Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học PHẬT GIÁO SO SÁNH QUAN điểm TRIẾT học CHÍNH TRỊ xã hội PHẬT GIÁO với QUAN điểm TRIẾT học CHÍNH TRỊ xã hội của các TRIẾT GIA QUA các GIAI đoạn LỊCH sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.07 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Triết học chính trị, xã hội là nghiên cứu những vấn đề cơ bản về Nhà
nước, chính quyền, chính trị, tự do, cơng bằng, tài sản, quyền, luật, và việc thực
thi luật pháp bởi các cơ quan có thẩm quyền. Nhằm lý giải về các mối quan hệ
và sự tồn tại của các vấn đề trên một cách thấu đáo bởi các nhà triết học. Lịch
sử triết học phương Đông, phương Tây đã sản sinh ra rất nhiều nhà triết học
uyên bác với những tư tưởng chính trị xã hội đặc sắc, tác động mạnh mẽ tới
nền chính trị xã hội đương thời.
Triết học chính trị xã hội Phật giáo là nền tảng cho việc xây dựng con
người vị tha, đó lý tưởng cao quý nhất, tiến tới con người từ, bi, hỷ, xả, con
người Phật. Nhiều học giả cho rằng Phật giáo mang nhiều tư tưởng cải cách xã
hội. Những tư tưởng triết học chính trị xã hội có nhiều điểm tương đồng với
các quan điểm triết học chính trị xã hội của các nhà triết học phương Đơng và
phương Tây thì kỳ cổ đại đến nay. Giáo lý của Phật giáo không dựa trên một
triết lý chính trị nào cả. Giáo lý Phật giáo vạch ra con đường đưa đến sự giải
thốt, nói một cách khác, mục tiêu là diệt lòng tham ái vốn đã cột chặt con
người trong vòng trầm luân, khổ ải.
Ngày nay Phật giáo ở nước ta đang có sự phục hồi và phát triển một
cách nhanh chóng. Trong lịch sử Phật giáo từ khi vào nước ta, những quan
điểm triết học chính trị - xã hội đã góp phần khơng nhỏ vào đời sống chính trị
của đất nước, các nhà sư đức hạnh đã có nhiều cơng sức trong cơng cuộc đấu
tranh chống ngoại sâm và giúp các vị vua nước ta trị nước an dân. Do vậy,
nghiên cứu quan điểm triết học chính trị xã hội các triết gia trong các giai
đọan lịch sử phương Đơng và phương Tây, từ đó so sánh với quan điểm triết
học chính trị xã hội Phật giáo có ý nghĩa rất quan trọng.
1


NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA CÁC
TRIẾT GIA PHƯƠNG ĐÔNG


1.1. Khổng Tử (551 TCN – 479 TCN)
Khổng Tử sinh năm 551, mất 479 trước công nguyên, tên là Khổng
Khâu, tự là Trọng Ni. Khổng Tử là một nhà nhà triết học xã hội, tư
tưởng người Trung Hoa, các bài giảng và triết lý của Khổng Tử có ảnh
hưởng rộng lớn đối với đời sống và tư tưởng của các nền văn hóa khu
vực Đơng Á. Người Trung Quốc đời sau đã xưng ông là Vạn thế Sư biểu – tức
là bậc thầy của muôn đời.
Với hồi bão chính trị của mình, ơng đã xây dựng học thuyết “Nhân –
lễ – chính danh” nhằm góp phần lập lại kỷ cương, lễ nhạc của nhà Chu, giải
quyết những vấn đề xã hội – những vấn đề cấp bách đặt ra trong thời đại
ông đang sống. Khổng Tử đưa ra chủ trương “vi chính dĩ đức” – làm chính trị
bằng đạo đức, lấy đức để trị nước an dân. Khổng Tử cho rằng khi được nhân
dân tín nhiệm thì quốc gia mới phát triển và hùng mạnh. Ơng lập luận rằng:
“không sợ nghèo mà sợ không đều, không sợ ít mà sợ bất ổn”, “bá tính đủ,
vua sao lại khơng đủ; bá tính khơng đủ, vua sao lại đủ”; quan điểm này của
ơng đứng về phía nhân dân, là lời nhắc nhở nghiêm chỉnh đối với giai cấp
thống trị chuyên bóc lột nhân dân lúc bấy giờ. Các tư tưởng đó đã có ảnh
hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở Trung Quốc thờ cổ địa cũng như trung
đại và cả sau này. Các tư tưởng của ông được phát triển thành một hệ thống tư
tưởng triết học là Khổng giáo. Khổng giáo của Khổng tử còn được xem là
một tơn giáo lớn của lồi người, nhất là đối với dân tộc Trung Hoa.

2


1.2. Lão Tử (......)
Nói tới văn hóa Trung Quốc, tuyệt đối khơng thể tách rời Lão Tử, ơng
chính là nhân vật vĩ đại tương đương với Khổng Tử trong văn hoá Trung
Quốc. Lão Tử là người sáng lập ra trường phái Đạo gia một trong những
trường phái triết học lớn của Trung Quốc thời cổ đại. Lão tử mất đi đã để lại

cho

hậu

thế

những



tưởng

triết

học

mang

tính

thâm

sâu.

Trong các trường phái Nho gia, Đạo gia, Pháp gia của Trung Quốc thời cổ
đại, người đầu tiên đề xướng học thuyết Đạo là Lão Tử. Lão Tử cho rằng
nguồn gốc của vũ trụ là “đạo”. Đạo là gì? Đạo sinh ra một, một sinh ra hai,
hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật, cú như vậy mà vạn vật sinh sôi, nảy nở. Sự
vật được tạo ra, q trình tồn tại thì phải có quy luật để duy trì sự tồn
tại đó, đó chính là “đức”. Như vậy, đạo đức của Lạo Tử là một phạm trù thuộc

về triết học chính trị xã hội, khác với đạo đức thuần túy của Nho gia là thuộc
về phạm trù luân lý của con người.
Quan điểm triết học chính trị xã hội của Lão Tử thể hiện qua quan niệm
“vô nhi vi trị” , trị mà tựa như không trị vậy. Ơng cho rằng vơ vi Vạn vật khi
đã phát triển đến cực điểm thì bị “tổn” lần lần cho tới khi trở về “vô”.Vậy
“vô” là chung cục trong một giai đoạn mà cũng là khởi điểm giai đoạn sau.
Hơn nữa nó cịn là “bản thuỷ của trời đất”. Vì vậy Lão tử rất q “vơ”; có
thể nói học thuyết của ông là học thuyết “vô”, ngược hẳn với học thuyết của
các nhà khác Vơ khơng có nghĩa là hồn tồn khơng có gì, trái hẳn với hữu.
Vơ là vơ sắc, vơ thanh, vơ hình đối với cảm quan của ta, như đạo. Vơ có tính
cách huyền diệu, huyền bí, nó sinh ra hữu, rồi hữu trở về vơ, thành thử vơ,
hữu khơng tương phản mà tương thành. Vì lấy “vô” làm gốc, Lão tử mới
khuyên ta vô vi, vơ ngơn, vơ dục, vơ sự ,cũnchính lấy “vơ” làm gốc nên ơng
mới chủ trương tuyệt học, tuyệt thánh khí trí; cũngchính vì lấy “vơ” làm gốc
3


nên ông mới trọng sự hư tĩnh, tinh thần bất tranh và ơng mới “ngoại kì thân,
hậu kì thân”
Trong cách quản lý đất nước, Lão Tử cho rằng cách tốt nhất làm cho
một đất nước được thái bình, yên ổn là giai cấp thống trị không được can
thiệp đến đời sống của nhân dân lao động, thu thuế không quá nhiều, không
ăn chơi xa đọa. Đồng thời nên quay trở lại thời kỳ vừa thoát thai khỏi xã
hội nguyên thuỷ, xã hội khơng cần chữ viết, khơng cần vũ khí vì khơng có
chiến tranh. Cịn đối với người dân thì chỉ cần làm cho đầu họ trống rỗng
nhưng bụng no, ý chí của họ yếu đuối nhưng xương cốt, thân thể của họ
mạnh. Họ khơng có ham muốn.
Đạo trị nước, Lão tử đưa ra chủ trương vơ chính phủ.Ơng vẫn cịn duy
trì ngơi vua, nhưng nhiệm vụ và quyền hành của vua bị giảm thiểu gần như
khơng cịn gì. Vua chỉ có mỗi việc là vơ vi, nghĩa là khơng can thiệp vào đời

sống của dân, chỉ coi chừng cho dân sống theo tự nhiên, ngăn ngừa trước cho
dân khỏi đánh mất bản tính thuần phác Hơn nữa, vua tuy ở trên dân mà khơng
q bằng dân,vì:“Sang lấy hèn làm gốc, cao lấy thấp làm nền” (Quí dĩ tiện vi
bản, cao dĩ hạ vi cơ).Các vua chúa mới tự xưng là cơ (cơi cút), quả (ít đức),
bất cốc (khơng tốt) ... Vua quan phải học Đạo mà trị nước, nếu dùng trí, dùng
thuật mà trị nước là làm hại nước, hại dân. Chính quyền bao gồm những
người ngây thơ, chất phác, không xa hoa, ăn ở giản dị và cần kiệm. Họ
không can thiệp vào chuyện của người dân.
Lão Tử triệt để bác bỏ chiến tranh, vì chiến tranh mang lại đau khổ cho
con người. Cực chẳng đã mưới phải dùng thì nên, chừng mực, điềm đạm.
Tóm lại, tư tưởng triết học chính trị xã hội của Lão Tử thể hiện trong
Đạo, Đạo trị nước, an dân. Mục đích để đem lại phúc lợi cho người dân là
4


càng ít can thiệp của nhà nước càng tốt, để mặc cho dân được sống tự nhiên,
giản dị, mộc mạc. Chủ trương chính trị của Lão Tử khơng được giai cấp
phong kiến đương thời chấp nhận, có khi cịn bị ngăn cấm, tuy nhiên những tư
tưởng ấy đã đặt nền móng cho việc hình thành một trường phái Đạo giáo ở
Trung Quốc về sau.
1.3. Hàn Phi Tử ( 280 TCN - 233 TCN)
Là tác giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc, ông
theo trường phái Pháp gia. Hàn Phi Tử phủ định đức tính Nhân nghĩa của nhà
Nho, ơng tự tự sáng lập ra triết lý chính trị xã hội riêng, chủ trương hình
thành một hệ thống bao gồm 3 điểm là: Pháp, Thế và Thuật. Trong tư
tưởng chính trị xã hội của Hàn Phi, quyền lực là tất cả: Quyền thế bất khả dĩ tá
nhân, thượng thất kỳ nhất, hạ dĩ vi bách, tức là quyền thế không thể chia sẻ cho
người khác, khi bề trên chia mất một quyền, thì kẻ dưới sẽ lạm dụng thành
trăm. Hàn Phi đặc biệt coi trọng quyền lực, ông là kẻ sùng bái quyền lực. Đó
là suy nghĩ chung của những kẻ chủ trương độc tài, chuyên chế từ thời cổ chí

kim, từ đơng sang tây, coi quyền lực như là tối cao, có quyền lực là tất cả.
Tư tưởng chủ yếu của Hàn Phi là thuyết Pháp Trị, đề cao vai trị của pháp
luật, ơng cho rằng “Khơng có nước nào ln ln mạnh, cũng khơng có nước
nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp luật mạnh thì nước mạnh,
cịn hễ những người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu”.Hàn Phi tử cũng
yêu cầu Phi yêu cầu thuật trị nước phải đạt đến kết quả tồn xã hội từ dân đến
quan chỉ có thể vui vẻ mà thực hiện theo pháp luật. “Phàm kẻ có thuật trị
nước đã làm bầy tôi sẽ dựa theo pháp luật giải quyết. Trên soi sáng pháp luật
nhà vua, dưới làm cho bọn gian thần nguy khốn để cho nhà vua được tôn quý,

5


nước được yên. Do đó, những lời hợp phép tắc được đưa ra ở trước thì việc
khen thưởng và trừng phạt sẽ được thi hành ngay sau đó”
1.4. Tuân Tử (316 TCN – 237 TCN)
Bên cạnh Khổng Tử, Lão Tử, Hàn Phi Tử, thì Tuân Tử cũng là một triết
gia có nhiều tư tưởng về chính trị xã hội. Tn Tử là thừa kế chủ thuyết của
Khổng Tử và Mạnh Tử, một phần khác ở vấn đề trị nước. Tuân Tử trị nước
phải theo giáo hóa của Lễ, Nghĩa. Đó là cơ sở, nền tảng của chính trị của một
đất nước, còn là vấn đề then chốt để trị loạn, bình thiên hạ, mang tính hưng
vong của một đất nước.Tư tưởng chính trị của ơng là “q dân”, “thượng
hiền”, và theo chủ nghĩa Lễ Trị.
Không giống với các nhà Pháp gia, ơng ít chú trọng đến các luật lệ
chung mà ủng hộ việc sử dụng ví dụ cụ thể để làm hình mẫu. Hình mẫu vua
và chính quyền lý tưởng (quân tử) của ông, được hỗ trợ bởi giới tinh hoa, gần
giống với Mạnh Tử, nhưng khác biệt ở chỗ ông phản đối việc cha truyền con
nối của chế độ phong kiến mà tin rằng địa vị của một cá nhân trong xã hội cần
được xác định bằng khả năng của chính họ
II. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA CÁC

TRIẾT GIA PHƯƠNG TÂY
2.1. Socrates (469 TCN -399 TCN)
Ông là triết gia vĩ đại nhất Hy Lạp cổ đại, là bậc thầy truy vấn phái biện
thuyết . Triết học chính trị xã hội theo Xơcrát, khơng phải là sự nghiên cứu tự
nhiên một cách tư biện, mà là học thuyết dạy con người sống tốt và sống đẹp.
Con người chỉ có thể nhận biết những gì nằm trong quyền hạn của mình, tức
linh hồn mình. “Hãy nhận biết chính mình”, nghĩa là nhận biết mình như thực
thể xã hội và thực thể đạo đức.
6


Socrates cũng là người đầu tiên thiết lập nền “triết học đạo đức”, vận
đụng đạo đức duy lý vào lĩnh vực chính trị. Luận điểm cơ bản của đạo đức
học duy lý cũng được vận dụng vào lĩnh vực chính trị. Phẩm hạnh (đức hạnh)
chính trị là cách diễn đạt khác của tri thức về chính trị. Với phẩm hạnh
“khơng cần những kẻ vơ học; nếu khác đi thì nhà nước cũng chẳng nên có làm
gì”. Vì lẽ đó Socrates đã phê phán nền dân chủ chủ nô từ lập trường của giới
quý tộc, chứ không phải là “sự phê phán có tính chất dân chủ”, “tạo nên bản
chất của nền dân chủ”...
Phương pháp của đạo đức học duy lý được gọi chung là phương pháp
đỡ đẻ. Theo Socrates, chỉ có thể sống lương thiện nếu được trang bị một
phương pháp hướng dẫn con người đến với chân lý, tức cái Thiện và lợi ích
cao nhất, phổ biến nhất. Xuất phát điểm của phương pháp đó là thái độ hồi
nghi tích cực, sự tự tra vấn và cầu thị: “Tơi biết rằng tơi khơng biết gì cả”.
2.2. Platon (428 TCN - 348 TCN)
Platon là nhà khoa học vĩ đại thời cổ đại và có ảnh hưởng đến ngày nay.
Tác phẩm nổi tiếng của ông là Republic, tác phẩm vĩ đại nhất và là tác phẩm
vĩ đại của mọi thời đại. Tác phẩm bàn về nhiều lĩnh vực: thần học, siêu hình
học, đạo đức học, giáo dục học, chính trị học, tâm lý học, lý thuyết về nghệ
thuật. Platon bàn tới các vấn đề chính trị xã hội như: con người, lãnh đạo công

quyền, tổ chức quốc gia, với quan niệm con người thế nào quốc gia thế ấy. Sự
sụp đổ sẽ đến khi những con buôn nhờ giàu sang bằng cách này hay cách
khác mà trở thành người cai trị, chính quyền ln ln vận động, cũng biến
hóa như tính của con người; theo ông quốc gia được cấu thành bởi các bản
tính của những con người đang ở trong nó.
Các quan điểm triết học chính trị xã hội của Platơn có nhiều mâu thuẫn:
một mặt ơng địi xố bỏ sở hữu tư nhân, thiết lập sở hữu cộng đồng, mặt khác
7


ông thấy cần duy trì sự khác nhau giữa đẳng cấp và sự bất bình trong xã hội.
Ơng đưa ra mơ hình “nhà nước lý tưởng và cơng lý” nhưng đồng thời lại bảo
vệ lợi ích của tầng lớp quý tộc chủ nô, chống lại nền dân chủ A- Ten.
2.3. Arixtốt (384 TCN – 322 TCN)
Arixtốt là đại biểu cho trí tuệ bách khoa của Hy Lạp cổ đại. C.Mác gọi
Arixtốt là nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại; Ph.Ăng ghen coi Arixtốt là
khối óc bách khoa nhất trong số những nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Arixtốt đã
nghiên cứu triết học, lơgíc học, khoa học tự nhiên, sử học, chính trị học, mỹ
học,…
Arixtốt xây dựng học thuyết chính trị xã hội của mình thơng qua nhà
nước lý tưởng trên nền tảng của bản chất con người. Theo ơng, vai trị và lợi
ích của nhà nước lên trên hết, đứng đầu, còn quyền lợi và tầm quan trọng của
cá nhân thì khơng quan trọng. Chính con người sẽ cần đến xã hội, vì xã hội là
một thực tại giá trị đạo đức, pháp luật, nảy sinh từ những yêu cầu thiết yếu
của con người. Quyền công dân chỉ dành cho tầng lớp trên, thượng lưu.
Ngược lại. tầng lớp thấp hèn thì buộc phải lao động mà khơng có một cơ hội
để đạt đến hạnh phúc.
2.4. Thomas Aquinas (1225 - 1274)
Thomas Aquinas là một nhà triết học vĩ đại người Anh. Ông là nhà tư
tưởng triết học chính trị xã hội tiêu biểu ở phương Tây thời kỳ trung đại nổi

tiếng với các tác phẩm về triết học chính trị xã hội. Cuốn sách Leviathan
(1651) của ơng đã thiết lập nền tàng cho nền triết học chính trị phương Tây
theo quan điểm về lý thuyết về khế ước xã hội. Khế ước xã hội cho rằng con
người lúc đầu vốn sống ở trạng thái tự nhiên, tự do vơ chính phủ. Con người
8


qua khế ước xã hội đã từ bỏ những quyền tự do của mình để được hưởng trật
tự của xã hội văn minh và sự an tồn. Ơng là người ủng hộ chính quyền
chun chế nhưng ơng cũng có những tư tưởng về tự do như quyền được bầu
cử, quyền bình đẳng tự nhiên của tất cả mọi người; tính nhân tạo của địa vị
chính trị điều dẫn đến sự khác nhau sau này giữa xã hội và nhà nước. Quan
điểm tất cả quyền lực chính trị của nhà nước, hợp pháp phải mang tính “đại
diện” cho nhân dân và dựa trên sự đồng thuận cao của nhân dân. Khế ước xã
hội trong triết học chính trị xã hội là một học thuyết trong đó con người cùng
nhau thỏa thuận từ bỏ trạng thái tự nhiên của mình để xây dựng cuộc sống
cộng đồng.
2.5. John Locke (1632 - 1704).
Ông là nhà triết học, nhà hoạt động chính trị người Anh, theo trường
phái chủ nghĩa kinh nghiệm trong lĩnh vực nhận thức luận. Ông cũng phát
triển lý thuyết về khế ước xã hội, vai trị của nó tới chức năng và nguồn gốc
nhà nước. Qua các tác phẩm của mình, ơng ln đấu tranh chống lại chủ
nghĩa chun chế và đóng góp lớn đối với chủ nghĩa tự do cả về mặt cá nhân
và thể chế. Về cá nhân, ông muốn con người dùng lý trí, trải nghiệm để đi tìm
chân lý thay vì chấp nhận ý kiến áp đặt hoặc sinh ra bởi niềm tin mù quáng.
John Locke với tư tưởng về quyền tự nhiên là cốt lõi cơ bản trong quan điểm
của ông về nhà nước. Theo ông, con người đầy tính ích kỷ và đầy ham muốn.
Chính vì vậy, khi xã hội tiến bộ ra đời, có nhà nước là hệ quả tất yếu của khế
ước xã hội, đây là một bước tiến lớn trong xã hội loại người giúp duy trì các
luật của tự nhiên thơng qua luật lệ của xã hội. Chính những khái niệm về

quyền của tự nhiên đã đưa ông trở thành một nhà tư tưởng lớn của phong trào
Khai sáng.

9


2.6. Hegel (1730 - 1831)
Hegel là một nhà triết học nổi tiếng người Đức, ông là người sáng lập
ra chủ nghĩa duy tâm Đức, ông cho rằng tiến bộ xã hội là sự vận động tiến về
phía trước. Theo ơng, cái chưa hồn thiện ln mang trong mình những mặt
đối lập của cái hồn thiện. Cái hồn thiện ln tồn tại trong tiềm năng, có tính
xu hướng của những cái chưa hồn thiện. Tuy vậy, ơng lại duy tâm khi coi sự
tiến bộ xã hội lồi người là q trình vận động của thế giới ý niệm tuyệt đối.
Đây chính là điểm mà ông thường bị các nhà khoa học đương thời phê phán là
không đi xa hơn các lý thuyết thần học, duy tâm trước đó. Ngồi ra, Hegel
cũng tự mâu thuẫn với mình khi cho rằng sự phát triển là vô hạn, và sự tồn tại
của nhà nước quân chủ Phổ là đỉnh cao nhất của sự phát triển trong lịch sử xã
hội loài người.
1.6. C.Marx (1818-1883)
C.Marx là nhà kinh tế chính trị, nhà khoa học, nhà triết học duy vật vĩ
địa nhất của nhân loại, tư tưởng của ơng có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.
C.Marx được nhắc đến với nhiều tư tưởng vĩ đại khác nhau, nhưng ông nổi
tiếng nhất, quan trọng nhất trong tư tưởng triết học chính trị xã hội là học
thuyết về đấu tranh giai cấp, được tổng kết lại trong những lời mở đầu trong
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản 1848. Ông cũng là người sáng lập ra học thuyết về
chủ nghĩa xã hội khoa học cùng với Friedrich Engels. Tư tưởng của ông là sự
kế thừa các học thuyết, tư tưởng được trong thế kỷ XIX, bao gồm triết học cổ
điển Đức, kinh tế học chính trị Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp [7].
Cùng với Ph.Engels, C.Marx đã xây dựng nên học thuyết vĩ đại của xã
hội lồi người, đó là học thuyết khoa học về chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ

nghĩa cộng sản khoa học mà C.Marx chủ trương xây dựng đó chính là xã hội
10


mà trong đó, mọi người, ai cũng sẽ có cuộc sống tự do, hạnh phúc, con người
được giải phóng một cách triệt để, được phát triển một cách toàn diện, làm
theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Theo C.Marx tiến bộ của xã hội mặc dù là
theo xu thế khách quan, song chứa đầy những mâu thuẫn, được thực hiện
thông qua giải quyết mâu thuẫn [4].
Tóm lại, trên đây là một số quan điểm triết học chính trị - xã hội của
các học giả tiêu biểu phương Đông và phương Tây từ thời cổ đại đến nay. Các
tư tưởng trên đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về triết học chính trị xã
hội, đều hướng tới cuộc sống hạnh phúc cho mn người, vì một xã hội ổn
định, phát triển.
III. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA PHẬT
GIÁO VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG LỜI DẠY ĐỨC PHẬT ĐẾN NỀN
HỊA BÌNH, THẠNH TRỊ CỦA MỘT QUỐC GIA
3.1. Quan điểm triết học chính trị xã hội Phật giáo
Một trong những đặc điểm nổi bật của triết Phật giáo là lấy đối
tượng con người làm trung tâm cho sự nghiên cứu, giải quyết các vấn đề thực
tiễn nhằm cải thiện đời sống của nhân dân ngày một tốt đẹp hơn. Tư tưởng
triết học chính trị xã hội Phật giáo được tập trung ở một số nội dung sau:
Về nguồn gốc con người và quốc gia. Theo quan điểm triết học Phật
giáo, nguồn gốc của lồi người cùng nguồn gốc hình thành quốc gia đều xuất
phát từ lòng dục của con người. “Do lòng dục sinh khởi quá mạnh của con
người mà có quốc gia. Quyền thống trị được quy định bởi kết quả bảo vệ của
dân ước, trong đó mỗi người dân đều mong muốn được bảo vệ quyền
lợi và tài sản tư hữu của mình” (Kinh Thế kỷ, Phẩm Thế bản duyên, Trường
11



A Hàm, quyển 22). Phật giáo vốn khơng có chủ trương làm chính trị, khơng
muốn liSên quan đến chính trị, chính trị và đạo Phật hai lối đi hồn tồn khác
nhau. “Sa môn không nên bàn luận việc quốc vương, (việc) đấu tranh”( Kinh
Tăng nhất A Hàm, Quyển 43, Phẩm thiện Ác). Đức Phật bảo các Tỳ - Kheo
rằng: “Các vị không nên khen hay chê việc trị quốc của nhà vua và không nên
bàn luận việc thắng liệt của nhà vua...”. Thay vào đó, Đạo Phật chủ
trương giải quyết những vấn đề khổ đau, hướng đến sự giải thoát sinh tử ln
hồi, cịn chính trị là những hoạt động gìn giữ, sử dụng quyền lực của một
đảng phái hay một đất nước, nghiêng về đấu tranh, các thủ đoạn chính trị.
Quan điểm về tư đức của người lãnh đạo: Theo quan điểm của Phật
giáo một người lãnh đạo tốt phải biết cư xử công bằng không thiên vị bất cứ
người nào. Người lãnh đạo tốt không bao giờ đem lịng thù hận trong dân
chúng ngheo khổ, khơng bao giờ ngần ngại áp dụng luật pháp khi cần thiết.
Người lãnh đạo tốt phải thông hiểu một cách rõ ràng luật pháp mỗi khi áp
dụng. Luật pháp phải áp dụng hợp tình và hợp lý. Người lãnh đạo phải là
người: “có trí tuệ, đức hạnh và dùng Chánh Pháp để cai trị”
Về các vấn đề của xã hội dưới nhãn quan Phật giáo. Tơn giáo là
một hiện tượng mang tính xã hội, Phật giáo cũng không ngoại lệ. Mặc dù trải
qua hơn 2500 kể từ khi ra đời, Phật giáo vẫn ln đóng một vai trị quan trọng
trong xã hội nhân loại. Phật giáo đề cao bình đẳng, một thể chế chính trị nào
cũng có một giới hạn trong sự bảo vệ quyền lợi, hạnh phúc, bình đẳng và sung
túc của người dân trong thể chế đó. Khơng một hệ thống chính trị nào, dù
rằng nó có vẻ rất lí tưởng, có thể mang lại hạnh phúc và hịa bình nếu người
dân trong thể chế đó cịn bị bao trùm bởi lịng mê si, tham, sân, hận. Bên cạnh
đó Phật giáo cũng đề cao dân chủ. Đức Phật đã khuyến khích tinh thần tham
vấn về tiến trình dân chủ. Điều nầy được thể hiện rõ qua cộng đồng tăng ni,
12



tăng sĩ và thể hiện trong vấn đề hội họp, trong đó mỗi thành viên đều có
quyền quyết định về các vấn đề chung.
Vấn đề phúc lợi xã hội. Tinh thần Bồ tát nhập thế để mang lại lợi
ích cho con người đã trở thành một con đường tất yếu mà các tôn giáo đương
thời noi theo. Sau khi đức Phật thành đạo, ngoại trừ ba tháng an cư mùa mưa,
khơng ra ngồi, hầu như mọi ngày ngài hướng dẫn các đệ tử du hoá, thuyết
pháp, quan tâm đến khổ đau của nhân loại, dạy cho con người con
đường thoát khỏi khổ, khuyên họ phát tâm để làm lợi ích mọi người.
Ngoài ra, Phật giáo chủ trương ăn chay, bất sát, bất đạo để bảo vệ môi
trường tự nhiên một cách bền vững, con người sống an nhiên trong thế giới.
Tóm lại, quan điểm triết học chính trị xã hội Phật giáo có nhiều nét
tương đồng với các quan điểm triết học chính trị xã hội khác, đều vì sự tiến bộ
của loài người và hạnh phúc cho quảng đại quần chúng. Tuy nhiên, quan điểm
chính trị xã hội Phật giáo có những nét riêng, đi sâu vào thế giới nội tâm con
người, hướng thiện, từ bi hỷ xả, khuyên con người tu tâm tích đức để bình
thiên hạ.
3.2. Lời dạy của đức Phật với nền hịa bình và thạnh trị ở Việt Nam
Trong lịch sử dân tộc ta, dựng nước luôn đi liền với giữ nước, chúng ta
phải nhiều lần với sự sâm lược, đô hộ của các nước khác. Tuy nhiên, cuối
cùng chúng ta vẫn giành được nền độc lập, trong lịch sử hào hùng của dân tộc
chúng ta thấy các nhà sư, tư tưởng Phật giáo đã góp một phần vào cơng cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, trị nước, an dân.

13


Đạo Phật chủ trương từ, bi, hỷ, xả, xây dựng một cuộc sống vị tha, một
cuộc sống hoà hợp, loại trừ mọi oán thù. Trong giáo lý Phật, ở phần giới luật,
giới thứ nhất là giới sát: với giới luật này, chúng ta càng thấy rõ đạo Phật chủ
trương ôn hồ, hồ bình và hồ hợp giữa các dân tộc, khơng muốn cho chúng

sinh nói chung, lồi người nói riêng tàn sát lẫn nhau. Dưới triều Lý và Trần,
giặc Nguyên kéo đại quân sang xâm lược nước ta, chúng tiến hành một cuộc
chiến tranh đại dã man. Nhưng cuối cùng chúng phải nhận thất bại, sau khi
chống quân xâm lược, các vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông… những ông
vua rất sùng đạo Phật, sau khi hoàn thành nhiệm vụ với non sông đất nước lại
trở về sống tu hành ăn chay niệm Phật.
Trong thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam đã liên tiếp tiến hành hai cuộc
chiến tranh yêu nước vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thấm nhuần
giáo lý Phật nói chung và luật giới sát nói riêng, Phật tử xuất gia ở 2 miền
Nam, Bắc đã tham gia trực tiếp chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu chống giặc
một cách anh dũng. Các đệ tử Phật đã nhận thức được đâu là chiến tranh xâm
lược, đâu là chiến tranh vệ quốc và đã kiên quyết đứng về phía nhân dân. Đó
chính là một việc thiện, một cuộc phóng sinh vĩ đại.
Dưới triều Lý, Trần, các nhà sư trở thành một tầng lớp phong kiến tăng
lữ có thế lực trong xã hội, có vai trị quan trọng. Nhiều nhà sư tham gia tích
cực vào các hoạt động chính trị và giữ cương vị quan trọng trong triều đình.
Như sư Vạn Hạnh là người đã vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập ra
triều Lý. Sư Đa Bảo và Viên Thông được tham dự, bàn bạc và quyết định các
việc trong triều như cố vấn của nhà vua.
Hơn lúc nào hết, người Phật tử Việt Nam hiện nay rất chăm lo đến việc
thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ chăm chú lên chùa trong những ngày
14


sóc, vọng; họ trân trọng và thành kính trong lúc thực hành các nghi lễ; họ
siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm thiện. Mặt khác, nhà chùa luôn
sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như giải oan, cầu siêu. Tất cả những
điều đó vừa củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa quy định tư duy và hành động
của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.
Con người Phật giáo nhìn sự vật trong mối quan hệ nhân quả, xem cái

gì cũng là kết quả của một cái trước và là nguyên nhân của cái sau. Mỗi khi
gặp một sự việc hệ trọng có liên quan đến bản thân hay người nhà, họ đều
nghĩ đến nguyên nhân để tìm cách khắc phục. Học cịn nhìn thế giới, xã hội
con người ở trong dịng vận động khơng ngừng, ở đó khơng có cái gì là tồn tại
mãi, cái gì cũng đang chuyển biến từ cái này sang cái khác. Khi người thân
trong gia đình lão già, yếu đau, chết chóc, họ đều xem đó là điều khơng thể
tránh khỏi và lấy đấy làm điều an ủi. Lý thuyết nhân duyên sinh, vô thường,
vô ngã của nhà Phật đã chi phối ý nghĩ và hành động của họ. Nhân cách Phật
giáo đã góp phần làm nên nhân cách của con người Việt Nam ngày nay, đó là
chấp nhận sự biến đổi của thế giới và con người, sống có nền nếp, trong sạch,
giản dị, quan tâm đến nỗi khổ của người khác, thương người, vị tha, cứu giúp
người hoạn nạn, hành động thì lấy tự giác làm đầu.
Như vậy, có thể thấy những quan điểm triết học chính trị xã hội của
Phật giáo, trực tiếp là các nhà sư đã tác động rất lớn đến đời sống chính trị xã
hội ở nước ta. Những tư tưởng lớn của nhà phật vẫn đước các nhà lãnh đạo
nước ta vận dụng để xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, độc lập.

15


KẾT LUẬN
Tư tưởng về chính trị - xã hội là một trong những nội dung cơ bản mà
các trào lưu triết học nói chung, triết học Phật giáo nói riêng đều tập trung
giải quyết. Tuy nhiên, ở mỗi thời đại lịch sử vấn đề đó được đặt ra và giải
quyết trong những bối cảnh và nội dung khác nhau tuỳ thuộc vào thế giới
quan và nhân sinh quan của các nhà triết học. Tư tưởng triết học chính trị xã
hội ln giữ vai trị chủ đạo trong tư tưởng các nhà hiền triết. Quan điểm triết
học chính trị xã hội của các quốc gia phương Tây và phương Đơng có những
điểm tương đồng với tư tưởng triết học chính trị xã hội Phật giáo, tuy nhiên
bên cạnh đó cũng có sự khác biệt nhất định.

Với triết học phật giáo, mục đích tối thượng của đức phật là chỉ ra 1
con đường rộng mở cho tất cả mọi người, không phật biệt màu da, giới tính,
giai cấp. Đức Phật tuyên bố rằng mọi người đều bình đẳng và chỉ được đánh
giá qua hành động và phong cách của họ, qua những gì mà họ suy nghĩ. Mỗi
người phải chịu hậu quả về hành động của mình về luật nhân quả. Con người
có khả năng cải thiện cho đời sống của chính họ và đạt đến mục đích tối hậu
qua các cố gắng của họ. Đức Phật không bao hàm là đấng cứu rỗi, Ngài chỉ là
con người tìm ra con đường giải thoát và Ngài chỉ dạy cho chúng ta con
đường đó. Đức Phật dạy rằng tri thức và trí tuệ là chìa khố quan yếu. Trí tuệ
có thể được khai phát qua hành từ thiền quái. Các nguyên tắc của Đạo phật là
phải tự mình chứng ngộ chứ khơng phải những giáo điều mù quáng tin theo.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường bộ Kinh, Trung bộ Kinh, Tăng chi bộ Kinh, Tiểu bộ
Kinh (Đại tạng Kinh Việt Nam), Nxb Tôn giáo, 2001.
2. C. Mác - nhà tư tưởng vĩ đại nhất của nhân loại trong 1000 năm qua,
Thông tin công tác tư tưởng, số 10.1999, tr.40.
3. Kinh Trường A Hàm, Trung A hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A
hàm (Đại tạng Kinh Việt Nam), Nxb Tôn giáo, 2001.
4. Kimura Taiken, Đại thừa Phật giáo tư tưởng Luận, H.T. Thich Quảng
Độ dịch Việt, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1969.
5. Bryan Magee, Câu chuyện Triết học, Huỳnh Phan Anh - Mai Sơn
dịch Việt, Nxb Thống kê, 2003.
6. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn anh Tuấn, Đại cương lịch
sử triết học phương Tây, Nxb Tổng Hợp Tp.HCM, 2006.

17




×