Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với KTNQD tại Ngân hàng Công thương Ba đình.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.16 KB, 71 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới để đi đến một xã hội phát triển, văn minh và
đoàn kết hữu nghị hơn. Mỗi quốc gia nằm trong dòng chảy đó không còn cách
nào khác là phải có hướng đi riêng phù hợp với đặc thù quốc gia mình với mục
đích phát triển kinh tế đạt kết quả cao mà không ảnh hưởng đến chính trị xã
hội.
Việt Nam đang trong thời kỳ tiếp tục sự nghiệp đổi mới, thực hiện công
cuộc CNH-HĐH đất nước. Với mục tiêu đưa nền kinh tế nước ta từ kinh tế
nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong sự đổi mới này khu vực Kinh tế
ngoài quốc doanh (KTNQD) đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
đưa nền kinh tế đất nước đi lên. KTNQD đã tạo ra của cải vật chất, phân phối
lưu thông và dịch vụ đồng thời tạo ra công ăn việc làm cho lao động, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, thu hút được các nguồn lực trong và ngoài nước. Để
KTNQD có thể phát huy được hết tiềm năng của mình nhà nước cần có những
chính sách khuyến khích đầu tư phát triển hợp lý đối với khu vực kinh tế này.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta đã và đang đứng trước
nhiều thách thức lớn. Điều này đòi hỏi các thành phần kinh tế phải phát huy
hết tiềm năng nội lực của mình.
Trải qua một thời gian dài, vai trò của khu vực KTNQD ngày càng được
đánh giá cao thể hiện qua sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và các cơ quan
chức năng có liên quan. Tuy nhiên trong thực tế khu vực KTNQD còn gặp
nhiều khó khăn cần được tháo gỡ như năng lực quản lý, trình độ công nhân
viên, máy móc thiết bị lạc hậu và khó khăn nhất là vấn đề mở rộng và phát
triển sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân của sự bất cập trên một phần do các
thành viên trong khu vực KTNQD chưa có đủ uy tín để đặt quan hệ tín dụng
với các tổ chức tín dụng và các chính sách hỗ trợ của của nhà nước còn hạn
chế vì vậy tốc độ phát triển của khu vực này chưa đạt hiệu quả tối ưu.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính cần phải có những thay


đổi trong hoạt động để phù hợp với tình hình. Trong thời kỳ hiện nay các Ngân
hàng luôn cố gắng đa dạng hoá các hình thức cho vay, đa dạng hóa khách hàng
với mục đích mở rộng cho vay nhằm kiếm lợi nhuận.. Mở rộng và nâng cao
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chất lượng tín dụng đối với KTNQD là một trong những mục tiêu mà các
Ngân hàng đang hướng tới. Bởi vì mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng
đối với KTNQD vừa là phục vụ lợi ích của doanh nghiệp đồng thời cũng là tìm
kiếm lợi nhuận cho ngân hàng nó trở thành một vấn đề mà mọi ngân hàng
thương mại Viêt Nam cần phải quan tâm.
Một trong những nguồn cung cấp vốn cho khu vực KTNQD là hệ thống
Ngân hàng thương mại nhưng hiện nay dư nợ của khu vực này có tăng nhưng
ở mức khiêm tốn mà hầu hết tập chung vào các doanh nghiệp, tổng công ty lớn
là rất nhỏ, bên cạnh đó nhiều doanh nghiệp vay vốn làm ăn nhưng lại không
đạt hiệu quả gây mất niềm tin cho ngân hàng ảnh hưởng đến ngân hàng khi đư
ra quyết định cấp tín dụng cho các doanh nghiệp.
Với tốc độ phát triển như hiện nay, nguồn vốn huy động của Ngân hàng
luôn dư thừa trong khi đó các doanh nghiệp thì đang thiếu vốn để mở rộng sản
xuất kinh doanh, để giải quyết mâu thuẫn này thì một mặt cần có sự quan tâm
của chính phủ nhằm đưa ra những hỗ trợ phù hợp kịp thời cho các doanh
nghiệp, mặt khác cần có các giải pháp từ phía các tổ chức tín dụng cụ thể là
các ngân hàng thương mạị cần cung cấp nguồn vốn tín dụng đảm bảo để đáp
ứng nhu cầu về vốn, tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong khu vực KTNQD
phát triển hơn.
Sau quá trình học tập và được trang bị kiến thức về ngân hàng tại trường
ĐHKTQD và qua thời gian thực tập tại Ngân hàng Công Thương Ba Đình em
đã mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín
dụng đối với KTNQD tại Ngân hàng Công thương Ba đình’’
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp phân tích tổng hợp kết hợp với
phương pháp so sánh, đánh giá thực tiễn nhằm đưa ra giải pháp mở rộng và

nâng cao chất lượng tín dụng đối với KTNQD tại Ngân hàng Công thương
(NHCT) Ba Đình.
Bố cục của bài gồm 3 chương:
Chương I: Tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh
tại NHCT Ba Đình
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chưong III: Giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao tín dụng đối với kinh tế
ngoài quốc doanh tại NHCT Ba Đình
Chương I:
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của ngân
hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm
 Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng trung gian tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các
ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng trung gian tài chính quan
trọng nhất. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập
từ ngân hàng là nguồn thu quan trọng đối với nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là
tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân và một phần đối
với nhà nước (Tỉnh, Thành phố). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường
là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hoá và dịch vụ, họ

thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử và khi họ
cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến ngân hàng để
nhận một lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho chính phủ là
nguồn tài chính quan trọng trong để đầu tư phát triển. Ngân hàng thực hiện các
chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ vì đây là công cụ quan trọng
trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững.
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát
triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng trở thành động lực phát
triển kinh tế.
1.1.2. Chức năng của NHTM.
Hoạt động kinh doanh của các NHTM trong những năm gần đây thường
xuyên đổi mới nhằm thích ứng với những điều kiện kinh tế năng động và sự
điều chỉnh của pháp luật. Xét về mặt hình thức, tuy vẫn là những nghiệp vụ cơ
bản như nhận tiền gửi, cho vay, chi trả hộ nhưng ngân hàng đã mở rộng cả về
quy mô, do vậy các NHTM ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong
sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Điều này được minh họa thông qua các
chức năng của NHTM sau đây:
1.1.2.1. Chức năng trung gian tài chính.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ
chức trong nền kinh tế đó là: Cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu,
tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập; do đó họ là những
người cần bổ sung vốn, loại cá nhân và tổ chức thứ hai là những người thặng
dư trong chi tiêu, tức là thu nhập của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng
hóa và do đó họ có tiền để tiết kiệm.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM là một trung gian tài chính quan
trọng trong việc điều chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn khi

họ có nhu cầu bổ sung vốn. Cụ thể, NHTM thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi
trong xã hội thông qua các phương thức huy động vốn khác nhau với những
thời hạn khác nhau nhằm tập trung một lượng vốn để đáp ứng nhu cầu của các
thành phần kinh tế. Chính việc điều chuyển này mà các NHTM có vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thêm việc làm, cải thiện
mức sống của dân cư, ổn định thu chi của Chính phủ. Qua đó, NHTM góp
phần quan trọng vào việc điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng
tiền, kiềm chế lạm phát.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nhờ việc đi vay để cho vay, NHTM có nguồn thu chủ lực không những
đóng thuế cho Nhà nước mà còn có lãi để duy trì bộ máy hoạt động, đảm bảo
cho sự phát triển không ngừng cho bản thân ngành ngân hàng.
1.1.2.2. Chức năng tạo phương tiện thanh toán.
Trong quá trình kinh doanh tiền tệ các chủ ngân hàng đã phát hành ra
giấy chứng nhận tiền gửi, tín phiếu được khách hàng sử dụng để chi trả các
khoản nợ. Vì vậy vàng được chuyển đổi ra tiền giấy và được các ngân hàng
đưa vào lưu thông qua nghiệp vụ tín dụng để thay thế cho tiền vàng hoặc bạc.
Sáng kiến này được xã hội chấp nhận và đây chính là phát minh có giá trị nhất
trong lịch sử hoạt động tiền tệ. Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng
thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập
trung quyền lực phát hành (in) tiền giấy vào một tổ chức duy nhất đó là Bộ Tài
chính hoặc Ngân hàng Trung ương. Từ dó chấm dứt việc các NHTM tạo ra các
giấy bạc của riêng mình.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng
nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể
chi trả để có được hàng hóa và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại,
đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận.
+ Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông
+ Thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại các

ngân hàng,
+Thứ ba là tiền gửi trên các khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn…
Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tiết kiệm thanh toán của khách hàng
tăng lên khách hàng có thể dùng để mua hàng hóa và dịch vụ. Do đó, bằng việc
cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán ( tạo
ra M1).
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Toàn bộ hệ thống NHTM cũng tham ra tạo phương tiện thanh toán khi
các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác trên
cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để
chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức là tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng
khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi
không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn
bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh
toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay.
1.1.2.3. Chức năng trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị
hàng hóa, dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi
phí, ngân hàng đưa ra nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán bằng séc, ủy
nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết
nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực
hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông
qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt
hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó ngày càng được mở rộng. Vì
vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản
lý sử dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo
tính thống nhất trong thanh toán không những giữa các ngân hàng trong cùng
một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm

thanh toán quốc tế được thành lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua
ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có
hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
Do thực hiện chức năng thanh toán, NHTM có điều kiện huy động tiền
gửi của xã hội, trước hết là của các doanh nghiệp tới mức tối đa, tạo nguồn vốn
cho vay, đầu tư và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Từ những chức năng của NHTM ta thấy chúng có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, hỗ trợ cho nhau. Khi NHTM là trung gian tín dụng thì NHTM sẽ huy
động vốn bằng nhiều cách khác nhau, có thể huy động từ các tổ chức kinh tế,
huy động vốn từ dân cư thông qua các hình thức tiết kiệm, kỳ phiếu… Qua đó
ngân hàng sẽ tập trung được một lượng vốn nhàn rỗi từ các thành phần kinh tế
khác nhau và khi họ chưa có nhu cầu sử dụng hoặc chưa đến thời hạn thanh
toán. Ngân hàng sẽ sử dụng chúng để cho vay đối với những người có nhu cầu
vay vốn. Khi các bên có nhu cầu chi trả, thanh toán Ngân hàng sẽ đứng ra làm
trung gian thanh toán. Như vậy, giữa các chức năng của ngân hàng có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Khi vai trò trung gian thanh toán làm tốt, khách
hàng sẽ tin tưởng vào ngân hàng và sẽ gửi tiền nhiều vào ngân hàng nhờ thanh
toán hộ. Như thế vốn ngân hàng huy động được sẽ tăng lên, ngân hàng có thêm
vốn để đáp ứng nhu cầu đi vay và chức năng trung gian tín dụng của ngân hàng
lại càng phát huy.
Với chức năng trung gian thanh toán và trung gian tín dụng trong nền
kinh tế quốc dân, hệ thống các NHTM đã tăng khối lượng tiền lên gấp bội
thông qua cơ chế thanh toán chuyển khoản. Điều này đã làm cho các chức
năng ngày càng liên hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng tới các hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Tất cả các chức năng trên của NHTM đều đáng lưu tâm. Tuy nhiên, ở
mỗi thời kỳ khác nhau, hoàn cảnh khác nhau của nền kinh tế mà người ta chú
trọng đến một chức năng cơ bản của hệ thống NHTM. Với mục tiêu ổn định

tiền tệ, kiềm chế lạm phát thì chức năng tạo tiền được lưu tâm hàng đầu. Với
mục tiêu huy động vốn cho đầu tư phát triển thì chức năng nhận tiền gửi để
cho vay của ngân hàng được chú trọng phát huy hơn cả. NHTM còn là trung
gian thanh toán thỏa mãn nhu cầu thanh toán, giao dịch trong nền kinh tế hàng
hóa.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.1.3. Vai trò của NHTM.
1.1.3.1. NHTM là công cụ quan trọng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Một doanh nghiệp muốn tồn tại hay tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh
doanh nào cũng đều cần phải có vốn, bởi vốn là giá trị của các tài sản xã hội
được đưa vào đầu tư nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai. Chính vì vốn có
vai trò quyết định trong việc tạo ra của cải vật chất và những tiến bộ xã hội nên
nó là nhân tố vô cùng quan trọng để thực hiện quá trình ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đẩy nhanh
tốc độ phát triển kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, dù hoạt động ở lĩnh vực nào thì vốn cũng
là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định hiệu quả hoạt động của
nó. Trong lĩnh vực thương nghiệp vốn làm tăng khả năng dự trữ hàng hóa, đẩy
nhanh tốc độ vận chuyển hàng hóa đến tay người tiêu dùng góp phần thúc đẩy
việc tiêu thụ sản phẩm. Trong lĩnh vực tài chính, vốn giúp chính phủ cải thiện
được tình hình thiếu vốn của Ngân sách vì thu nhập của Nhà nước không phải
lúc nào cũng đủ để bù đắp chi phí. Bên cạnh đó, cùng với việc thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, vốn sẽ góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế, đồng thời nó tạo ra quá trình đào
thải đối với những doanh nghiệp mà nguồn vốn tích lũy thấp, sử dụng vốn kém
hiệu quả, sản xuất nhỏ, lạc hậu không đủ sức cạnh tranh.
Từ những lý do trên, ta thấy vốn đóng vai trò rất quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế – xã hội. Nhưng nguồn vốn đó lấy từ đâu? ai là người
cung ứng vốn cho nền kinh tế? Thực tế ở nước ta cho thấy, do thị trường

chứng khoán chưa phát triển nên NHTM đóng vai trò là tác nhân quan trọng
trong việc cung ứng vốn. Thông qua hoạt động cho vay, ngân hàng đã tạo ra
khả năng cho vay đối với các doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực.
Đồng thời, khi thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, tư vấn, hỗ trợ cho các hoạt
động sản xuất của các doanh nghiệp đã góp phần đẩy nhanh tốc độ luân
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chuyển hàng hóa, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm. NHTM còn đóng vai trò
quan trọng trong việc tài trợ dự án, các chương trình xây dựng cơ bản, tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước và hỗ trợ các chương trình dự án
tạo việc làm cho người lao động, tạo điều kiện nâng cao mức sống của họ.
Nhưng không phải chỉ có những nước chưa có thị trường chứng khoán
hoặc thị trường chứng khoán chưa phát triển mà ngay tại các nước có thị
trường chứng khoán phát triển thì ngân hàng vẫn là một tác nhân quan trọng
trong vấn đề cung cấp vốn vì không phải bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đủ
điều kiện để tham gia thị trường chứng khoán. Hơn nữa, thị trường chứng
khoán hoạt động thì NHTM vẫn có vai trò như là một chiếc cầu nối giữa thị
trường tiền tệ và thị trường chứng khoán. Ngoài ra khi thực hiện chức năng
trung gian tín dụng, trung gian thanh toán NHTM còn góp phần giám sát kỷ
luật tài chính quốc gia trong quá trình triển khai các hoạt động tiền tệ – tín
dụng.
1.1.3.2. NHTM là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung
ương.
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng TW là một bộ phận quan trọng trong
hệ thống các chính sách kinh tế – tài chính vĩ mô của Chính phủ. Chính sách
tiền tệ là tổng hòa các phương thức mà Ngân hàng TW thông qua các hoạt
động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhằm phục vụ
cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ
nhất định.
Trong nền kinh tế thị trường, mức cung tiền tệ có tác động mạnh mẽ đến

tăng trưởng kinh tế, thông qua sự thúc đẩy mức tăng giảm tổng sản phẩm quốc
nội (GDP). Do đó sự điều tiết của Ngân hàng Trung ương đối với khối lượng
tiền trong lưu thông là rất cần thiết sao cho phù hợp với những diễn biến của
nền kinh tế để góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển ổn định, kiềm chế được tốc
độ gia tăng của lạm phát. Muốn điều tiết được khối lượng tiền tệ này, Ngân
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hàng Trung ương phải thông qua các công cụ điều tiết trực tiếp và gián tiệp
như: lãi suất cơ bản, hạn mức tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết
khấu, hoạt động của thị trường mở... Nhưng phần lớn các công cụ thực hiện
chính sách tài chính – tiền tệ của Ngân hàng TW chỉ được thực thi có hiệu quả
khi có sự hợp tác tích cực và có hiệu quả của các NHTM. Đó là việc chấp hành
quy chế dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt, đến việc
nâng cao hiệu quả cho vay và đầu tư.
NHTM chịu sự quản lý của nhà nước mà trực tiếp là sự quản lý của
Ngân hàng TW nên khi thực hiện các nghiệp vụ của mình NHTM đều phải
tuân theo các quy chế, văn bản do Ngân hàng TW ban hành.
Từ chức năng, vai trò của NHTM ta thấy NHTM thực chất là tổ chức
kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ – tín dụng, là một tổ chức trung gian tài chính
với chức năng nhận tiền gửi để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán khi
phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng do phát
hành với một ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi
được nhiều người chấp nhận.Như vậy, ban đàu các ngân hàng đã tạo ra phương
tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm
giữ,với nhiều ưu thế dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm
phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy.
Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng
tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến nhà nước tập trung quyền lực phát hành in
tiền giấy vào một tổ chức hoặc Bộ tài chính hoặc Ngân hàng TW,từ đó chấm
dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc của riêng mình.trong

điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng nhân thấy nếu họ có được số dư
trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các
dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại thì tiền tệ bao gồm nhiều bộ
phận.Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (M0), thứ hai là số dư trên tài khoản
tiền gửi giao dịch của khách hàng tại ngân hàng, thứ ba tiền gửi trên các tài
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn.Ngân hàng cho vay số dư trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên,khách hàng có thể dùng để
mua hàng và dịch vụ.Do đó bằng việc cho vay hay tạo tín dụng, các ngân hàng
đã tạo ra phương tiện thanh toán ( tham gia tạo ra M1).
Huy động ngân hàng tập chung các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn dỗi
trong nền kinh tế dưới các hình thức khác nhau. Các hình thức huy động vốn
hiện có của ngân hàng thương mại bao gồm:
- Nhận tiền gửi:
Người ta gửi tiền vào ngân hàng với nhiều mục đích: Để bảo quản, để sử
dụng dịch vụ chi trả hộ và để có thu nhập... Dựa trên mục đích của người gửi
tiền, tiền gửi được phân chia thành hai dạng cơ bản; Tiền gửi giao dịchvà tiền
gửi phi giao dịch
+
Tiền gửi giao dịch nhằm mục đích để thanh toán, nó gắn liền với hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tiêu dùng của dân cư. Tiền gửi
giao dịch gồm tiền có thể phát séc, uỷ nhiệm htu, uỷ nhiệm chi….
+ Tiền gửi phi giao dịch là tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức
tín dụng, tiết kiệm dân cư. Đây là những khoản tiền không thanh toán, tạm
thời nhàn rỗi,hiệu suất sử dụng cao vì nó tương đối ổn định nhưng lãi suất cao
hơn tiền gửi giao dịch .
Ngân hàng đã huy động vốn thông qua việc phát hành kỳ phiếu, chứng
chỉ tiền gửi.
Nguồn vay mượn ngân hàng TW hoặc các ngân hàng khác nhằm bù đắp

dự trữ thiếu hụt đảm bảo thanh toán khi cần thiết,ngoài ra ngân hàng còn huy
động từ các nguồn khác
- Hoạt động cho vay
Cho vay thương mại: Ngay thời kỳ đầu các Ngân hàng đã chiết khấu
thương phiếu mà thực tế cho vay đối với những người bán.Sau đó là bước
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chuyển chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng
là người mua giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh
doanh.
Cho vay tiêu dùng; trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không
cho vay đối với các cá nhân và hộ gia đình vì họ đã cho rằng các khoản cho
vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao, sự gia tăng thu nhập của người tiêu
dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới
người tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng.
Tài trợ dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn
thường chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục cho vay của các ngân hàng bao gồm
các khoản cho vay có thời hạn dưới một năm.
Cho vay trung và dài hạn áp dụng cho những dự án sản xuất kinh
doanh,chương trình phát triển kinh tế xã hội, đầu tư xây dựng cơ bản, cho vay
trung và dài hạn là khoản cho vay có thời hạn trên 1 năm.Xu hướng hiện nay
nhu cầu về vốn tín dụng ngân hàng trung dài hạn ngày càng gia tăng. Vì vậy
các NHTM đang cố gắng tìm mọi biện pháp nhằm mở rộng loại hình tín dụng
này
1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như cung ứng các
dịch vụ ra thị trường thì doanh nghiệp luôn phải cần đến những nguồn vốn ổn
định. Nhưng không phải bất cứ một doanh nghiệp nào cũng đảm bảo được điều
đó, vì vậy thiếu vốn bắt buộc các doanh nghiệp phải tiến hành vay vốn để kinh

doanh, bên cạnh những chủ thể thiếu vốn thì trong nền kinh tế cũng có những
chủ thể lại thừa vốn đang tìm kiếm cơ hội để đầu tư, lúc này có một tổ chức ra
đời làm cầu nối giữa người thừa vốn và người thiếu vốn nhằm mang lại lợi ích
cho cả hai bên cũng như cho xã hội đó chính là tổ chức ngân hàng. Thông qua
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hoạt động ngân hàng vốn sẽ được chuyển từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, và
ngân hàng là người trả công, với vai trò là người dẫn vốn bằng phân tích chênh
lệch giữa lãi suất đi vay và lãi suất cho vay, đây là nghiệp vụ truyền thống của
ngân hàng, trong đó phần mang lợi nhuận cho ngân hàng chủ yếu là lợi nhuận
từ việc cho vay, hay nói cách khác đó là từ hoạt động tín dụng ngân hàng mang
lại. Đây được coi là nghiệp vụ quan trọng nhất của ngân hàng, chỉ khi nào ngân
hàng thực hiện tốt công việc này thì ngân hàng mới có thể phát triển và tồn tại
được. Theo định nghĩa chung thì tín dụng là quan hệ vay mượn bao gồm cả
cho vay và đi vay. Tuy nhiên khi gắn với chủ thể là ngân hàng thương mại thì
tín dụng chỉ mang ý nghĩa là hoạt động cho vay của NHTM.Còn theo quan
điểm của Các Mác thì tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị
từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian thu hồi được một
lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu, theo quan điểm này thì tín dụng có
đặc trưng cơ bản là tính thời hạn, tính hoàn trả và lòng tin .
Theo quan điểm của nhà kinh tế học hiện đại thì tín dụng là quan hệ giữa
người đi vay và người cho vay, giữa họ có mối quan hệ với nhau thông qua sự
vận động của vốn tín dụng được thể hiện dưới hình thái tiền tệ hoẵc hàng hoá.
Qua đây ta thấy rằng quan hệ tín dụng chỉ dựa vào lòng tin, chỉ trên cơ sở lòng
tin thì quan hệ tín dụng mới được thực hiện, và họ cũng cho rằng tín dung
mang tính tạm thời, hoàn trả cả gốc và lãi.
Điều 49: “Tổ chức tín dụng đựoc cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới
hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh và
các hình thức giấy tờ có giá khác theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước”
Cùng với tốc độ phát triển của thị trường với trình độ khoa học ngày

càng cao đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, do vậy tín dụng ngân hàng ngày càng
trở nên quan trọng và nó đã khắc phục được những hạn chế của các hình thức
trước đây, đáp ứng được nhu cầu phát triển của kinh tế, chính vì vậy đối với sự
phát triển của mỗi quốc gia thì không thể thiếu tín dụng ngân hàng.
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Cấp tín dụng có các nguyên tắc nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng
sinh lời: Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy định của ngân hàng
Nhà nước và các Ngân hàng Thương mại:
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả gốc lẫn lãi
- Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận
với ngân hàng
- Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả
1.2.2. Phân loại tín dụng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng là một hoạt động rất phức tạp vì vậy
ứng với mỗi tiêu chí khác nhau sẽ có cách phân loaị khác nhau
1.2.2.1. Phân loại theo thời gian
Phân loại theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng với ngân hàng vì thời
gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả
năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian thì tín dụng được phân như sau
- Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống
- Tín dụng trung hạn: Từ 12 tháng đến 60 tháng
- Tín dụng dài hạn: Trên 60 tháng và không quá 15 năm đối với
các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
1.2.2.2. Phân loại theo hình thức
Theo cách phân loại này thì tín dụng bao gồm các loại sau đây:
+ Chiết khấu thương phiếu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân
hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn.Về mặt pháp lý thì Ngân hàng
không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức hỗ trợ

trái quyền. Tuy nhiên đối với Ngân hàng việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một
khoản lớn hơn trong tương lai với lãi xuất xác định trước được coi như là hoạt
động tín dụng.
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
hộ khách hàng của mình.Mặc dù không phải xuất tiền ra,xong ngân hàng đã
cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
+ Cho thuê: Là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những thoả thuận. Sau một thời gian nhất định khách hàng phải trả
cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
+ Cho vay: Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi trong một khoảng thời gian xác định
1.2.2.3. Phân loại theo rủi ro tín dụng
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng phải nghiên cứu các mức độ,
các căn cứ để phân chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới mười thang
bậc rủi ro theo các dấu hiệu từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản. Cách
phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các
khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
- Tín dụng theo cách phân loại này bao gồm:
+ Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao
+ Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng
gặp thiên tai, khách hàng chì hoãn nộp báo cáo tài chính.
+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời
hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo giá trị lớn.
+ Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài
sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì.
1.2.2.4. Phân loại theo phương pháp cho vay
+ Tín dụng trực tiếp: Là loại tín dụng mà người vay trực tiếp nhận tiền vay và

trực tiếp trả nợ vay cho Ngân hàng.
+ Tín dụng gián tiếp: Là loại tín dụng được thực hiện thông qua người thứ ba
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.2.5. Phân loại theo hình thái giá trị
+ Tịn dụng bằng tiền: Là loại tín dụng được cấp dưới hình thái giá trị là tiền
+ Tín dụng tài sản: Là loại tín dụng được cấp dưới hình thái giá trị là tài sản
1.2.2.6. Phân loại theo phương pháp hoàn trả
+ Tín dụng trả góp: Là loại tín dụng mà khách hàng phải trả cả gốc và lãi theo
định kỳ
+ Tín dụng trả một lần: Là loại tín dụng mà trả cả gốc và lãi được thanh toán
một lần theo thời hạn đã thoả thuận.
1.2.2.7. Phân loại theo tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn
thu nợ thứ hai bằng cách bán tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không có
hoặc không đủ.
Theo tài sản đảm bảo, tín dụng đựoc phân chia thành: tín dụng có đảm
bảo bằng uy tín của chính khách hàng, có đảm bảo bằng cầm cố tài sản, thế
chấp tài sản.
Cam kết đảm bảo là cam kết của ngưòi nhận tín dụng về việc dùng tài
sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba
để trả nợ cho ngân hàng.
Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho khách hàng có
uy tín, thường là khách hàng làm ăn thưòng xuyên có lãi, tình hình tài chính
vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ
so với vốn của ngưòi vay. Các khoản cho vay theo chỉ định của Chính Phủ,
không cần tài sản đảm bảo, các khoản cho vay với các đơn vị tài chính lớn, các
công ty lớn, hoặc các khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có thể
giám sát việc bán hàng cũng có thể cho vay không cần tài sản đảm bảo.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu của ngân hàng và khách

hàng phải ký hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra đánh giá được tình
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trạng của tài sản đảm bảo, có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc khả năng
bảo quản tài sản đảm bảo.
1.2.2.8. Phân loại khác
+ Theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp)
+ Theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định )
+ Theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng)
Cách phân loại này cho thấy tính chất đa dạng hoặc chuyên môn trong
cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng các ngân hàng sẽ mở rộng
phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế.
1.3. Kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường
1.3.1. Kinh tế ngoài quốc doanh và xu hướng phát triển của nó trong nền
kinh tế thị trường
1.3.1.1. Khái niệm kinh tế ngoài quốc doanh
Trong xu thế phát triển của thế giới ngày càng mạnh mẽ thì việc đổi mới
cơ cấu kinh tế là một trong những biện pháp sử dụng nhiều nhất của các quốc
gia, Việt nam cũng không là ngoại lệ
Ngay từ đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI đã khẳng định đường lối
chính cho sự phát triển kinh tế, cụ thể là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước
theo định hướng XHCN .
Tuỳ những quốc gia khác nhau số lượng thành phần kinh tế khác nhau
nhưng tựu chung lại chúng đều thuộc một trong hai khu vực kinh tế đó là kinh
tế nhà nước hay còn gọi ( kinh tế quốc doanh).Và khu vực kinh tế phi nhà
nước ( khu vực kinh tế ngoài quốc doanh )
Hai khu vực kinh tế này được phân chia dựa trên hai hình thức sở hữu :
Sở hữu nhà nước và sở hữu phi nhà nước.
+ Trong sở hữu nhà nước thì sở hữu tư nhân và sở hữu tập thể chiếm đa

số,như vậy KTNQD là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân và sở
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hữu tập thể về tư liệu sản xuất là chủ yếu.Không có sở hữu nhà nước hoặc nhà
nước góp vốn trong thành phần kinh tế này.
KTNQD tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau,như kinh tế hợp tác xã, kinh tế
tư bản tư nhân, kinh tế cá thể… KTNQD ở nước ta tồn tại dưới những hình
thức sau
- Kinh tế hợp tác xã mà nòng cốt là các hợp tác xã: Là thành phần kinh
tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất,kinh tế hợp tác xã được
tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng, phát triển theo nguyên tác tự nguyện và
bình đẳngcùng có lợi quản lý dân chủ, các hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở
đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của các xã viên phân phối
theo kết quả lao động và theo cổ phần. Kinh tế hợp tác cùng với kinh tế nhà
nước hợp thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân
- Kinh tế cá thể: Là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu cá thể
về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân họ, tồn tại ở phạm vi tương đối
lớn, được phát triển trong nhiều nghành nghề ở cả thành thị và nông thôn
không hạn chế kinh doanh,nó có thể tồn tại độc lập, hoặc có thể tham gia vào
loại hình hợp tác xã hoặc liên kết với các doanh nghiệp lớn dưới nhiều hình
thức.Con đường đi vào hợp tác xã của họ phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện,
không gò ép và cùng có lợi
- Kinh tế tư bản tư nhân: Là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp tư
nhân hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn,Công ty cổ phần theo quy định của
pháp luật
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn: Là loại hình doanh nghiệp trong đó các
thành viên cùng góp vốn và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi góp vốn của mình
+ Doanh nghiệp tư nhân: Là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp

hơn mức vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Bên cạnh các thành phần kinh tế cơ bản cũng có một hình thức kinh tế
song song cùng tồn tại, đó là hình thức liên doanh liên kết giữa các chủ thể
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kinh tế trong nước cũng như với nước ngoài. Như vậy bên cạnh vai trò chủ đạo
của kinh tế quốc doanh thì kinh tế ngoài quốc doanh đã được đảng và nhà nước
công nhận và tạo điều kiện phát triển với nhiều hình thức hoạt động khác
nhau.Kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang huy động tối đa mọi nguồn lực
trong xã hội phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế việt nam
1.3.1.2. Đặc điểm kinh tế ngoài quốc doanh
Một trong những thành tựu hết sức quan trọng của khu vực KTNQD đó
là khu vực này hoạt động hầu hết trong các lĩnh vực của kinh tế chỉ trừ một số
lĩnh vực độc quyền đó là an ninh quốc phòng, quản lý nhà nước
Hầu hết các chủ thể trong khu vực KTNQD tham gia vào các nghành
nông lâm thuỷ sản và các ngành cung cấp dịch vụ, một số tham gia vào lĩnh
vực khoa học, công nghệ giáo dục, hiện nay khu vực này tập chung nhiều vào
lĩnh vực thông tin vì nó hứa hẹn sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn. Khu vực này
hiện đang cung cấp 50% GDP trong các nghành nghề,và tỷ trọng này ngày
càng gia tăng và có xu hường ngày càng phát triển mạnh và có hiệu quả. Trong
qua trình phát triển kinh tế ngoài quốc doanh có những đặc điểm như sau
+ Xét theo loại hình kinh tế, KTNQD hoạt động dưói nhiều hình thức
khác nhau, rất đa dạng và phong phú như kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh
tế hợp tác xã, kinh tế tư bản tư nhân và hình thức liên doanh liên kết.Các hình
thức này vừa mang đặc điểm chung của thành phần KTNQD nhưng đồng thời
nó cũng mang những đặc điểm riêng, đặc điểm này do lịch sử phát triển của
từng loại hình kinh tế ở nước ta quyết định, hơn nữa với mỗi hình thức tồn tại
khác nhau sẽ có những điều kiện,yêu cầu đòi hỏi khác nhau về vốn tín dụng
ngân hàng.Vì thế khi xây dựng chính sách tín dụng, chính sách lãi xuất,chính

sách khách hàng, ngân hàng không thể đồng nhất họ về một nhóm.Nhóm
khách hàng thuộc khối KTNQD mà ngân hàng cần nắm đặc điểm riêng của
từng loại khách hàng để xây dựng các chính sách cho phù hợp tạo điều kiện
thuận lợi cho cả ngân hàng và khách hàng khi lập và duy trì mối quan hệ. “
như chính sách cho vay đối với khách hàng cá thể sẽ khác với chính sách cho
vay đối với doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần, các hợp tác xã. Nếu
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
như ngân hàng không nắm được các đặc điểm này mà đồng nhất thành phần
KTNQD trong việc xây dựng chính sách tín dụng của mình thì không những
việc mở rộng cho vay của ngân hàng sẽ gặp khó khăn mà chất lượng tín dụng
cung cấp cho khách hàng cũng không được đảm bảo.
Kinh tế ngoài quốc doanh có những hạn chế về vốn và khả năng tích luỹ,
do sự tồn tại của khu vực kinh tế này chỉ mới đựơc công nhận gần 20 năm và
đang hoạt động trong môi trường pháp luật mới tạo dựng còn nhièu vướng mắc
trong quá trình phát triển. Mặc dù trong những năm gần đây Đảng và nhà nước
khuyến khích tạo điiêù kiện cho khu vực này nhưng nhìn chung tập trung vốn
của khu vực này chưa cao.Nguyên nhân do nhiều yếu tố tác động.
- Thứ nhất: Là do quy mô hoạt động của các đơn vị kinh tế này còn nhỏ
kỹ thuật và công nghệ sản xuất lạc hậu, hàng hoá sản xuất giá thành cao và
kém tính cạnh tranh
-Thứ hai: Quy mô vốn và lao động nhỏ,cùng với khả năng quản lý, khả
năng tiếp cận công nghệ còn hạn hẹp đã dẫn đến các thiết bị mà các doanh
nghiệp đang dùng là thiết bị cũ đã qua sử dụng và bị hao mòn theo thời gian
dân tới khả năng để sản xuất các sản phẩm với mẫu mã chất lượng là không
có, chi phí sản xuất do vậy cũng rất cao. Theo số liệu điều tra của viện nghiên
cứu kinh tế thì chỉ có khoảng 24% doanh nghiệp và 21%Công ty sủ dụng công
nghệ tương đối hiện đại, 36,3% doanh nghiệp và 18,6% công ty sử dụng công
nghệ cổ truyền 35,5 % doanh nghiệp và 61,5% công ty kết hợp cả công nghệ
hiện đại và công nghệ cổ truyền.

Qua sự thống kê của viện nghiên cứu kinh tế đã cho thấy trình độ sản
xuất của các doanh nghiệp là còn đang thấp, công nghệ lạc hậu làm cho các
sản phẩm kém sức cạnh tranh và đã gây khó khăn cho khu vực kinh tế này
trong việc mở rộng thị phần.
Chính vì vậy đổi mới công nghệ nhằm sản xuất được những hàng hoá có
tính cạnh tranh cao đang là nhu cầu càn thiết của KTNQ, để đạt được yêu cầu
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
như mong muốn, tự bản thân các doanh nghiệp phải xoay sở, phải nâng cao
nguồn tài chính cho mình,có những đề án sản xuất kinh doanh hiệu quả nhằm
thu hút vốn đầu tư có như vậy khu vực KTNQD mới có thể cạnh tranh đứng
vững trên thị trường, do vậy để khắc phục những hạn chế về vốn, công nghệ
khu vực KTNQD rất cần sự hỗ trợ của các NHTM,vì vậy NHTM cần phải nắm
được những khó khăn của khu vực kinh tế này để mở rộng tín dụng kịp thời.
Tuy nhiên cũng thấy rằng đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng
tín dụng mà ngân hàng cung cấp,nếu ngân hàng cho vay mà không trọng tâm
thì không những tháo gỡ được khó khăn mà còn có thể gây ra ảnh hưởng rất
sấu đến khu vực kinh tế này và cả chất lượng tín dụng của ngân hàng. Do vậy,
cùng với việc mở rộng tín dụng thì các ngân hàng cũng cần phải nâng cao chất
lượng tín dụng đối với KTNQD.Bên cạnh khả năng tài chính cò hạn hẹp thì đội
ngũ lao động khu vực KTNQD cũng là vấn đề cần quan tâm bởi số lượng và
chât lượng lao động còn ít và kém,doanh nghiệp có lao động dưới 10 người
vào khoảng 48% tổng số các doanh nghiệp, doanh nghiệp có từ 10- 50 người
chiếm khoảng 37%, từ 50-200 người khoảng 9% còn lại là doanh nghiệp có số
lao động 200 người trở lên. Đội ngũ lao động khu vực KTNQD nói riêng và
trong toàn bộ nền kinh tế nói chung đều có kỹ năng và tay nghề còn thấp chưa
đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng trong thời gian vừa qua khu vực
KTNQD cũng đã đóng góp rất nhiều cho nền kinh tế. Chúng ta phải thừa nhận
rằng do tính đa dạng về hình thức tồn tại nên hoạt động của khu vực KTNQD

tương đối rộng, nó có mặt hầu hết các lĩnh vực các nghành nghề kinh tế đặc
biệt là trong nghành thương mại. Trong quá trình hoạt động cũng gặp nhiều
phiền toái từ các cơ quan chức năng mặc dù đã giảm đi nhiều nhưng đối với
kinh tế ngoài quốc doanh về thủ tục hành chính dường như vẫn gặp rắc rối và
khó tháo gỡ.
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Khu vực KTNQD tập chung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội,
TPHCM, Đà Nẵng, Hải Phòng là những thành phố trực thuộc TW khá phát
triển nhưng đồng thời cũng lại có sự cạnh tranh rất khắc nghiệt giữa nhiều sản
phẩm cùng chủng loại. Đặc điểm này sẽ là căn cứ để NHTM quyết định hướng
mở rộng cho vay khu vực KTNQD để vừa đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp
vừa góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch kinh tế của đất nước.
- Thứ ba: Trình độ quản lý rất thấp trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư
của nước ngoài.Có rất nhiều người đứng ra thành lập công ty cho riêng mình,
tự mình điều hành và quản lý. Tuy vậy còn thực trạng là nhiều người đứng đầu
các công ty,các doanh nghiệp có trình độ hiểu biết kinh tế trình độ quản lý con
người còn yếu kém. Điều đó dẫn tới các doanh nghiệp khi tham gia thị trường
mắc nhiều sai phạm và không phát triển hay hoạt động không có hiệu quả. Hơn
nữa do việc thực hiện pháp lệnh tài chính và thống kê của nhà nước trong các
DNNQD chưa nghiêm túc dẫn tới việc chứng thực năng lực kinh doanh cũng
như năng lực tài chính của họ còn gặp nhiều khó khăn. Điều ảnh hưởng rất lớn
đến quyết định mở rộng cho vay của NHTM nếu năng lực kinh doanh kém, tài
chính không rõ ràng của người vay thì với bất kỳ một quyết định cho vay nào
cũng rất mạo hiểm có thể dẫn đến rủi ro và ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
của ngân hàng.Mặc trong quá trình phát triển kinh doanh của mình có nhiều
hạn chế nhưng cũng phải khẳng định rằng hạn chế đó một phần cũng bắt nguồn
từ mô hình kinh tế cũ ở đó thành phần KTNQD không có điều kiện để phát
triển.Với chủ trương của đảng và nhà nước khu vực KTNQD ngày càng có
điều kiện mở rộng và phát triển vì thế mà những hạn chế đó sẽ mất dần đi và

để làm được điều đó thì khu vực kinh tế này cần sự hỗ trợ rất lớn của các
NHTM
1.3.1.3. Vai trò của khu vực KTNQD
Việc thực hiện cơ chế thị trường đã làm cho nền kinh tế nước ta trở nên
sôi động hơn, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định, Việt nam đã trở thành
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới,là môi
trường hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư.Chính vì vậy KTNQD đóng vai trò
không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường.
Khu vực KTNQD góp phần tối đa hoá nguồn lực của đất nước,tạo việc
làm thu hút lao động,giảm tỷ lệ thất nghiệp đóng góp vào sự tăng trưởng kinh
tế của đất nước,tăng thu cho ngân sách nhà nước chính nhờ đó mà hiện tại khu
vực này đóng góp khoảng hơn 40% GDP của toàn bộ nền kinh tế .Trong khi đó
số việc làm mới tại khu vực kinh tế nhà nươc lại tăng không đáng kể .Bên cạnh
việc giải quyết việc làm cho dân cư thì khu vưc KTNQD sẽ thúc đẩy mọi thành
viên trong nền kinh tế bỏ sức bỏ vốn, năng động trong việc khai thác mọi
nguồn lực làm ra của cải đáp ứng nhu cầu xã hội. Việc phát triển kinh tế khu
vực KTNQD góp phần nâng cao chất lượng lực lượng lao động trong xã
hội,nâng cao trình độ hiểu biết của người lao động.
Ngoài việc đóng góp trên thì việc phát triển khu vực KTNQD cũng đã
hoàn thiện hơn cho bộ máy quản lý nhà nước và làm đồng bộ hơn hệ thống văn
bản pháp luật. Sự phát triển của KTNQD có tác dụng tạo ra môi trường cạnh
tranh lành mạnh giữa kinh tế nhà nước với KTNQD.
Trên đây là những vai trò quan trọng mà khu vực KTNQD mang lại cho
nền kinh tế cũng như cho xã hội, với sự phát triển như hiện nay thì trong tương
lai không xa khu vực này sẽ mang lại nhiều kết quả tốt đẹp hơn.
1.3.1.4. Những vấn đề về vốn đối với sự phát triển khu vực KTNQD
Đây là những vấn đề nan giải của khu vực KTNQD bởi khả năng huy
động vốn tự do của khu vực này còn hạn chế rất nhiều. Bất kỳ một doanh

nghiệp nào thì vốn là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình thành lập
doanh nghiệp cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần
phải có vốn để mua máy móc trang thiết bị, thuê lao động trong quá trình sản
xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần có vốn để duy trì hoạt động sản xuất
kinh doanh, chính vì vậy nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp phải huy động
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
từ nguồn khác nhau. Hiện nay trên thực tế thì việc tiếp xúc với tín dụng là rát
khó khăn phải cần đến tài sản đảm bảo, phải có phương án kinh doanh hợp lý
mới có thể nhận được sự giúp đỡ của ngân hàng,và đây cũng là những nguyên
nhân chính mà các daonh nghiệp đang phải đói phó.
1.4. Tín dụng Ngân hàng đối với KTNQD
1.4.1. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với phát triển KTNQD
Hoạt động kinh tế luôn đòi hỏi vốn để duy trì. Trong cơ chế cạnh tranh
như hiện nay khi mà các đơn vị kinh tế đang dần phát huy hiệu quả kinh doanh
ở mức cao nhất thì khu vực KTNQD cũng đang nỗ lực hết mình để cung cấp ra
thị trường những sản phẩm ngày càng phong phú và chất lượng hơn, chính vì
thế yêu cầu về vốn của khu vực này phải nhiều hơn bởi vì vốn là điều kiện
quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp, do đó tín dụng ngân
hàng ngày càng quan trọng hơn cần thiết hơn đặc biệt là các doanh nghiệp
NQD, hoạt động cho vay của ngân hàng giúp doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả
hơn. Hầu hết tất cả các doanh nghiệp đều sử dụng vốn vay để tiến hành sản
xuất và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, chính vì vậy mà doanh nghiệp
phải cố gắng sử dụng vốn có hiệu quả nhất để bù đắp lại phần lãi xuất mà
doanh nghiệp phải trả cho ngân hàng, đồng thời đem lại thu nhập cho bản thân
doanh nghiệp, nguồn vay từ ngân hàng là động lực để doanh nghiệp đẩy mạnh
sản xuất làm ăn có hiệu quả
Mặt khác Ngân hàng cùng được coi là một doanh nghiệp, vì lợi thế là
mục tiêu quan trọng mà ngân hàng rất quan tâm, việc mở rộng sản xuất kinh
daonh là yêu cầu của bất kỳ một ngân hàng nào muốn tồn tại và phát triển

- Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ sự ra đời và phát triển
KTNQD.Ngày nay trong nền kinh tế thị trường bất cứ một chủ thể nào khi
muốn đầu tư đều nghĩ đến mục đích sinh lời, chính vì vậy những người có vốn
nhàn rỗi họ săn sàng cho vay để kiếm lời và những người thiếu vốn thì sẵn
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sàng vay để đầu tư mở rộng sản xuất, với tư cách là trung gian dẫn vốn ngân
hàng đã giải quyết mâu thuẫn đó.
- Tín dụng ngân hàng tác động điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư làm
bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận, thúc đẩy sự phát triển của khu vực KTNQD
- Tín dụng ngân hàng luôn chuyển hướng đầu tư vào doanh nghiệp có tỷ
suất lợi nhuận cao, hạn chế và không đầu tư vào doanh nghiệp có tỷ suất lợi
nhuận thấp.
Qua đây thấy rằng tín dụng ngân hàng làm thay đổi cung cầu hàng hoá
và làm thay đổi cơ cấu nghành nghề kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện trong việc tiếp cận vốn nứoc ngoài:
bên cạnh việc kích thích các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước thực hiện
tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập chung vốn tiền tệ, tín dụng ngân
hàng còn thu hút nguồn vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức như trực tiếp cho
vay bằng tiển, bảo lãnh cho các doanh nghiệp khi mua thiết bị trả chậm, tạo
điều kiện kinh doanh cho các nhà kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu
- Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp NQD hoạt động kinh
doanh và đầu tư có hiệu quả: Để tiếp cận tín dụng ngân hàng một cách dễ dàng
trước hết doanh nghiệp phải nỗ lực kinh doanh có hiệu quả .
Khi cấp tín dụng một dự án thì trước đó quá trình thẩm định khắt khe
của ngân hàng thấy được tính hiệu quả khả thi của nó, chính tín dụng đã có khả
năng loại trừ các dự án không khả thi, điều này góp phần nâng cao hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tín dụng ngân hàng góp phần tăng nguồn vốn nâng cao khả năng cạnh

tranh của các chủ thể kinh tế ngoài quốc doanh.Muốn tăng trưởng và phát triển
thì việc tạo ra hình ảnh và vị thế của doanh nghiệp là không thể thiếu, vì vậy
các doanh nghiệp đang có xu hướng tìm cách liên doanh liên kết nhằm bổ sung
và hoàn thiện mình mà đặc biệt là hạn chế về vốn ngày càng được các doanh
nghiệp ngày càng quan tâm hơn.
25

×