Tải bản đầy đủ (.pdf) (304 trang)

Giáo trình pháp luật đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.62 MB, 304 trang )

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

Chủ biên: PGS.TS. Lê Thị Thanh
TS. Hồng Thị Giang

NHÀ XUẤT BẢN TÀI CHÍNH


Giáo trình Pháp luật đại cương

Tập thể tác giả tham gia biên soạn:
1.

PGS.TS. Lê Thị Thanh, Trưởng bộ môn Luật, biên soạn mục 1
chương 3; mục 1 chương 4;

2.

TS. Hoàng Thị Giang, Phó trưởng bộ mơn Luật, biên soạn
mục 1 chương 6;

3.

PGS.TS. Trần Đình Huỳnh, Học viện Hành chính Quốc gia,
biên soạn mục 6 chương 1;

4.

ThS. Vũ Thị Toán, giảng viên bộ môn Luật, biên soạn mục 1,
2, 3, 4 chương 1;


5.

ThS. Hồng Thu Hằng, giảng viên bộ mơn Luật, biên soạn
mục 1, 2, 3 chương 5;

6.

ThS. Đỗ Ngọc Thanh, giảng viên bộ môn Luật, biên soạn mục
5 chương 1;

7.

ThS. Đỗ Quốc Quyền, giảng viên bộ môn Luật, biên soạn mục
2 chương 4; mục 2 chương 6;

8.

ThS. Tô Mai Thanh, giảng viên bộ môn Luật, biên soạn mục 1
chương 2; mục 2.3, 2.4 chương 3;

9.

ThS. Đỗ Thị Kiều Phương, giảng viên bộ môn Luật, biên soạn
mục 2, 3, 4 chương 2;

10.

HVCH. Nguyễn Thị Ngân Giang, giảng viên bộ môn Luật,
biên soạn mục 4 chương 5;


11.

HVCH. Phạm Thị Hồng Nhung, giảng viên bộ môn Luật, biên
soạn mục 2.1, 2.2 chương 3;

12.

Thư ký: ThS. Đồn Thị Hải Yến, giảng viên bộ mơn Luật.

2


Giáo trình Pháp luật đại cương

Pháp luật đại cương là môn học bắt buộc trong hệ thống các môn
học lý luận cơ bản áp dụng cho hệ đào tạo đại học và cao đẳng. Dựa
trên cơ sở học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan
điểm của Đảng và Nhà nước cũng như tri thức chung của nhân loại
về Nhà nước và pháp luật, môn học Pháp luật đại cương luận giải,
chứng minh một cách cơ bản những vấn đề lý luận chung về Nhà
nước và pháp luật. Môn học này cũng cung cấp cho sinh viên
thuộc khối ngành không chuyên luật kiến thức cơ bản nhất về
nguồn gốc, bản chất, chức năng, vai trò của Nhà nước và pháp
luật; thực hiện pháp luật; vi phạm pháp luật; trách nhiệm pháp lý,
đồng thời khái quát nội dung cơ bản của một số ngành luật quan
trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế.
Nhằm đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của giáo viên và
sinh viên Học viện Tài chính, các giảng viên bộ mơn Luật Kinh tế –
Tài chính cùng với sự cộng tác của các giảng viên, chuyên gia pháp
lý đầu ngành thuộc các trường đại học, các cơ quan tư pháp, các

trung tâm nghiên cứu pháp lý đã biên soạn giáo trình Pháp luật đại
cương năm 2000 và đã được chỉnh lý bổ sung tái bản năm 2005. Sau
tám năm đưa vào giảng dạy và học tập, giáo trình Pháp luật đại
cương đã góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu, học tập kiến
thức chung về Nhà nước và pháp luật của Học viện Tài chính.
Trước những địi hỏi của việc đổi mới phương pháp dạy và
học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở Học viện Tài chính và
trước sự thay đổi và phát triển nhanh chóng của kinh tế – xã hội,

3


Giáo trình Pháp luật đại cương
của hoạt động lập pháp và khoa học pháp lý đã làm cho một số
nội dung và kết cấu của giáo trình tái bản năm 2005 khơng cịn
phù hợp. Trong bối cảnh đó, u cầu một giáo trình Pháp luật đại
cương mới ra đời đáp ứng được nhu cầu của việc dạy và học là vấn
đề cấp thiết. Theo quyết định của Giám đốc Học viện Tài chính,
các giảng viên bộ mơn Luật Kinh tế – Tài chính và các cộng sự là
các chuyên gia pháp lý đầu ngành đã tổ chức biên soạn giáo trình
Pháp luật đại cương mới.
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội rất phức tạp,
cịn có nhiều vấn đề phải luận bàn, tranh luận, nhất là trong giai đoạn
hiện nay. Vì vậy, việc xây dựng được một giáo trình Pháp luật đại
cương dành cho khối đào tạo khơng chun luật tồn bộ lý luận về
Nhà nước và pháp luật trên cơ sở đó để giải quyết các vấn đề thực
tế là điều rất khó khăn. Trên tinh thần đó, Học viện Tài chính và
nhóm tác giả mong nhận được những góp ý, nhận xét của các đồng
nghiệp, các sinh viên, các độc giả, các chuyên gia và các nhà khoa
học để tiếp tục hồn thiện giáo trình này trong lần tái bản sau.

Học viện Tài chính chân thành cảm ơn các nhà khoa học trong
và ngoài Học viện, gồm: GS.TS. Ngô Thế Chi; PGS.TS. Phạm Hữu Nghị;
PGS.TS. Nguyễn Thị Liên; PGS.TS. Phạm Ngọc Dũng; TS. Trương
Hồng Hải; TS. Đặng Văn Du; TS. Nguyễn Thị Thương Huyền, đã
có nhiều ý kiến đóng góp trong q trình nghiệm thu và hoàn
thiện nhằm nâng cao chất lượng khoa học của giáo trình này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
BAN QUẢN LÝ KHOA HỌC
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

4


Giáo trình Pháp luật đại cương

1. NGUỒN GỐC VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC

1.1. Nguồn gốc của Nhà nước
Nhà nước là một hiện tượng đa dạng và phức tạp. Để hiểu rõ
bản chất và những quy luật phát triển của Nhà nước, cần làm
sáng tỏ, chỉ ra nguyên nhân xuất hiện Nhà nước. Trong lịch sử tư
tưởng chính trị – pháp lý có nhiều cách lý giải khác nhau về
nguồn gốc của Nhà nước1.
Những nhà tư tưởng theo Thuyết thần học cho rằng: Thượng
đế là người sắp đặt trật tự xã hội, Nhà nước do Thượng đế sáng
tạo ra để bảo vệ trật tự chung. Do vậy, Nhà nước là lực lượng
siêu nhiên, quyền lực nhà nước là vĩnh cửu và sự phục tùng
quyền lực nhà nước là cần thiết và tất yếu.
Những nhà tư tưởng theo Thuyết gia trưởng cho rằng: Nhà
nước là kết quả của sự phát triển gia đình, hình thức tổ chức tự

nhiên của đời sống con người. Vì vậy, Nhà nước tồn tại trong
mọi xã hội, quyền lực nhà nước giống như quyền lực của người
đứng đầu gia đình.
1

Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội,
2008, tr.27–29.

5


Giáo trình Pháp luật đại cương

Theo Thuyết khế ước xã hội, sự ra đời của Nhà nước là kết
quả của một hợp đồng được ký kết giữa những người sống trong
trạng thái tự nhiên. Vì vậy, Nhà nước phản ánh lợi ích của các
thành viên trong xã hội và mỗi thành viên đều có quyền yêu cầu
Nhà nước phục vụ họ, bảo vệ lợi ích cho họ. Thuyết khế ước xã
hội có vai trị quan trọng, là tiền đề cho thuyết dân chủ cách
mạng và cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản để lật đổ ách
thống trị phong kiến. Với ý nghĩa đó, Thuyết khế ước xã hội có
tính cách mạng và giá trị lịch sử to lớn. Nhưng học thuyết này
vẫn có những hạn chế căn bản là giải thích nguồn gốc Nhà nước
trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy tâm, coi Nhà
nước được lập ra do ý muốn, nguyện vọng chủ quan của các bên
tham gia khế ước, khơng giải thích được cội nguồn vật chất và
bản chất giai cấp của Nhà nước.
Một số học giả tư sản theo Thuyết bạo lực cho rằng: Nhà
nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của thị tộc này
đối với thị tộc khác, kết quả là thị tộc chiến thắng “nghĩ ra” một

hệ thống cơ quan đặc biệt – Nhà nước – để nô dịch kẻ chiến bại.
Các học giả của Thuyết tâm lý cho rằng: Nhà nước xuất hiện
do nhu cầu về tâm lý của con người nguyên thủy luôn muốn phụ
thuộc vào thủ lĩnh, giáo sĩ,... Nhà nước là tổ chức của các siêu
nhân có sứ mạng lãnh đạo xã hội.
Các quan điểm trên hoặc do hạn chế về mặt lịch sử hoặc do
hạn chế về nhận thức hoặc do bị chi phối bởi lợi ích giai cấp nên
đã giải thích sai lệch nguyên nhân đích thực làm phát sinh Nhà
nước, nhằm che đậy bản chất của Nhà nước. Khi xem xét sự ra
6


Giáo trình Pháp luật đại cương

đời của Nhà nước, họ đều tách rời những điều kiện vật chất của
xã hội, tách rời những nguyên nhân kinh tế và chứng minh Nhà
nước là một thiết chế không thuộc giai cấp nào và tồn tại trong
mọi xã hội.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, trên cơ sở chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã khẳng định: Nhà
nước không phải là một hiện tượng vĩnh cửu, bất biến. Nhà nước
là một hiện tượng lịch sử, có q trình phát sinh, phát triển và
tiêu vong. Trong lịch sử đã có giai đoạn xã hội khơng có Nhà nước,
Nhà nước chỉ ra đời khi xã hội đã phát triển tới một trình độ nhất
định, trong những điều kiện khách quan nhất định. Những tư
tưởng đó được thể hiện rõ trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” của Ph. Ăngghen, về sau
được tiếp tục hoàn thiện trong tác phẩm “Nhà nước và cách
mạng” của V.I. Lênin.
Ph.Ăngghen đã chứng minh, trong xã hội cộng sản ngun

thủy khơng có Nhà nước, nhưng những ngun nhân dẫn đến sự
ra đời của Nhà nước lại nảy sinh chính trong xã hội đó. Vì vậy,
nghiên cứu cơ sở kinh tế và tổ chức xã hội trong xã hội cộng sản
nguyên thủy là cơ sở để giải thích nguyên nhân làm phát sinh
Nhà nước.
Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thủy được đặc
trưng bằng chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm
lao động. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, do trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất thấp kém, cơng cụ lao động thơ sơ,
con người chưa có nhận thức đúng đắn về thiên nhiên và về bản
7


Giáo trình Pháp luật đại cương

thân mình... Trong điều kiện và hồn cảnh đó, con người khơng
thể sống riêng biệt mà muốn tồn tại họ phải dựa vào nhau, cùng
chung sống, cùng lao động, cùng hưởng thụ những thành quả lao
động chung.
Phù hợp với tình trạng kinh tế cịn thấp kém, chưa có sự
phân hóa giai cấp, hình thức tổ chức đầu tiên của xã hội cộng sản
nguyên thủy là thị tộc. Thị tộc là tế bào đầu tiên và là cơ sở của
xã hội cộng sản nguyên thủy được tổ chức theo quan hệ huyết
thống. Trong thị tộc, trên cơ sở sở hữu chung về tư liệu sản xuất
và sản phẩm lao động, mọi người đều bình đẳng, khơng ai có đặc
quyền, đặc lợi. Trong thị tộc đã xuất hiện quyền lực nhưng đó là
quyền lực xã hội, quyền lực này không tách rời khỏi xã hội mà
thuộc về xã hội, hoà nhập với xã hội, do toàn bộ xã hội tổ chức
ra; phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng; khơng có bộ máy
riêng để thực hiện sự cưỡng chế.

Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc,
bao gồm những người lớn tuổi, không phân biệt đàn ông hay đàn
bà. Hội đồng thị tộc có quyền quyết định tất cả các vấn đề quan
trọng của thị tộc như tổ chức sản xuất, tiến hành chiến tranh, tổ
chức các nghi lễ tôn giáo, giải quyết các tranh chấp nội bộ,... các
quyết định của Hội đồng thị tộc thể hiện ý chí chung của mọi
thành viên và có tính bắt buộc chung đối với mọi người. Hội
đồng thị tộc bầu ra những người đứng đầu thị tộc như Tù trưởng,
Thủ lĩnh quân sự,... để thực hiện quyền lực, thực hiện công việc
chung. Những người này có quyền lực rất lớn trong cộng đồng,
họ thực hiện quyền lực đó trên cơ sở tín nhiệm gần như tuyệt đối
của các thành viên và uy tín cá nhân, họ chịu sự kiểm tra của
8


Giáo trình Pháp luật đại cương

cộng đồng và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào khi sự tín nhiệm
của cộng đồng đối với họ khơng cịn.
Xã hội phát triển đòi hỏi phải mở rộng mối quan hệ giữa các
thị tộc và sự hình thành các bào tộc, bộ lạc. Bào tộc là một liên
minh gồm nhiều thị tộc. Bộ lạc gồm nhiều bào tộc. Tổ chức của
bào tộc và bộ lạc cũng dựa trên nguyên tắc như trong thị tộc
nhưng ở một mức độ tập trung quyền lực cao hơn.
Tóm lại, xã hội cộng sản nguyên thủy là xã hội “khơng có
Nhà nước, lúc đó các quan hệ xã hội, ngay cả xã hội nữa, kỷ luật, tổ
chức lao động đều duy trì được là nhỏ có sức mạnh của phong
tục tập qn, nhờ có uy tín và sự kính trọng đối với các bơ lão của
thị tộc, hoặc đối với phụ nữ mà địa vị của họ lúc đó khơng chỉ
ngang với nam giới mà cịn cao hơn nữa và lúc đó khơng có một

hạng người riêng biệt, hạng người chuyên môn để thống trị.”2
Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển là động lực cơ bản
làm thay đổi phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy, địi hỏi
phải có sự phân cơng lao động xã hội thay thế cho sự phân công
lao động tự nhiên. Vào cuối thời kỳ lịch sử của chế độ cộng sản
nguyên thủy đã lần lượt diễn ra ba lần phân công lao động xã hội
lớn, đó là: 1) Chăn ni tách ra khỏi trồng trọt; 2) Thủ công nghiệp
tách khỏi nông nghiệp; 3) Thương nghiệp đã tách ra thành một
ngành hoạt động độc lập. Trải qua mỗi lần phân công lao động
xã hội đó đã tạo ra những biến động xã hội sâu sắc dẫn tới sự tan
rã của xã hội cộng sản nguyên thủy.
2

V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 29, NXB Sự thật, Hà Nội, 1972, tr.548.

9


Giáo trình Pháp luật đại cương

Lần phân cơng lao động xã hội thứ nhất làm cho ngành chăn
nuôi và ngành trồng trọt phát triển mạnh mẽ, của cải làm ra ngày
một dồi dào đã dẫn tới sự dư thừa tương đối của cải xã hội. Đây
là cơ sở khách quan làm nảy sinh khả năng chiếm đoạt những
của cải dư thừa và sự phát triển mạnh mẽ của nghề chăn nuôi và
trồng trọt đã nảy sinh nhu cầu về sức lao động. Vì vậy, tù binh
bắt được trong chiến tranh thường được giữ lại làm nơ lệ để bóc
lột sức lao động. Sau lần phân công lao động xã hội thứ nhất đã
tạo ra sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, chế độ tư hữu xuất
hiện. Chế độ tư hữu đã làm thay đổi quan hệ hôn nhân, chế độ

hôn nhân một vợ một chồng đã thay thế cho chế độ quần hôn và
xuất hiện chế độ gia trưởng với quyền lực vơ hạn của người
chồng trong gia đình.
Lần phân công lao động xã hội thứ hai càng thúc đẩy sự gia
tăng của sản phẩm lao động và giá trị sức lao động, đồng thời
làm số lượng nô lệ ngày càng tăng và trở thành một lực lượng
phổ biến. Q trình phân hố xã hội được đẩy nhanh, sự phân
biệt giàu nghèo ngày càng trở nên sâu sắc.
Lần phân công lao động xã hội thứ ba làm xuất hiện tầng lớp
thương nhân, những người không trực tiếp tham gia vào sản xuất
nhưng lại chiếm toàn bộ quyền lãnh đạo sản xuất và bắt những
người sản xuất phải phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế. Sự ra đời
và phát triển của thương nghiệp đã kéo theo sự xuất hiện của
đồng tiền, nạn cho vay nặng lãi, quyền tư hữu về ruộng đất và quan
hệ cầm cố. Các yếu tố đó đã đẩy nhanh sự tích tụ và tập trung
của cải vào trong tay một số ít cá nhân, mâu thuẫn giữa người
giàu và người nghèo, giữa chủ nô và nô lệ càng trở nên sâu sắc.
10


Giáo trình Pháp luật đại cương

Đời sống thị tộc bị đảo lộn trước một xã hội với khối dân cư
không thuần nhất, đầy sự biến động và những mâu thuẫn ngày
càng trở nên quyết liệt đến mức khó có thể điều hoà được bằng
những thiết chế và chuẩn mực đạo đức truyền thông. Chế độ thị
tộc vốn chỉ là một tổ chức khép kín, khơng biết đến các mâu
thuẫn nội tại, đã trở nên bất lực trước thực tế mới. Để điều hành,
quản lý xã hội địi hỏi phải có một kiểu thiết chế quyền lực mới
đại diện cho quyền lợi của giai cấp nắm ưu thế về kinh tế và

nhằm thực hiện sự thống trị giai cấp, dập tắt sự xung đột công
khai giữa các giai cấp hoặc giữ cho chúng ở trong một trật tự
nhất định. Tổ chức đó chính là Nhà nước.
Như vậy, Nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, nó là
sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất
định. Nhà nước “không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp
đặt vào xã hội” mà là “một lực lượng nảy sinh từ xã hội”, một lực
lượng “tựa hồ như đứng trên xã hội”, có nhiệm vụ làm dịu bớt
sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”3.
Sự xuất hiện Nhà nước ở các vùng, các dân tộc khác nhau
cũng có những đặc điểm khác nhau. Ph. Ăngghen đã chỉ ra ba
hình thức cơ bản của sự xuất hiện Nhà nước: Nhà nước Aten,
Nhà nước La Mã và Nhà nước Giécmanh. Nhà nước Aten ra đời
trực tiếp từ những mâu thuẫn giai cấp đối kháng phát sinh trong
lịng xã hội thị tộc, khơng có bất kỳ một sự tác động nào từ bên
ngoài. Đây là phương thức xuất hiện Nhà nước đặc trưng nhất.

3

C. Mác – Ph. Ăngghen, Tuyển tập, Tập 6, NXB Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.260.

11


Giáo trình Pháp luật đại cương

Nhà nước La Mã cổ đại ra đời là kết quả của cuộc cách
mạng với thắng lợi của tầng lớp bình dân chống lại giới quý tộc.
Nhà nước Giécmanh được thiết lập sau khi người Giécmanh
xâm chiếm vùng lãnh thổ rộng lớn của đế chế La Mã cổ đại. Nhà

nước Giécmanh ra đời do nhu cầu thiết lập quyền thống trị trên
đất đai La Mã, khơng phải do nhu cầu đấu tranh giai cấp trong
lịng xã hội Giécmanh. Khi Nhà nước được thiết lập, trong xã hội
vẫn tồn tại thị tộc, sự phân hoá giai cấp còn mờ nhạt. Nhà nước
Giécmanh xuất hiện là sự chuyển hố thị tộc thành Nhà nước:
Cùng với q trình củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước, xã
hội Giécmanh mới chuyển sang xã hội có giai cấp.
Tóm lại, “Nhà nước, sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp,
xuất hiện từ khi xã hội loài người bị phân chia thành những giai
cấp đối kháng, là bộ máy do giai cấp nắm được quyền thống trị
về kinh tế, chính trị, xã hội lập nên để điều hành toàn bộ hoạt
động của xã hội trong một nước với mục đích là bảo vệ quyền lợi
của giai cấp thống trị”4.

1.2. Đặc điểm của Nhà nước
Nhà nước với tư cách là một thiết chế quyền lực của giai cấp
thống trị, là tổ chức đặc biệt, giữ vai trị trung tâm trong hệ thống
chính trị. Nhà nước có thể tác động một cách tồn diện, mạnh mẽ
và hiệu quả đối với đời sống xã hội. Nhà nước có các đặc điểm
cơ bản sau:

4

Từ điển Luật học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.

12


Giáo trình Pháp luật đại cương


Thứ nhất, Nhà nước có lãnh thổ và thực hiện sự quản lý dân
cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ.
Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực, thực hiện việc
quản lý dân cư theo lãnh thổ quốc gia và trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia đó, Nhà nước quản lý dân cư theo các khu vực địa lý
hành chính.
Tổ chức thị tộc tập hợp, quản lý các thành viên của mình
theo dấu hiệu huyết thống; các tổ chức chính trị – xã hội trong xã
hội có Nhà nước được thành lập, quản lý dựa trên yếu tố tư
tưởng, tín ngưỡng, nghề nghiệp, giới tính,...; Nhà nước tổ chức
dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ khơng phụ thuộc vào
huyết thống, nghề nghiệp, giới tính,... Từ đó, hình thành các cơ
quan quản lý trên từng đơn vị hành chính – lãnh thổ. Yếu tố lãnh
thổ là một đặc trưng của Nhà nước và về nguyên tắc các Nhà
nước thực hiện quyền lực trong phạm vi lãnh thổ quốc gia của
mình. Do có dấu hiệu về lãnh thổ mà xuất hiện chế định quốc
tịch – chế định quy định sự lệ thuộc của một công dân vào một
Nhà nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất định.
Thứ hai, Nhà nước thiết lập quyền lực công đặc biệt.
Nhà nước là tổ chức công quyền thiết lập một quyền lực đặc
biệt khơng cịn hồ nhập với dân cư như trong chế độ thị tộc.
Quyền lực này hầu như tách khỏi xã hội và đứng trên xã hội. Chủ
thể của quyền lực là giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị. Để
thực hiện quyền lực cơng, Nhà nước cần có một lớp người đặc
biệt, một bộ máy cưỡng chế chuyên làm nhiệm vụ quản lý. Bộ
máy cưỡng chế đó bao gồm quân đội, cảnh sát, toà án,... và
13


Giáo trình Pháp luật đại cương


những cơng cụ vật chất như nhà tù và các tổ chức cưỡng chế
khác mà xã hội thị tộc không hề biết đến.
Thứ ba, Nhà nước có chủ quyền quốc gia.
Nhà nước là một tổ chức quyền lực có chủ quyền. Chủ quyền
quốc gia mang nội dung chính trị pháp lý, thể hiện ở quyền tự quyết
của Nhà nước về các chính sách đối nội và đối ngoại, không phụ
thuộc vào bất kỳ một quốc gia nào khác. Chủ quyền quốc gia có
tính tối cao. Tính tối cao của chủ quyền quốc gia thể hiện ở chỗ
quyền lực của Nhà nước phổ biến trên phạm vi tồn bộ đất nước,
đối với mọi cơng dân, mọi cơ quan, tổ chức. Dấu hiệu chủ quyền
quốc gia thể hiện sự độc lập, bình đẳng giữa các quốc gia.
Thứ tư, Nhà nước ban hành pháp luật để quản lý mọi mặt
của đời sống xã hội.
Để quản lý xã hội, Nhà nước ban hành một loại quy phạm
đặc biệt gọi là quy phạm pháp luật nhằm ghi nhận các yêu cầu,
mệnh lệnh của Nhà nước đối với từng lĩnh vực hoạt động nhất
định và bảo đảm cho các quy phạm đó được thực hiện trong thực
tế. Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng có quan hệ gắn bó
hữu cơ, tác động qua lại với nhau, không tách rời nhau.
Thứ năm, Nhà nước quy định và thu các loại thuế.
Nhà nước quy định và tiến hành thu các loại thuế nhằm bảo
đảm điều kiện vật chất cho bộ máy nhà nước, cho sự phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phịng và giải quyết các
cơng việc chung của xã hội. Thuế là khoản thu quan trọng của
Nhà nước và chỉ có Nhà nước mới có quyền quy định về thuế và
tiến hành thu thuế.
14



Giáo trình Pháp luật đại cương

2. BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC

2.1. Bản chất của Nhà nước
Khi giải thích về nguồn gốc của Nhà nước, các nhà tư tưởng
cổ đại và tư sản hoặc do bị hạn chế về nhận thức hoặc do bị chi
phối bởi lợi ích giai cấp đã không chỉ rõ được bản chất của Nhà
nước, không thừa nhận những quy luật vận động khách quan của
Nhà nước. Họ quan niệm Nhà nước như một cơ quan điều hồ
lợi ích giai cấp, Nhà nước khơng phải là cơng cụ thống trị giai
cấp trong xã hội có giai cấp.
Xuất phát từ việc nghiên cứu nguồn gốc của Nhà nước, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra kết luận “Nhà nước
là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp khơng
thể điều hồ được”5. Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong xã hội có
giai cấp và Nhà nước bao giờ cũng thể hiện tính giai cấp sâu sắc.
Nhà nước là một hệ thống tổ chức quyền lực công đặc biệt
trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp đối kháng.
Trong việc xác lập, thực thi và giám sát quyền lực cơng đặc biệt
của Nhà nước, có thể biểu hiện ra như là quyền lực cơng cộng
của xã hội nói chung, nhưng thực chất Nhà nước là bộ máy
quyền lực của giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác; là
bộ máy quyền lực dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này
đối với giai cấp khác; là bộ máy quyền lực của một giai cấp đối
với tồn thể xã hội; là cơng cụ chun chính của giai cấp thống
trị xã hội.
5

V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 33, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.9.


15


Giáo trình Pháp luật đại cương

Tính giai cấp của Nhà nước được thể hiện: Nhà nước là cơng
cụ chun chính của giai cấp này đối với giai cấp khác, là cơng
cụ để tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp thống
trị, biến ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí của Nhà nước và
bắt buộc các tầng lớp trong xã hội phải phục tùng.
Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó Nhà nước cịn thể hiện rõ nét tính xã hội.
Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp, để bảo đảm sự tồn
tại của mình, Nhà nước khơng chỉ tính tới lợi ích của giai cấp
cầm quyền mà cịn phải tính tới lợi ích chung của cộng đồng, của
các tầng lớp khác trong xã hội. Trong xã hội có giai cấp, sự tồn
tại của giai cấp này là tiền đề cho sự tồn tại của giai cấp khác, vì
vậy Nhà nước khơng thể tồn tại nếu khơng có sự hiện diện và
đồng thời là tính ổn định, bền vững của các giai cấp và tầng lớp
dân cư khác.
Nhà nước, với tư cách là tổ chức quyền lực công, phải giải
quyết các cơng việc mang tính xã hội, phục vụ cho lợi ích chung
của xã hội như: xây dựng các cơng trình phúc lợi xã hội (trường
học, bệnh viện, công viên, đường sá,...), bảo vệ mơi trường,
phịng và chống các dịch bệnh,... Nhà nước ln đóng vai trị
quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh nhằm bảo
vệ các giá trị chung, bảo đảm sự tồn tại trong ổn định, trật tự
chung của xã hội.
Mức độ thể hiện và thực hiện tính xã hội ở các Nhà nước khác

nhau và ngay cả trong một Nhà nước nhưng vào những giai đoạn
lịch sử khác nhau là khơng hồn tồn giống nhau. Tính xã hội
16


Giáo trình Pháp luật đại cương

của Nhà nước phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố chủ quan và
khách quan, như: hoàn cảnh lịch sử; điều kiện phát triển kinh tế,
văn hố, xã hội; bối cảnh quốc tế; trình độ nhận thức và quan
điểm của nhà cầm quyền;... Nhìn chung, tính xã hội của các Nhà
nước ngày càng được thể hiện rõ cùng với sự phát triển của đời
sống xã hội.

2.2. Chức năng của Nhà nước
Chức năng của Nhà nước là những mặt hoạt động chủ yếu của
Nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra cho Nhà nước.
Nhiệm vụ của Nhà nước là mục tiêu mà Nhà nước hướng
tới, là những vấn đề đặt ra mà Nhà nước cần giải quyết trong
những thời kỳ lịch sử nhất định. Nhiệm vụ của Nhà nước tuỳ
thuộc vào bản chất giai cấp, vai trò xã hội của Nhà nước và điều
kiện lịch sử của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể.
Chức năng của Nhà nước do các cơ quan nhà nước thực
hiện, vì vậy, cần phân biệt chức năng của Nhà nước nói chung
với chức năng của các cơ quan Nhà nước nói riêng. Chức năng
của Nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của cả bộ máy
nhà nước, còn chức năng của một cơ quan nhà nước chỉ là những
mặt hoạt động của riêng cơ quan đó nhằm góp phần thực hiện
chức năng chung của Nhà nước.
Các chức năng của Nhà nước bị chi phối bởi cơ sở kinh tế và

xã hội của Nhà nước. Các chức năng của Nhà nước có quan hệ
hữu cơ với nhau tạo thành một thể thống nhất.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động chủ yếu của Nhà nước trong
lĩnh vực đối nội và đối ngoại, chức năng của Nhà nước được chia
17


Giáo trình Pháp luật đại cương

thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối
nội là những mặt hoạt động chủ yếu của Nhà nước trong nội bộ
một nước. Chức năng đối nội bao gồm: bảo đảm trật tự xã hội,
trấn áp các phần tử chống đối chế độ, bảo vệ chế độ kinh tế,...
Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của Nhà nước trong quan
hệ với các Nhà nước và dân tộc khác. Chức năng đối ngoại bao
gồm: phòng thủ đất nước, chống sự xâm lược từ bên ngoài, thiết
lập mối quan hệ với các quốc gia khác,... Các chức năng đối nội
và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Các chức năng đối
ngoại xuất phát từ chức năng đối nội và phục vụ cho chức năng
đối nội. Thực hiện tốt các chức năng đối nội sẽ tạo thuận lợi cho
việc thực hiện chức năng đối ngoại và ngược lại, kết quả của việc
thực hiện các chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ tới việc
thực hiện các chức năng đối nội.
Nếu căn cứ vào nội dung, chức năng của Nhà nước có thể
bao gồm: chức năng kinh tế; chức năng văn hóa; chức năng bảo
đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; chức năng bảo vệ
Tổ quốc; chức năng xác lập các mối quan hệ với các quốc gia, tổ
chức quốc tế;...
Chức năng của Nhà nước được thực hiện bằng những hình
thức và phương pháp hoạt động của Nhà nước. Hình thức thực

hiện chức năng của Nhà nước bao gồm: xây dựng pháp luật, tổ
chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Các phương pháp
hoạt động để thực hiện chức năng của Nhà nước cũng rất đa
dạng nhưng nhìn chung có hai phương pháp chính là thuyết phục
và cưỡng chế.
18


Giáo trình Pháp luật đại cương

3. HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC VÀ CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
CỦA NHÀ NƯỚC

3.1. Hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà
nước. Hình thức nhà nước được xem xét dưới hai góc độ: hình
thức chính thể và hình thức cấu trúc.
3.1.1. Hình thức chính thể

Hình thức chính thể của Nhà nước là cách thức tổ chức, trình
tự thành lập các cơ quan cao nhất trong bộ máy nhà nước và mối
quan hệ giữa các cơ quan đó. Hình thức chính thể có hai dạng
chủ yếu là chính thể qn chủ và chính thể cộng hịa.
Hình thức chính thể qn chủ là hình thức nhà nước trong đó
quyền lực tối cao của Nhà nước tập trung toàn bộ hay một phần
trong tay một cá nhân theo nguyên tắc thừa kế.
Chính thể quân chủ được chia thành chính thể quân chủ
tuyệt đối và chính thể quân chủ tương đối. Trong các nước quân
chủ tuyệt đối, người đứng đầu Nhà nước (vua, hoàng đế...) có
quyền lực vơ hạn. Trong Nhà nước qn chủ tương đối, quyền

lực tối cao của Nhà nước không chỉ do người đứng đầu Nhà
nước nắm giữ mà quyền lực đó cịn được nắm giữ bởi các cơ
quan nhà nước khác.
Hình thức chính thể cộng hịa là hình thức nhà nước trong đó
quyền lực tối cao của Nhà nước thuộc về một cơ quan được bầu
ra trong một thời gian nhất định.
19


Giáo trình Pháp luật đại cương

Hình thức chính thể cộng hịa có nhiều loại, trong đó có hai
loại chủ yếu là chính thể cộng hịa Đại nghị và chính thể cộng
hịa Tổng thống. Bên cạnh các hình thức chính thể cộng hịa chủ
yếu trên cịn có hình thức nhà nước trong đó có sự kết hợp giữa
hai loại hình thức chính thể cộng hịa Đại nghị và chính thể cộng
hịa Tổng thống, được gọi là chính thể cộng hịa lưỡng tính6.
Trong chính thể cộng hịa Đại nghị, Nghị viện là một thiết
chế quyền lực trung tâm, có vị trí và vai trò rất lớn trong cơ chế
thực thi quyền lực nhà nước. Nguyên thủ quốc gia được Nghị
viện bầu ra, Chính phủ do các Đảng chính trị chiếm đa số ghế
trong Nghị viện thành lập. Chính phủ chịu trách nhiệm trước
Nghị viện. Nghị viện có thể bỏ phiếu khơng tín nhiệm Chính
phủ, buộc Chính phủ phải thay đổi.
Trong chính thể cộng hòa Tổng thống, vai trò của nguyên
thủ quốc gia rất quan trọng. Tổng thống do nhân dân bầu ra.
Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu
Chính phủ. Chính phủ khơng do Nghị viện thành lập. Các thành
viên Chính phủ do Tổng thống bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước
Tổng thống. Tổng thống khơng có quyền giải tán Nghị viện

trước thời hạn và nghị viện khơng có quyền giải tán Chính phủ.
Chính thể cộng hịa lưỡng tính là chính thể mà ở đó việc tổ
chức nhà nước vừa có đặc điểm của cộng hịa đại nghị, vừa có
đặc điểm của cộng hịa tổng thống. Nghị viện là cơ quan đại diện
cao nhất cho ý chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền và một số tầng
6

Hình thức của các Nhà nước đương đại, NXB Thế giới, Hà Nội, 2004, tr.82.

20


Giáo trình Pháp luật đại cương

lớp xã hội khác. Tổng thống do cử tri bầu, có quyền hạn rất lớn
kể cả quyền giải tán nghị viện của cộng hòa Đại nghị và quyền tự
thành lập Chính phủ của cộng hịa Tổng thống. Chính phủ vừa
trực thuộc Nghị viện vừa trực thuộc Tổng thống.
3.1.2. Hình thức cấu trúc

Hình thức cấu trúc nhà nước là sự tổ chức nhà nước thành
các đơn vị hành chính – lãnh thổ và mối quan hệ giữa các cơ quan
nhà nước trung ương với các cơ quan nhà nước địa phương.
Có hai dạng hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là Nhà
nước đơn nhất và Nhà nước liên bang.
Nhà nước đơn nhất có các đặc điểm sau7:
– Có một Hiến pháp duy nhất. Các quy định của Hiến pháp
được thi hành trên toàn lãnh thổ.
– Có một hệ thống các cơ quan trung ương: Nguyên thủ
quốc gia, Chính phủ, Nghị viện có thẩm quyền pháp lý trên tồn

vẹn lãnh thổ đất nước.
– Có một quốc tịch, khơng một lãnh thổ trực thuộc nào có
quyền đặt ra một quốc tịch riêng.
– Có một hệ thống pháp luật. Các cơ quan nhà nước địa
phương phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện các văn bản pháp
luật do các cơ quan trung ương ban hành. Các cơ quan nhà nước
địa phương có quyền ban hành các văn bản pháp luật nhưng phải
phù hợp với văn bản pháp luật của cấp trên.
7

Hình thức của các Nhà nước đương đại, NXB Thế giới, Hà Nội, 2004, tr.28.

21


Giáo trình Pháp luật đại cương

– Có một hệ thống toà án thực hiện hoạt động xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật trên toàn lãnh thổ đất nước.
– Lãnh thổ của Nhà nước đơn nhất được phân chia thành các
đơn vị hành chính trực thuộc.
Nhà nước liên bang là Nhà nước được hình thành từ nhiều
Nhà nước thành viên có chủ quyền8. Nhà nước liên bang có các
đặc điểm sau:
– Lãnh thổ của Nhà nước liên bang được hình thành từ lãnh
thổ của các Nhà nước thành viên tự nguyện liên hiệp thành.
– Các Nhà nước khi đã trở thành thành viên của Nhà nước
liên bang thì khơng cịn là Nhà nước đúng với ý nghĩa là một
Nhà nước có chủ quyền. Đặc biệt là về lĩnh vực đối ngoại, Nhà
nước thành viên coi như bị hoàn tồn tước chủ quyền. Các Nhà

nước thành viên khơng được tự tiện rút ra khỏi liên bang.
– Các Nhà nước thành viên có quyền thành lập chính quyền
của mình, có Hiến pháp, có hệ thống pháp luật và có hệ thống
các cơ quan nhà nước trực thuộc. Nhưng Hiến pháp và pháp luật
của các nước thành viên không được mâu thuẫn với Hiến pháp
và pháp luật liên bang.

3.2. Chế độ chính trị của Nhà nước
Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp, cách thức mà
Nhà nước (thông qua các cơ quan nhà nước) sử dụng để thực
hiện quyền lực nhà nước.
8

Hình thức của các Nhà nước đương đại, NXB Thế giới, Hà Nội, 2004, tr.45;
tr.50.

22


Giáo trình Pháp luật đại cương

Chế độ chính trị khơng thuộc nội hàm của khái niệm hình thức
nhà nước nhưng có quan hệ mật thiết với hình thức nhà nước.
Trong lịch sử xã hội có giai cấp, các giai cấp thống trị đã sử
dụng nhiều phương pháp, cách thức để thực hiện quyền lực nhà
nước. Nhìn chung, những phương pháp, cách thức này được
phân ra hai loại chính, đó là phương pháp dân chủ và phương
pháp phản dân chủ.
Phương pháp dân chủ thể hiện “chế độ chính trị trong đó
quyền lực tối cao thuộc về nhân dân, do nhân dân thực thi, tự bản

thân thực thi hoặc thông qua các đại biểu mà mình bầu ra. Dân
chủ gồm có các dạng: dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp, hoặc
dân chủ nửa trực tiếp. Một trong các đặc trưng của chế độ dân
chủ là thiết lập và duy trì nguyên tắc “thiểu số phục tùng đa số”
và thừa nhận quyền tự do trong chính kiến và bình đẳng về giới
tính, về dân tộc, về chính trị xã hội của cơng dân.”9
Phương pháp phản dân chủ thể hiện tính độc tài trong thực hiện
quyền lực nhà nước, thể hiện “chế độ chính trị tập trung quyền
lực vào tay một người hoặc một nhóm người thi hành việc cai trị
bằng biện pháp độc đốn, tàn bạo, chun chế cực đoan, khơng bị
ràng buộc bởi pháp luật hoặc một cơ chế quyền lực nào khác”.10
Tương ứng với hai phương pháp nêu trên là hai chế độ nhà
nước: chế độ dân chủ và chế độ phản dân chủ. Nghiên cứu, đánh
giá tính dân chủ hay phản dân chủ trong các Nhà nước luôn là
9

Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 1999, tr.126.

10

Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 1999, tr.163.

23


Giáo trình Pháp luật đại cương

vấn đề hết sức phức tạp và trong nhiều trường hợp có những tác
động khơng nhỏ đối với việc xây dựng, thực thi các chính sách
đối nội, đối ngoại của các Nhà nước.


4. CÁC KIỂU NHÀ NƯỚC
4.1. Khái niệm kiểu nhà nước
Kiểu nhà nước là một trong những khái niệm cơ bản của
khoa học lý luận về Nhà nước và pháp luật. Thông qua khái niệm
kiểu nhà nước, có thể nhận thức được một cách khoa học về bản
chất, vai trò, điều kiện tồn tại và phát triển của Nhà nước trong
các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử.
Nói tới kiểu nhà nước là nói tới Nhà nước đó là bộ máy
thống trị của giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở nền tảng kinh tế nào
và tương ứng với hình thái kinh tế – xã hội nào.
Lý luận Mác-Lênin về Nhà nước và pháp luật đã đưa ra khái
niệm về kiểu Nhà nước: Kiểu Nhà nước là tổng thể những dấu
hiệu (đặc điểm) cơ bản của Nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp,
giá trị xã hội và những điều kiện phát sinh, tồn tại, phát triển của
Nhà nước trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
Học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế – xã hội là cơ sở
khoa học để phân chia các Nhà nước trong lịch sử thành các kiểu
Nhà nước.
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua ba hình thái kinh tế – xã
hội dựa trên sự đối kháng giai cấp: hình thái kinh tế – xã hội
chiếm hữu nơ lệ, hình thái kinh tế – xã hội phong kiến, hình thái
24


Giáo trình Pháp luật đại cương

kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa. Tương ứng với ba hình thái
kinh tế – xã hội đó là ba kiểu Nhà nước: kiểu Nhà nước chủ nô,
kiểu Nhà nước phong kiến và kiểu Nhà nước tư sản.

Kiểu Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu Nhà nước đặc
biệt, đó là kiểu Nhà nước khơng cịn đúng theo ngun nghĩa đen
của nó mà là “nửa Nhà nước”.
Sự thay thế giữa các kiểu Nhà nước trong lịch sử là một quy
luật khách quan. Quy luật về sự thay thế các kiểu Nhà nước phù
hợp với quy luật về sự phát triển và thay thế các hình thái kinh tế
– xã hội. Sự thay thế giữa các kiểu Nhà nước được thực hiện
thông qua các cuộc cách mạng xã hội do giai cấp đại diện cho
phương thức sản xuất mới tiến hành nhằm lật đổ giai cấp thống
trị đương thời và giành chính quyền về tay mình. Lịch sử đã
chứng minh kiểu Nhà nước sau bao giờ cũng tiến bộ hơn kiểu
Nhà nước trước đó đã bị thay thế.

4.2. Các kiểu nhà nước trong lịch sử
4.2.1. Kiểu Nhà nước chủ nô

Nhà nước chủ nô là Nhà nước đầu tiên trong lịch sử, là tổ
chức chính trị đặc biệt của giai cấp chủ nơ nhằm thực hiện sự
chun chính đối với giai cấp nơ lệ và tầng lớp dân tự do. Cơ sở
kinh tế của Nhà nước chủ nô là chế độ sở hữu của chủ nô đối với
tư liệu sản xuất, sản phẩm lao động và nô lệ. Trong xã hội chiếm
hữu nô lệ có hai giai cấp chính là chủ nơ và nơ lệ, ngồi ra cịn
có tầng lớp thợ thủ cơng và những người lao động tự do khác.
Nhà nước chủ nô, xét về bản chất, là công cụ bạo lực để
thực hiện nền chun chính của giai cấp chủ nơ, duy trì sự
25


×