lĩnh vực xanh…
566


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM


Để phát triển trái phiếu xanh, việc thiết lập một khung trái phiếu xanh là rất cần thiết.
Nhằm tiến tới một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này, tại Nghị định 95/2018/NĐCP ngày 30/06/2018 (quy định về phát hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao dịch công
cụ nợ của Chính phủ trên thị trường chứng khốn), Chính phủ đã giao Bộ Tài chính phối
hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng Đề án phát hành
trái phiếu chính phủ xanh báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trước khi triển khai
thực hiện. Nội dung của đề án bao gồm: mục đích và khối lượng phát hành; điều kiện,
điều khoản của trái phiếu; việc đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao dịch… Bên cạnh đó,
Nghị định 95/2018/NĐ-CP cũng quy định về điều kiện điều khoản, việc tổ chức phát
hành, đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao dịch trái phiếu chính phủ xanh. Những quy định
về trái phiếu xanh tại Nghị định 95/2018/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 1/7/2018, được kỳ
vọng sẽ thúc đẩy các hoạt động phát hành, niêm yết, giao dịch loại hình trái phiếu này.
Ngồi thị trường trái phiếu chính phủ xanh, thị trường trái phiếu doanh nghiệp xanh
cũng là một kênh tiềm năng cho các dự án xanh của các doanh nghiệp. Để tạo điều kiện
phát triển thị trường trái phiếu xanh, Chính phủ đã nỗ lực trong việc xem xét, cải thiện
và ban hành các chính sách và pháp luật liên quan với mục đích thúc đẩy trái phiếu doanh
nghiệp xanh. Ngày 04/12/2018, Chính phủ ban hành Nghị định 163/2018/NĐ-CP về phát
hành trái phiếu doanh nghiệp. Tuy chưa quy định nhiều tiêu chuẩn riêng đối với trái phiếu
xanh, tuy nhiên Nghị định này đã bổ sung khái niệm, định nghĩa và một số quy định về
trái phiếu doanh nghiệp xanh. Các quy định về trái phiếu doanh nghiệp xanh theo Nghị
định 163 dự kiến sẽ tạo ra kênh tiềm năng để huy động vốn cho các dự án xanh trong khu
vực tư nhân, tạo nền tảng cho giao dịch sản phẩm phái sinh xanh tại Việt Nam; tạo khung
pháp lý để thu hút thêm đầu tư từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước quan tâm đến các
dự án liên quan đến môi trường tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, các bộ, ngành đã thực hiện nhiều biện pháp
hỗ trợ thị trường trái phiếu xanh như hướng dẫn các doanh nghiệp cơng bố thơng tin,
cung cấp tính minh bạch về các hoạt động tài chính xanh và khuyến khích doanh nghiệp
niêm yết trên thị trường chứng khoán để thực hiện các báo cáo tài chính, báo cáo thường
niên với các nội dung về phát triển bền vững và tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, đến nay,
Việt Nam mới thực hiện một số chương trình phát hành trái phiếu xanh mang tính thí

điểm, chưa thực hiện phát hành trái phiếu xanh chính thức.
Những chính sách cho tăng trưởng xanh nói chung và trái phiếu xanh nói riêng chính là
cơ sở pháp lý quan trọng để các tổ chức, cá nhân ở Việt Nam có thể tham gia đầu tư thu hút
vốn từ trái phiếu xanh, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án xanh ở Việt Nam có
điều kiện tiếp cận nguồn vốn.

567


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

3. Thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam thời gian qua
3.1. Về nhu cầu vốn cho tăng trưởng xanh giai đoạn 2016 - 2020
Tại Việt Nam, hậu quả do biến đổi khí hậu đã làm gia tăng mức độ cũng như chu kỳ xảy
ra thiên tai như hạn hán, lũ lụt, nước biển dâng… đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát
triển kinh tế, xã hội và đời sống người dân. Nghiên cứu của các tổ chức quốc tế cho rằng,
biến đổi khí hậu có thể làm Việt Nam tổn thất 15 tỷ USD/năm, tương đương 5% GDP.
Các cơ quan chức năng Việt Nam cũng ước tính, sự gia tăng 1m của mực nước biển
sẽ tác động đến đời sống của khoảng 20% dân số. Ngập lụt và xâm mặn do nước biển
dâng sẽ làm thu hẹp diện tích đất canh tác trong nông nghiệp ở cả đồng bằng sông Hồng
và đồng bằng sông Cửu Long. Các ngành công nghiệp cũng sẽ bị ảnh hưởng do thiếu hụt
nguồn nguyên liệu và năng lượng làm cho chi phí sản xuất tăng cao. Trong bối cảnh đó,
Việt Nam xác định, tăng trưởng xanh là một chiến lược quan trọng nhằm hướng đến phát
triển bền vững.
Theo quyết định 1670/QĐ-TTg ngày 31/10/2017 của Thủ tướng Chính phủ về “ Phê
duyệt chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn
2016 – 2020” nhu cầu vốn cho ứng phó biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn
2016 – 2020 như sau:


568


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM
Nhu cầu vốn chung

Nhu cầu vốn chống biến đổi khí
hậu

Nhu cầu vốn cho tăng trưởng
xanh

- 30 dự án chuyển tiếp tại văn bản
số 1443/TTg-QHQT ngày 19
tháng 9 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ

+ Xây dựng 1 hệ thống giám sát
biến đổi khí hậu, 1 hệ thống giám
sát, dự báo xâm nhập mặn thuộc
Quy hoạch mạng lưới quan trắc
tài nguyên và môi trường quốc
gia giai đoạn 2016 - 2025, tầm
nhìn đến năm 2030 theo Quyết
định số 90/QĐ-TTg ngày 12
tháng 01 năm 2016 của Thủ
tướng Chính phủ.


+ Đến năm 2020, giảm cường độ
phát thải khí nhà kính từ 8% đến
10% so với mức 2010; giảm tiêu
hao năng lượng tính trên GDP từ
1% đến 1,5% mỗi năm.

- 42 dự án trồng rừng ngập mặn
ven biển, phòng hộ đầu nguồn và
một số dự án ưu tiên cấp bách tại
văn bản số 78/TTg-QHQT ngày
16 tháng 01 năm 2015 của Thủ
tướng Chính phủ
- Trồng, phục hồi 10.000 ha rừng
ngập mặn ven biển, rừng phòng
hộ đầu nguồn nhằm thích ứng với
biến đổi khí hậu, hấp thụ 02 triệu
tấn khí CO2 mỗi năm và tạo sinh
kế ổn định cho người dân.

+ Xây dựng, nâng cấp từ 6 đến
10 công trình hồ, đập với dung
tích 100 triệu m3 nhằm điều tiết
lũ trong mùa mưa, chống hạn
trong mùa khô ở các khu vực có
mức độ hạn hán gia tăng.
+ Xây dựng, nâng cấp từ 6 đến 8
hệ thống kiểm soát mặn, giữ ngọt
phù hợp với Kế hoạch Đồng
bằng sông Cửu Long; từ 2 đến 3

hệ thống kiểm soát mặn, giữ ngọt
tại các khu vực ven biển.
+ Xây dựng, nâng cấp 200km đê,
kè sơng, biển xung yếu ở những
khu vực có ảnh hưởng lớn và
trực tiếp đến sản xuất, tính mạng
và đời sống của trên 3 triệu
người dân ở những khu vực ven
sông, ven biển.

+ Thay thế 1.000 phao báo hiệu
đường thủy nội địa sử dụng đèn
ắc quy thành phao báo hiệu sử
dụng đèn năng lượng mặt trời.
+ Hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật
nội đồng khu tưới mẫu 100ha;
xây dựng mơ hình tổ chức quản
lý và vận hành hệ thống thủy lợi
trong sản xuất lúa theo hướng
tăng trưởng xanh; xây dựng khu
nghiên cứu, khảo nghiệm cây
trồng cạn, khảo nghiệm lúa,
nhân giống quy mô 25ha.
+ Đầu tư 25 trang thiết bị kiểm
định và kiểm tốn năng lượng
cho ngành cơng nghiệp khai thác
khống sản; 29 trang thiết bị
kiểm định và kiểm toán năng
lượng cho các ngành công
nghiệp sản xuất và chế biến

khác.

Nguồn: Quyết định 1670/QĐ-TTg

Như vậy, có thể khẳng định nhu cầu vốn thực hiện các dự án đầu tư sạch, tăng
trưởng xanh, bền vững cũng như tiềm năng phát triển thị trường trái phiếu xanh hiện nay
là rất lớn. Tuy nhiên, việc huy động nguồn vốn từ trái phiếu xanh còn rất hạn chế.

569


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

3.2. Về thực trạng phát hành trái phiếu xanh
Từ cuối năm 2015, Sở GDCK Hà Nội (HNX) đã xây dựng Đề án phát triển thị trường trái
phiếu xanh trong chương trình hợp tác giữa Ủy ban Chứng khoán Nhà nước với Tổ chức
Hợp tác Phát triển Đức (GIZ). Ngày 20/10/2016, Bộ Tài chính đã phê duyệt Đề án phát
hành thí điểm trái phiếu xanh của chính quyền địa phương và chỉ đạo các đơn vị liên quan
triển khai thí điểm. Theo đó, trái phiếu xanh được xây dựng nhằm huy động vốn phục vụ
cho các cơng trình xanh như các dự án về thủy lợi, bảo vệ mơi trường, điện gió… Sở Giao
dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) hỗ trợ các chủ thể phát hành sản phẩm trái phiếu xanh
và thí điểm triển khai tại một số địa phương có nhu cầu huy động vốn.
Đến nay, có hai địa phương đầu tiên là TP. Hồ Chí Minh và Bà Rịa - Vũng Tàu đã
triển khai đề án này. Trái phiếu được phát hành dưới dạng trái phiếu chính quyền địa
phương, kỳ hạn từ 3 - 5 năm.


Thí điểm phát hành tại TP. Hồ Chí Minh:


Năm 2016, TP. Hồ Chí Minh phát hành trái phiếu qua bảo lãnh của Công ty Cổ phần
Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BSC), kỳ hạn 15 năm, khối
lượng 3.000 tỷ đồng. Cơng ty Đầu tư Tài chính Nhà nước TP. Hồ Chí Minh (HFIC) được
UBND TP. Hồ Chí Minh ủy quyền thực hiện toàn bộ nghiệp vụ tổ chức phát hành. Trong
đó, có 11 dự án thuộc danh mục dự án xanh, với tổng mức đầu tư 2.619,8 tỷ, dự kiến bố
trí từ nguồn vốn trái phiếu phát hành trong năm 2016 là 523,5 tỷ đồng.
Năm 2017, TP. Hồ Chí Minh phát hành trái phiếu có khối lượng 2.000 tỷ đồng, kỳ
hạn 10, 15, 20 và 30 năm. Trong đó, có 8 dự án xanh với tổng mức đầu tư 2.989 tỷ, bố trí
từ nguồn vốn trái phiếu phát hành của năm 2017 là 364 tỷ đồng. Các danh mục được lập
dựa trên danh mục dự án xanh của NHNN;
Đến năm 2018, theo thống kê sơ bộ, TP. Hồ Chí Minh đã phát hành 3.000 tỷ đồng
trái phiếu xanh cho 34 dự án.
Vốn phát hành trái phiếu chính quyền địa phương xanh được sử dụng cho các dự án
xanh thuộc các lĩnh vực quản lý nguồn nước bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và
các cơng trình cơ sở hạ tầng bền vững. Nguồn vốn thu được từ phát hành trái phiếu đã
được TP. Hồ Chí Minh giải ngân cho các dự án xanh. Trái phiếu nói chung, và trái phiếu
xanh của TP. Hồ Chí Minh đã nằm trong danh mục tái cấp vốn, tham gia thị trường mở
của Ngân hàng Nhà nước, nhưng chưa được Ngân hàng Nhà nước cho phép dùng để tính
dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên, chưa có ưu đãi thuế, phí đối với trái phiếu xanh và chưa có
danh mục dự án xanh, mơi trường ưu tiên.

570


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM




Thí điểm phát hành trái phiếu xanh tại Bà Rịa - Vũng Tàu:

Tính đến năm 2018, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát hành trái phiếu xanh với khối lượng
phát hành phát hành 500 tỷ đồng trái phiếu xanh với kỳ hạn 5 năm cho 8 dự án. Nguồn
vốn trái phiếu chính quyền địa phương xanh dự kiến được sử dụng cho 1 dự án về quản
lý nguồn nước. Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã giải ngân cho các cho dự án sử dụng vốn trái
phiếu chính quyền địa phương xanh đã phát hành.


Trái phiếu doanh nghiệp xanh:

Trong chương trình hợp tác từ năm 2018, GIZ dự kiến sẽ phối hợp với Bộ Tài chính,
Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Quốc gia, 2 Sở Giao dịch chứng khoán Hà
Nội và TP. Hồ Chí Minh cùng với IFC xây dựng đề án phát triển TPX doanh nghiệp và
TPX định chế tài chính và thí điểm phát hành trái phiếu doanh nghiệp xanh, trước mắt có
thể là các cơng ty thuộc VNSI (Top 20 doanh nghiệp về phát triển bền vững) và các ngân
hàng thương mại lớn của Việt Nam.
Cuối tháng 8/2019, Công ty cổ phần (CTCP) Điện mặt trời Trung Nam đã phát hành
thành công 2.100 tỷ đồng trái phiếu riêng lẻ có kỳ hạn 9 năm và CTCP Trung Nam (sở
hữu 70% vốn của CTCP Điện mặt trời Trung Nam) cũng phát hành thành công 945 tỷ
đồng với kỳ hạn 5 năm, lãi suất thả nổi bằng lãi suất tiền gửi kỳ hạn 2 năm cộng biên độ
3,5%/năm, riêng năm đầu tiên là 10,5%/năm. Tổng số tiền hai công ty này huy động được
là 3.045 tỷ đồng và được sử dụng cho dự án điện mặt trời tại Ninh Thuận.
Đầu tháng 10/2019, CTCP Bamboo Capital (BCG) công bố kế hoạch dự kiến phát
hành 900.000 trái phiếu chuyển đổi trong quý IV/2019, lãi suất 5%/năm, kỳ hạn 3 năm,
trong đó dự kiến 350 tỷ đồng đầu tư các dự án năng lượng mặt trời, 500 tỷ đồng đầu tư
vào các dự án bất động sản, 50 tỷ bổ sung vốn lưu động.
3.3. Một số nhận xét
Việc công cụ trái phiếu xanh đã bắt đầu được sử dụng, đem lại một kênh huy động vốn

hiệu quả cho các chính quyền địa phương trong việc tài trợ cho các dự án xanh. Tuy
nhiên, giá trị phát hành của trái phiếu xanh so với quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam
(104,6 tỷ USD vào năm 2019 và 324,1 tỷ USD vào 9 tháng đầu năm 2020) là quá nhỏ bé
và không đáng kể.

571


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Hình 1: Quy mô trái phiếu Việt Nam phát hành giai đoạn 2015 - 2020
Quy mô trái phiếu Việt Nam phát hành giai đoạn 2015-2020
350
300

Tỷ USD

250

200
150
100
50
0
Năm 2015

Năm 2016


Năm 2017

Corporate(USD billions)

6.34

10.43

Government(USD billions)

38.66

62.59

2020 (9
tháng)

Năm 2018

Năm 2019

13.66

20.5

28.27

87.15

69.25


73.04

76.33

236.95

Nguồn: AsianBondsOnline and Vietnam Ministry of Finance

Xét về mặt cơ cấu, trái phiếu xanh ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là trái phiếu chính
quyền địa phương tài trợ cho các dự án xanh, gần như hệ thống các doanh nghiệp chưa
tham gia phát hành trái phiếu xanh để huy động vốn. Đây cũng là đặc thù riêng trên thị
trường trái phiếu Việt Nam với tỷ trọng trái phiếu chính phủ chiếm đa số, duy trì tại mức
trên 90% trong giai đoạn từ 2010- 2018 (ADB, 2019)…
Với cơ cấu và quy mô trái phiếu xanh nêu trên, giá trị huy động vốn từ trái phiếu xanh
tại Việt Nam không những thấp so với khu vực mà cũng vô cùng khiêm tốn so với nhu
cầu tài trợ cho các dự án tăng trưởng xanh hàng năm của quốc gia. (Tính đến hết tháng
11/2018, quy mơ thị trường trái phiếu xanh Đông Nam Á khoảng 5 tỷ USD bao gồm 6
quốc gia trong khu vực với 19 nhà phát hành). Dự kiến để thúc đẩy kinh tế phát triển bền
vững, Việt Nam sẽ cần khoảng 30,7 tỷ USD tới năm 2020 và 21,2 tỷ USD cho 10 năm
tiếp theo (GIZ, 2018), đây là một nhu cầu vốn rất lớn so với khả năng hiện có từ việc thu
hút qua kênh trái phiếu xanh.
Mặt khác, việc phát hành trái phiếu xanh của các chính quyền địa phương nhằm tài
trợ các dự án xanh đang thiếu những tổ chức kiểm định để xác định dự án có thực sự
“xanh”, chẳng hạn dự án có thực sự hiệu quả trong việc làm giảm khí thải độc hại ra mơi
trường, vốn vay của dự án có thực sự được dùng cho mục đích mơi trường... Chính vì
vậy, các cơ quan quản lý cần tạo ra bộ tiêu chuẩn mơi trường rõ ràng và có cơ chế giám
sát cụ thể để xác định dự án “xanh” theo các chuẩn mực tiên tiến trên thế giới hiện nay,
chỉ có như thế, các dự án tại Việt Nam mới có khả năng thu hút thêm dịng vốn ngoại.
Thị trường trái phiếu vẫn còn thiếu vắng sự hoạt động của các tổ chức trung gian như

tổ chức định mức tín nhiệm, tổ chức đánh giá độc lập (để thị trường trái phiếu xanh trở
572


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

thành kênh huy động vốn quan trọng cho các dự án, chương trình xanh, thị trường cần có
sự đa dạng của các tổ chức phát hành và các tổ chức cung cấp dịch vụ trung gian).
Nhận thức của các nhà đầu tư cũng như của tổ chức phát hành đối với lợi ích của đầu
tư, phát hành trái phiếu xanh cịn hạn chế. Các nhà đầu tư trong nước còn chưa nhận thức
đầy đủ về đầu tư có trách nhiệm dẫn đến nhu cầu đầu tư trái phiếu xanh của các nhà đầu
tư trong nước còn rất thấp mà phần lớn là nhu cầu của các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài.
Đối với các nguyên tắc trái phiếu xanh của ICMA như giám sát mục đích sử dụng
tiền thu được từ phát hành, hạch toán tài khoản riêng, báo cáo sau phát hành cũng chưa
có những quy định pháp luật rõ ràng và sẽ mất thêm thời gian để cơ quan quản lý ban
hành những văn bản hướng dẫn.
Hiện nay, chưa có hướng dẫn cụ thể 4 chuẩn mực quốc tế về trái phiếu xanh (GBPs)
ở Việt Nam và cũng chưa có địa phương nào đưa ra báo cáo đánh giá hiệu quả của các
dự án sử dụng nguồn vốn từ trái phiếu xanh. Cụ thể: Bộ Tài chính hướng dẫn vẫn quản
lý chung tiền thu được từ trái phiếu xanh, chưa hạch toán, quản lý bằng tài khoản riêng;
Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khốn Nhà nước chưa có quy định về "danh mục dự án
xanh", chưa có quy định về đánh giá, báo cáo cho trái phiếu xanh.
Các quy định về trình tự thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt triển khai dự án còn phức
tạp, kéo dài (Luật Đầu tư công, các nghị định và thông tư hướng dẫn…) ảnh hưởng đến
tiến độ giải ngân và tiến độ thực hiện dự án xanh.
Chưa có quy định về việc kiểm sốt cơng bố thơng tin, sử dụng vốn, giám sát dự án.
4. Một số khuyến nghị nhằm phát triển thị trường trái phiếu xanh hướng tới phát
triển xanh và bền vững ở Việt Nam

Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức của người dân, tạo ra những cải cách trong nền kinh tế
và hệ thống tài chính nhằm tạo tiền đề cho việc hình thành và phát triển trái phiếu xanh.
Đây cũng chính là yếu tố tiền đề quan trọng giúp Trung Quốc thực hiện thành công việc
phát triển trái phiếu xanh. Những chính sách liên quan đến tăng trưởng xanh nói chung,
hệ thống tài chính xanh tại Việt Nam nói riêng đã và đang là những định hướng tốt cho
các chủ thể trong nền kinh tế chú trọng hơn đến yếu tố môi trường trong các hoạt động
của mình tạo ra các chủ thể cung – cầu trái phiếu xanh trên thị trường, cụ thể là nhà đầu
tư và các đơn vị phát hành. Trong đó, nhà đầu tư sẽ đưa yếu tố môi trường trở thành nội
dung phân tích khi đưa ra quyết định đầu tư, đồng thời, các định chế tài chính, các doanh
nghiệp, hiện vẫn chưa chú trọng đến tăng trưởng bền vững, sẽ quan tâm hơn đến yếu tố
môi trường và xem xét trái phiếu xanh như là công cụ để thu hút các nguồn vốn tài trợ

573


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

cho các dự án xanh. Những yếu tố cấu thành cung cầu trên thị trường được hình thành sẽ
góp phần cho trái phiếu xanh ra đời và phát triển tại Việt Nam.
Thứ hai, hoàn thiện cơ sở hành lang pháp lý phục vụ cho việc phát triển trái phiếu
xanh – ban hành các chỉ thị, văn bản hướng dẫn liên quan đến trái phiếu xanh. Đặc biệt,
cần quy định rõ các tiêu chuẩn trong việc xác định trái phiếu xanh, dự án xanh cũng như
các nguyên tắc trong việc phát hành và quản lý nguồn vốn hình thành từ trái phiếu xanh.
Những tiêu chuẩn này cần được xây dựng theo GBP 2015 nhưng cũng phải phù hợp với
đặc điểm riêng của Việt Nam trong q trình phát triển kinh tế, chính trị, môi trường và
xã hội. Điều này sẽ giúp trái phiếu xanh phù hợp với thị trường trong nước, sớm nhanh
chóng trở thành cơng cụ tài chính được quan tâm trên thị trường. Các nguyên tắc liên
quan đến trái phiếu xanh cũng cần được cụ thể hóa, chi tiết hóa để chủ thể phát hành trái

phiếu xanh tuân thủ. Bên cạnh đó, minh bạch thơng tin liên quan đến việc phát hành và
sử dụng nguồn quỹ từ trái phiếu xanh cần được quy định chặt chẽ làm cơ sở cho việc
kiểm tra, giám sát của các chủ thể quan tâm. Nghiên cứu và xây dựng bộ chỉ số nhằm
đánh giá các công ty phát triển bền vững cũng cần được các cơ quan có thẩm quyền thực
hiện nhằm thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư cho trái phiếu xanh.
Thứ ba, Chính phủ cần liên kết với các tổ chức nước ngoài như Ngân hàng Thế giới,
UNEP, GIZ… để được tư vấn, hướng dẫn và đánh giá trong việc thực hiện phát hành và
phát triển trái phiếu xanh trên thị trường. Kiến thức và kinh nghiệm của các tổ chức này
trong việc phát triển xanh những năm qua sẽ rất hữu ích cho Việt Nam trong tiến trình xây
dựng và phát triển loại tài sản tài chính này. Đội ngũ chuyên gia hàng đầu về phát triển kinh
tế và mơi trường đóng vai trị quan trọng trong việc nghiên cứu và tư vấn chính sách cho
Chính phủ trong việc phát triển hệ thống tài chính xanh cũng như trái phiếu xanh.
Thứ tư, Việt Nam cần có những chính sách ưu đãi để khuyến khích các chủ thể phát
hành trái phiếu xanh và thu hút các nhà đầu tư quan tâm đến loại tài sản này. Sau khi đưa
ra được các nguyên tắc liên quan đến trái phiếu xanh, Nhà nước cần đưa ra những ưu đãi
về thuế, phí hoặc những thuận lợi khác cho các đơn vị phát hành cũng như những nhà
đầu tư trong và ngoài nước. Trong đề án về trái phiếu xanh, Sở Giao dịch chứng khoán
Hà Nội đã đưa ra đề xuất đối với Ngân hàng Nhà nước chấp thuận sử dụng trái phiếu
xanh trong thị trường mở với ưu đãi là tỷ lệ chiết khấu ở mức cao hơn so với các loại trái
phiếu cùng loại. Ngồi ra, để tăng thêm tính thanh khoản cho trái phiếu xanh, Ngân hàng
Nhà nước có thể xây dựng cơ chế chấp nhận sử dụng một số loại trái phiếu xanh để làm
dự trữ bắt buộc… Điều này sẽ tạo ra tác động tốt đến việc khuyến khích các ngân hàng
sở hữu trái phiếu xanh trong danh mục tài sản của mình, góp phần thúc đẩy thị trường
phát triển. Tóm lại, muốn phát triển trái phiếu xanh, Chính phủ và các cơ quan có liên

574


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA


ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

quan cần ban hành nhiều chính sách ưu đãi cho các chủ thể tham gia thị trường vì đây là
loại tài sản tài chính cịn khá mới mẻ ở thị trường Việt Nam.
Thứ năm, hoàn thiện thị trường trái phiếu trong nước cũng như xem xét việc phát
hành trái phiếu ra quốc tế. Thị trường chứng khoán, đặc biệt là thị trường mua bán nợ ở
Việt Nam chưa thực sự phát triển mạnh. Do đó, muốn phát triển trái phiếu xanh trong
thời gian tới, Việt Nam cần phải có những biện pháp giúp phát triển thị trường mua bán
nợ trong thời gian tới, như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi để phát triển thị trường trái
phiếu xanh. Mặt khác, sau những đợt phát hành trái phiếu ở nước ngoài thành cơng, Chính
phủ cũng cần có định hướng cho việc phát hành trái phiếu xanh ra thị trường quốc tế
nhằm thu được nguồn ngoại tệ lớn phục vụ cho việc phát triển kinh tế xanh trong nước.
Thứ sáu, quy định về kiểm sốt cơng bố thơng tin, sử dụng vốn, giám sát dự án. Bất
kỳ dự án nào khi đi vào hoạt động cũng cần có sự kiểm sốt chặt chẽ về nhiều mặt. Các
dự án về trái phiếu xanh khá đặc biệt, ngoài những đặc điểm chung của trái phiếu, trái
phiếu xanh cịn mang đến lợi ích về mặt xã hội, các dự án trái phiếu xanh thường liên
quan đến vấn đề bảo vệ mơi trường, mơi trường xanh. Vì vậy việc kiểm sốt là đặc biệt
khó khăn.
Thứ bảy, xác định lĩnh vực ưu tiên, xây dựng tiêu chí lựa chọn dự án xanh. Trái phiếu
xanh hiện còn là loại chứng khoán khá mới mẻ ở thị trường Việt Nam. Việc mở rộng và phát
triển thị trường này hứa hẹn tạo bước tiến mạnh mẽ cho nền kinh tế Việt Nam, bên cạnh đó
cịn giải quyết được một phần về vấn đề ô nhiễm môi trường đang rất nhức nhối hiện nay.
Do còn khá mới như vậy nên cần lập ra từng bước chắc chắn, mở ra lối đi bền vững cho thị
trường trái phiếu xanh. Để làm được điều đó cần Bộ Tài chính xác định rõ lĩnh vực ưu tiên
là gì? Và các tiêu chí lựa chọn dự án xanh mà lợi suất trái phiếu tài trợ là gì?
Thứ tám, nghiên cứu quy trình đánh giá kỹ thuật các dự án, công nghệ xanh. Cùng
với sự phát triển nhanh chóng của khoa học cơng nghệ, các vấn đề môi trường đang ở
mức đáng báo động. Các dự án trong và ngoài nước đang dần chuyển sang hướng “xanh”
hơn. Các quy trình đánh giá kỹ thuật các dự án cũng trở nên nghiêm ngặt và chặt chẽ hơn.
Việt Nam là nước mới bước chân vào thị trường trái phiếu xanh do đó Bộ Tài ngun và

Mơi trường cần nghiên cứu một cách kỹ lưỡng về quy trình này, tránh xảy ra sai sót và
nhầm lẫn.
Nói tóm lại, trái phiếu xanh là một trong những tài sản tài chính xanh cịn khá mới
mẻ ở Việt Nam. Để có thể hình thành và phát triển trái phiếu xanh trong tương lai, chúng
ta cần phải thực hiện những cải cách về kinh tế, tài chính để nâng cao ý thức trách nhiệm
về mơi trường trong xã hội, đồng thời, hồn thiện hành lang pháp lý về trái phiếu xanh
làm cơ sở để loại tài sản này ra đời và phát triển trong tương lai. Bên cạnh đó, thiết lập
575


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

những đơn vị độc lập, ban hành những chính sách ưu đãi kết hợp với việc đa dạng hóa thị
trường phát hành sẽ là những điều kiện cần thiết để trái phiếu xanh thực sự trở thành công
cụ thu hút vốn hữu hiệu cho các dự án kinh tế xanh của Việt Nam trong tương lai.
Tài liệu tham khảo
Đình Chiến (2020), Khung khổ pháp lý đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu
xanh còn nhiều khoảng trống, tạp chí pháp lý Điện tử.
G20 Green Finance study group (2016), “Green Bonds: Country experiences, barriers and
options”.
Green Bond market Report (2017) - Climate Bond Innitiatives (CBI).
Hồ Hạnh Mỹ (2016), Tài chính xanh cho tăng trưởng và phát triển bền vững ở Việt Nam, Tạp chí
khoa học và đào tạo Ngân hàng.
Lại Thị Thanh Loan (2019), Thị trường tài chính xanh tại Việt Nam: Thực trạng, kinh nghiệm
quốc tế và giải pháp, Tạp chí tài chính tiền tệ.
Lê Thị Hằng (2016), Chính sách tài chính hướng đến tăng trưởng xanh – những vấn đề đặt ra,
Tạp chí Tài chính 4/2016
Lê Văn Bắc – Cơng ty Đầu tư Tài chính nhà nước TP.HCM (HFIC) - Phát hành thí điểm trái

phiếu xanh chính quyền địa phương tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Minh Châu – Đặng Đông – Ngọc Phát – Lê Nam (2020) Trái phiếu xanh: Thuận lợi và khó khăn
để phát triển ở thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nghị định số 163/2018/NĐ-CP quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Nghị định số 95/2018/NĐ-CP quy định về phát hành đăng ký, lưu ký, niêm yết và giao dịch cơng
cụ nợ của chính phủ trên thịt trường chứng khoán.
Nghị quyết số 24-NQ/TW (2013) về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản
lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030- Tạp
chí Tài Chính (2017).
Phát triển thị trường trái phiếu xanh ở Trung Quốc- Hà Nội, Việt Nam, 10/11/2017, Hội nghị về
Thị trường vốn xanh, Qi Lan, Quản lý Dự án Cao cấp, Đối thoại về tính Bền vững của các
Thị trường mới nổi – Tài chính.
Quản Thu Trang (2019, Trái phiếu xanh: Việt Nam trong nỗ lực bắt nhịp với kỷ nguyên tài chính
xanh tồn cầu, Tạp chí ngân hàng, số 17. 2019.
Quyết định số 1191/QĐ-TTg (2017) phê duyệt lộ trình phát triển trái phiếu giai đoạn 2017 -2020,
tầm nhìn đến năm 2030.
Quyết định số 1393/QĐ-TTg (2012) phê duyệt về “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời
kỳ 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050.

576


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

ĐỊNH HÌNH LẠI HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỒN CẦU VÀ CHIẾN LƯỢC CỦA VIỆT NAM

Quyết định số 403/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai
đoạn 2014-2020.
Quyết định số 432/QĐ-TTg (2012) về “phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai

đoạn 2011-2020.
Trần Thị Thanh Tú (2020), Phát triển hệ thống tài chính xanh nhằm thúc đẩy kinh tế xanh ở Việt
Nam, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Trần Thị Thanh Tú (2020), Hệ thống tài chính xanh: Yếu tố tiên quyết cho phát triển kinh tế
xanh, Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Việt Nam.
Trần Thị Xn Anh và cộng sự (2019), Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Namnhững vấn đề cần tháo gỡ, Tạp chi Khoa học và đào tạo Ngân hàng, số 209, tháng 10 năm
2019.
Trần Trọng Thiết (2020,), Phát triển thị trường trái phiếu xanh tại sao không?
Viên Thế Giang (2017)Tài chính cho phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam - Khn khổ chính sách,
pháp luật và thực tiễn thi hành, Tạp chí phát triển KH&CN, Tập 20, số Q2 - 2017.
Vụ Phát triển thị trường chứng khoán- UBCKNN (2017), Định hướng phát triển thị trường vốn
xanh và các sản phẩm tài chính xanh tại Việt Nam.

577



×