Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

THU HOẠCH TRIẾT học HIỂU BIẾT về KHỔNG tử và MẠNH tử và ẢNH HƯỞNG của HAI ÔNG tới văn hóa xã hội VIỆT NAM THỜI TRUNG đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.86 KB, 17 trang )

HIỂU BIẾT VỀ KHỔNG TỬ VÀ MẠNH TỬ VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA HAI ƠNG TỚI VĂN HĨA XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI.
- Hiểu biết của anh chị về Khổng Tử và Mạnh Tử.
Khổng tử tự Khổng Khâu sinh trưởng tại ấp Trâu, thơn Xương Bình,
nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Hoa) cuối thời Xuân
Thu. Nhiều sử ký nói rằng ơng là con của một gia đình nghèo, nhưng cụ tổ ba
đời vốn cũng thuộc dòng quý tộc đã sa sút từ nước Tống di cư đến nước Lỗ.
Cha ông là Khổng Hột lấy bà Nhan Chinh Tại mà sinh ra ông. Năm lên ba,
Khâu mồ cơi cha. Bà Nhan Chinh Tại lúc đó mới 20 tuổi khơng sợ khó khăn vất
vả đã đưa Khổng Tử đến sống ở Khúc Phụ, thủ phủ nước Lỗ, mong ông được
sống và lớn lên trong một điều kiện tốt hơn. Khi lớn lên, ông phải làm lụng vất
vả để giúp đỡ mẹ, nhưng rất ham học. Năm ông 16 tuổi thì mẹ qua đời, Khổng
Tử từ đó sống một cuộc sống thanh bạch, hàng ngày vẫn chăm chỉ học hành,
mong muốn thực hiện được ước vọng của mẹ.
Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho chuyên quản
lý kho tàng, xuất nạp tiền lương cơng bằng chuẩn xác. Ơng cũng từng đảm
nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh
trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên
quản lý việc xây dựng cơng trình. Năm 21 tuổi, Đức Khổng Tử được cử làm
chức Ủy Lại, một chức quan nhỏ coi việc sổ sách của kho lúa, cùng là cân đo và
gặt lúa. Sau đó, qua làm chức Tư Chức Lại, coi việc ni bị, dê, súc vật dùng
trong việc tế tự.
Năm 22 tuổi, ông lập trường giảng học và thường được các mơn đồ gọi
bằng phu tử. Năm 25 tuổi thì ơng chịu tang mẹ. Năm 29 tuổi, ông học đàn với
Sư Tương ở nước Lỗ. Năm 30 tuổi, Khổng Tử muốn đến Lạc Dương, kinh đô
nhà Chu, để nghiên cứu về nghi lễ, chế độ miếu đường, nhưng vì nhà nghèo,
khơng đủ tiền lộ phí, đành than thở mà thơi. Học trò là Nam Cung Quát nghe
1


vậy, liền về tâu với Lỗ Chiêu Công. Vua liền ban cho ông một cỗ xe song mã và


vài quân hầu cận để đưa Khổng Tử và Nam Cung Quát đi Lạc Dương. Đến nơi,
Khổng Tử quan sát nhà Tôn miếu, nhà Minh đường, khảo cứu luật lệ và thư tịch
đời cổ, đi xem Giao đàn là nơi nhà vua tế Thiên Địa và Tinh tú, rồi đến Xã đàn
là nơi vua tế Thần Nông và Thần Hậu Thổ. Nơi nào có quan hệ đến việc tế lễ thì
ơng đến quan sát và hỏi han cho tường tận.
Khổng Tử ở Lạc Dương khảo sát các việc xong thì trở về nước Lỗ. Từ đó,
sự học của ơng càng rộng hơn nhiều nên học trị xin theo học càng lúc càng
đơng. Nhưng vua Lỗ vẫn chưa dùng ông vào việc nước. Được mấy năm, trong
nước Lỗ, Quý Bình Tử khởi loạn. Ông theo Lỗ Chiêu Công tạm lánh sang nước
Tề. Tề Cảnh Cơng mời ơng tới để hỏi việc chính trị và rất khâm phục, muốn
đem đất Ni Khê phong cho ông, nhưng quan Tướng quốc nước Tề là Yến Anh
ngăn cản không cho. Năm sau, ông trở về nước Lỗ lo việc dạy học, và nghiên
cứu cho tường tận Đạo học của Thánh hiền. Lúc đó ơng được 36 tuổi.
Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp
các nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng và tìm người dùng các tư tưởng
đó. Có nơi ơng được trọng dụng nhưng cũng có nơi ơng bị coi thường. Khổng
Tử cùng các học trị đi qua các nước: Vệ, Khuông, Trần, Tống, Thái, Sở, mong
thuyết phục các vua chư hầu chịu đem Đạo của ông ra ứng dụng để đem lại thái
bình cho dân chúng. Nhưng Đạo của ông là Vương Đạo (đạo trị quốc) nên đi
ngược ý đồ Bá Đạo (đạo chinh phạt) của các vua chư hầu và quyền lợi của các
quan Đại phu nên các vua chư hầu đều không dám dùng ông
Đến năm thứ 9 đời vua Lỗ Định công, ông được 51 tuổi, được vua Lỗ
mời ra làm quan, phong cho chức Trung Đô Tể lo việc cai trị ở Ấp Trung Đô,
tức là đất Kinh thành. Một năm sau, bốn phương lấy chính sự của ơng làm
khn mẫu. Năm Lỗ Định Cơng thứ 10 (500 TCN), ơng phị vua Lỗ đi phó hội
với Tề Cảnh Cơng ở Giáp Cốc. Nhờ tài ngôn luận và ứng đáp kịp thời, vua Tề
2


rất khâm phục và trả lại cho nước Lỗ ba khoảnh đất ở Quy Âm mà Tề đã chiếm

của Lỗ từ mấy năm trước.
Qua năm sau, Đức Khổng Tử giữ chức Tư Khơng, rồi thăng lên Đại Tư
Khấu (Hình Bộ Thượng thư) coi việc hình án. Ơng đặt ra luật lệ để cứu giúp kẻ
nghèo khổ, lập ra phép tắc, định việc tống táng, lớn nhỏ có trật tự, trai gái khơng
lẫn lộn, gian phi trộm cắp khơng cịn nữa, xã hội được an bình thịnh trị. Sau 4
năm, Lỗ Định Công phong ông lên làm Nhiếp Tướng Sự (Tướng Quốc), coi
việc Chính trị trong nước. Ơng cầm quyền được 7 ngày thì tâu với vua Lỗ xin
giết gian thần Thiếu Chính Mão để chỉnh đốn quốc chính. Ơng chỉnh đốn kỷ
cương trong nước, dạy dân những điều lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nên dân khơng cịn
nhiễu loạn mà chính trị mỗi ngày một tốt lên. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên
thịnh trị.
Nước Tề thấy nước Lỗ mạnh lên, có ý lo ngại. Vua Tề theo kế, lập ra Bộ
Nữ Nhạc mà đem dâng vua Lỗ. Khổng Tử biết vua Tề có ý dùng chuyện hưởng
lạc để làm suy bại chính sự nước Lỗ nên khun Lỗ Định cơng đừng nhận,
nhưng Định công không nghe. Quả nhiên vua Lỗ sau khi nhận Bộ Nữ Nhạc sinh
ra lười biếng mà chán ghét Khổng Tử. Lỗ Định công không nghe lời can gián
của Khổng Tử, bỏ bê việc triều chính, có khi luôn 3 ngày không ra coi triều, mọi
việc đều giao cả cho quyền thần. Khổng Tử can gián vua Lỗ nhiều lần nhưng
không được, chán nản xin từ chức, bỏ nước Lỗ đi chu du các nước chư hầu. Đạo
làm quan của ơng thể hiện qua lời ơng nói với Nhan Hồi "Dùng ta thì ta giúp
làm nên sự nghiệp, khơng dùng thì ta ở ẩn. Chỉ có ta và ngươi có thể làm được
điều này mà thơi". Khi đến nước Vệ, vua Vệ Linh Công hỏi Khổng Tử về việc
chiến trận. Khổng Tử thưa rằng "Về lễ nghĩa thì tơi thường được nghe, cịn việc
đánh nhau thì tơi chưa từng được học bao giờ". Ngày hôm sau, Khổng Tử rời
nước Vệ. Khi đến nước Trần, do không được cấp lương thực, học trị theo
Khổng Tử đều bị đói và ốm đau, lê không nổi. Tử Lộ buồn bã đến gặp Khổng
Tử nói "Người quân tử cũng có lúc cùng khốn phải khơng?". Khổng Tử nói
3



"Người quân tử gặp khi cùng khốn thì cố giữ gì chịu đựng, kẻ tiểu nhân gặp khi
cùng khốn thì sẽ sinh ra lạm dụng làm liều". Ông cả đời đi khắp thiên hạ để
truyền bá tư tưởng của mình nhưng giới cầm quyền các nước chư hầu thời bấy
giờ chẳng ai muốn áp dụng đạo trị quốc của ông. Khổng Tử nói với Tử Cống
rằng "Ta khơng ốn trời, không trách người, ta học việc người từ nơi thấp cạn
mà hiểu được lẽ trời là nơi cao siêu. Hiểu ta may ra chỉ có trời!". Đương thời
mọi người đều biết ông là người kiên định với lý tưởng của mình, là người biết
chủ trương của mình khơng thực hiện nổi mà cứ cố làm
Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào
soạn sách. Ông cũng chỉnh lý lại các bản nhạc nước Lỗ khiến cho nhạc nhã và
nhạc tụng mỗi loại có vị trí thích đáng của nó. Có thể nói Khổng Tử là người
thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung
Quốc. Trước thời ơng, trường học hồn tồn là của triều đình và thường chỉ thu
nhận con em của gia đình quý tộc. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu
nhận nhiều đồ đệ bất kể xuất thân sang hèn, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân,
đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với
giáo dục thời cổ đại. Tổng số mơn đệ của Khổng Tử có lúc lên tới 3.000 người
(Tam thiên đồ đệ), trong đó có 72 người được liệt vào hạng tài giỏi, nên gọi là
Thất thập nhị hiền.
Năm 69 tuổi, ơng bắt tay vào việc hiệu đính các cổ thư bị tản nát, nhiều
chỗ không rõ ràng, dễ bị thất truyền hoặc khiến người đời sau nhầm lẫn. Do vậy,
Khổng Tử thực hiện san định lại các kinh sách của Thánh hiền đời trước, lập
thành 6 cuốn sách: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch, Kinh
Xuân Thu. Mỗi cuốn lại nói về một vấn đề khác nhau, từ thi ca, nghi lễ, bói tốn
cho tới sử học. Việc Khổng Tử tự mình biên soạn 6 bộ sách đã thể hiện hiểu biết
sâu rộng và tinh thần làm việc miệt mài của ơng, có thể coi đây là một dạng
Bách khoa toàn thư đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc.
4



Mạnh Tử (chữ Hán: 孟孟; bính âm: Mèng Zǐ; 372–289 trước cơng ngun;
có một số tài liệu khác ghi là: 385–303 hoặc 302 TCN) là nhà triết học Trung
Quốc và là người tiếp nối Khổng Tử.
Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt
Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành phố Trâu
Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm
túc của mẹ là Chương thị (người đàn bà họ Chương). Chương thị sau này được
biết tới với cái tên Mạnh mẫu (mẹ của Mạnh Tử). Mạnh mẫu đã ba lần chuyển
nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học tập, tu
dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Tư, tức là Khổng Cấp,
cháu nội của Khổng Tử. Vì vậy, ơng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng
Khổng Giáo.
Mạnh Tử là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời Chiến Quốc, thời kỳ nở
rộ các nhà tư tưởng lớn với các trường phái như Pháp gia, Du thuyết, Nho gia,
Mặc gia… (thời kỳ bách gia tranh minh). Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Mạnh Tử
phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử với chủ trương dân vi quý, xã tắc thứ
chi, quân vi khinh, ông cũng là người đưa ra thuyết tính thiện của con người
rằng con người sinh ra đã là thiện rồi nhân chi sơ bản tính thiện, tư tưởng này
đối lập với thuyết tính ác của Tuân Tử rằng nhân chi sơ bản tính ác. Ơng cho
rằng “kẻ lao tâm trị người cịn người lao lực thì bị người trị”. Học thuyết của
ơng gói gọi trong các chữ “Nghĩa”, “Trí”, “Lễ”, “Tín”. Ơng đem học thuyết của
mình đi truyền bá đến vua chúa các nước chư hầu như Tề Tuyên Vương (nước
Tề), Đằng Văn Công (nước Đằng), Lương Huệ Vương (nước Nguỵ)… nhưng
không được áp dụng. Về cuối đời ông dạy học và viết sách, sách Mạnh Tử của
ông là một trong những cuốn sách quan trọng của Nho giáo. Ơng được xem là
ơng tổ thứ hai của nho giáo và được hậu thế tôn làm “Á thánh Mạnh Tử” (chỉ
đứng sau Khổng Tử).
5



Mạnh Tử đề xuất tư tưởng người quân tử phải có “Hạo nhiên chính khí”,
cần “Lấy Đức thu phục người khác”, “Người nhân từ khắp thiên hạ khơng có kẻ
thù nào”.
Mạnh Tử cho rằng bản tính của con người lúc ban đầu là Thiện, Đức của
một người là quà tặng của thiên thượng (Trời), và được liên thông với thiên
thượng. Mọi người đều có bản chất tốt và đạo đức, và nếu một người thủ đức và
nỗ lực tu thân, anh ta có thể trở thành người giống như các vị vua Nghiêu, vua
Thuấn. Mạnh Tử chỉ ra rằng để trở thành một con người có lý niệm, người đó
cần phải giữ được 4 tiêu chuẩn, “lòng trắc ẩn, thuộc về lịng nhân từ; sự hổ thẹn,
thuộc về nghĩa khí; tâm khiêm nhường, thuộc về lễ nghi; tâm thị phi, thuộc về
trí tuệ” (trích từ “Cuốn đầu tay của Cơng Tôn Sửu” trong ‘các tác phẩm của
Mạnh Tử’). Bốn đặc tính của con người này cùng các hành vi tương ứng của họ
trở thành nền tảng tạo thành bốn đức tính của lịng nhân từ, nghĩa khí, lễ nghi,
và trí tuệ.
Mạnh tử cả đời vững tin vào chân lý, có trí tuệ dồi dào, giỏi trình bày và
phân tích lý luận triết học. Ơng kiên định khích lệ người ta làm điều thiện, lời
nói nào cũng có tinh thần cổ vũ và dẫn dắt người ta.
- Cho biết ảnh hưởng của hai ơng tới văn hóa xã hội Việt Nam thời
Trung đại.
Việt Nam có vị trí địa lý giáp Trung Quốc. Theo quy luật lan toả của văn
hoá, Việt Nam chịu ảnh hưởng khá mạnh của các nền văn minh trong khu vực;
trong đó có văn minh Trung Quốc. Nho gia hình thành, phát triển mạnh mẽ và
trở thành quốc đạo ở Trung Quốc. Cùng với chủ đích đồng hố Việt Nam của
nhà Hán, văn hố Trung Quốc nói chung, Nho gia được truyền vào Việt Nam
với mục tiêu tạo lập một nền đơ hộ nhằm Hán hố Việt Nam. Nho gia như một
vũ khí nhằm đồng hố dân tộc, biến Việt Nam thành một quân, huyện của Trung
6


Quốc. Mặt khác, theo quy luật của tiếp biến văn hoá, Nho gia được truyền vào

Việt Nam và phát triển nhanh chóng cùng với Đạo gia và Phật giáo, làm thành
hệ tư tưởng của người Việt Nam, "tam giáo đồng nguyên Nho, Phật, Đạo".
Nho gia được truyền bá vào Việt Nam bởi con đường các nhân sĩ, những
người có quan điểm đối lập với quan điểm chính trị của nhà nước Trung Quốc
chạy sang Việt Nam. Ngay từ thời kỳ Bắc thuộc, Nho gia ở Việt Nam có sự phát
triển nhất định trong đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ta, kể cả trong
các tầng lớp trên của xã hội. Nho gia là hệ tư tưởng bảo vệ lợi ích của giai cấp
phong kiến, duy trì sự thống trị của chế độ phong kiến. Nho gia không phải là
nhu cầu cần thiết đối với xã hội Việt Nam.
Do sự truyền bá chủ động và kiên trì của giai cấp phong kiến, trong thời
trung đại, Nho giáo nói chung và tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử đã thẩm
thấu vào một một bộ phận của chủ thể văn hóa Việt Nam là giai cấp quý tộc,
quan lại và tầng lớp nho sĩ, quan viên. Tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử cũng
bén rễ vào một bộ phận văn hóa tinh thần của xã hội, làm hình thành dịng văn
hóa quan phương chính thống bên cạnh các hoạt động văn hóa tinh thần của dân
gian. Bằng cách đó, văn hóa tinh thần của Việt Nam đã bị Hán hóa một phần.
Cũng bằng cách đó, tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử đã được Việt hóa một
phần trong q trình thâm nhập vào văn hóa Việt Nam.
Do tác động từ tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử nên sự phân hóa xã hội ở
Việt Nam thêm sâu sắc, chủ thể văn hóa Việt Nam bị chia đơi; hình thành tầng
lớp nho sĩ, giai cấp quý tộc, quan lại theo hình mẫu Nho giáo, tồn tại bên cạnh
các giai cấp, tầng lớp sẵn có của xã hội Việt Nam xưa (nơng dân, thợ thủ công,
thương nhân). Tầng lớp nho sĩ và quan lại ấy có trách nhiệm kinh bang tế thế, trị
quốc an dân, và tùy theo thời thế mà chọn lựa cách ứng xử, xuất và xử, hành và
tàng. Còn các giai cấp, tầng lớp lao động thì có trách nhiệm bảo đảm nhu cầu
vật chất cho các giai cấp, tầng lớp bên trên và cho bản thân mình.
Lịch sử Việt Nam có rất nhiều nhà nho có phẩm hạnh, khí tiết cao cả, như
Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Võ Trường
7



Toản, Ngơ Tùng Châu, Trịnh Hồi Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tĩnh,
Nguyễn Công Trứ, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Đình Chiểu,
Nguyễn Khuyến, Nguyễn Huy Đức, Nguyễn Thức Tự, Khiếu Năng Tĩnh, Trần
Đình Phong, Lương Văn Can, Phan Bội Châu, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế,
Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp,... Những nhà nho này, dù
lúc bình thời hay khi vận nước gian nan, vẫn tỏ rõ khí tiết và phẩm hạnh, đồng
thời có thái độ và hành động vì nước, vì dân.
Trong các hoạt động văn hóa, tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử tác động
chủ yếu vào các hoạt động văn hóa tinh thần. Trong văn hóa tổ chức cộng đồng,
ở cấp độ gia đình, tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử phối hợp với văn hóa Hán
làm hình thành chế độ gia đình phụ hệ đi đơi với nam quyền cực đoan, tồn tại
song hành với truyền thống trọng nam đi đôi với trọng nữ của văn hóa dân gian.
Trong gia đình, gia tộc, quốc gia, tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử trực tiếp làm
hình thành chế độ tơng pháp, trao quyền thừa kế, thừa tự cho con trai trưởng
chính dịng, song hành với tập quán trao quyền thừa kế, thừa tự cho con trai út
của dân gian. Trên bình diện quốc gia, tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử là cơ sở
làm hình thành tổ chức nhà nước của Đại Việt, bao gồm hệ thống hành chính, tổ
chức quân sự, quan chế, lương bổng... mô phỏng Trung Hoa, tồn tại song hành
với tổ chức cộng đồng cấp làng quê ra đời từ thời Văn Lang - Âu Lạc.
Về tín ngưỡng, nhà nho Việt Nam coi tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử
như là tơn giáo; gạt bỏ, bài xích các tôn giáo khác ngoại trừ những nội dung
được tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử chấp nhận và khuyến khích, như lòng
tin vào thiên mệnh, việc tế lễ, việc thờ cúng tổ tiên... Vì vậy, trong tư tưởng của
Khổng Tử, Mạnh Tử là tôn giáo của đàn ông người Việt, bên cạnh các tôn giáo
dành cho các bà các cô như đạo Phật, đạo Mẫu...
Về phong tục, sự tác động của tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử và văn
hóa Hán đã làm Hán hóa một phần các phong tục vịng đời, đặc biệt là phong
tục hơn nhân, phong tục tang ma. Trong thời trung đại, các phong tục này đều
lấy hình mẫu của Nho giáo và văn hóa Hán làm chuẩn mực. Chính vì vậy mà

8


cho đến ngày nay, vẫn còn nhiều người viết sách mô tả các phong tục và nghi
thức ấy trong văn hóa Việt Nam hiện đại như thể chúng là bản sao của phong
tục Trung Hoa trung đại! Thật ra, bên cạnh các phong tục hôn nhân, phong tục
tang ma theo hình mẫu của Nho giáo và văn hóa Hán trước đây, người Việt ở
các vùng miền khác nhau và các tơn giáo ở Việt Nam đều có cách thức riêng để
thực hiện các phong tục ấy.
Trong giáo dục, tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử là cơ sở hình thành hệ
thống giáo dục chính thống của Việt Nam trung đại ở bốn cấp kinh đô - tỉnh/đạo
- phủ - huyện/châu, và chế độ thi tuyển gồm bốn cấp khảo hạch - thi Hương - thi
Hội - thi Đình, để đào tạo ra quan lại nhà nước, quan viên làng xã. Hệ thống
giáo dục chính thống này tồn tại song hành với mạng lưới giáo dục dân gian
trong gia đình, làng xóm, làng nghề, nhằm giáo dục cách ứng xử với gia đình, cha
mẹ, ơng bà, tổ tiên, họ hàng, làng xóm, thần linh... Trong lịch sử 844 năm khoa
cử Hán học ở Việt Nam (1075 - 1919), tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử đã tạo
ra hàng nghìn ơng Nghè, ông Cử, ông Tú mà trong số đó nhiều người đã nổi lên
thành nhà văn hóa hay nhà khoa học, như nhà sử học Lê Văn Hưu, danh nhân văn
hóa thế giới Nguyễn Trãi, nhà sử học Ngô Sĩ Liên, Trạng Lường Lương Thế
Vinh, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, nhà bác
học Lê Quý Đôn, thi hào Nguyễn Du, nhà bác học Phan Huy Chú…
Về văn học và nghệ thuật, tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử đã góp phần
làm hình thành các thể văn khoa cử (kinh nghĩa, chiếu, biểu, luận, văn sách, thơ,
phú...), các thể loại văn học mô phỏng Trung Hoa (thơ Đường luật, phú, từ,
đối...), các điển tích văn học, các sách giáo khoa truyền thụ Nho giáo, các tác
phẩm văn học và nghệ thuật chịu ảnh hưởng của tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh
Tử. Những sản phẩm ấy làm thành dòng văn học nghệ thuật quan phương chính
thống, tồn tại song hành với dòng văn học dân gian, nghệ thuật dân gian.
Về ngơn ngữ và văn tự, q trình tiếp biến văn hóa Hán nói chung, tư

tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử nói riêng đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn
ngữ và chữ viết ở Việt Nam. Về ngữ âm, tiếng Việt, tiếng Mường đã biến đổi
9


các phụ âm cuối, hình thành thanh điệu và rơi rụng các âm tiết phụ của thời
Môn - Khơme; riêng tiếng Việt hiện đại còn rơi rụng các tổ hợp phụ âm đầu. Về
ngữ pháp, tiếng Việt, tiếng Mường đã rơi rụng các phụ tố tạo từ của thời Môn Khơme; riêng tiếng Việt hiện đại cịn hình thành các phụ tố tạo từ gốc Hán Việt, và mượn nhiều cách diễn đạt của tiếng Hán. Về từ vựng, trong tiếng Việt,
tiếng Mường đều có nhiều yếu tố gốc Hán; riêng tiếng Việt có đến 70% từ gốc
Hán. Hiện nay, tiếng Việt đang sử dụng một bộ phận từ vựng gốc Hán có số
lượng và tần suất sử dụng rất lớn, bao gồm Hán - Việt cổ, Hán - Việt trung đại,
Hán - Việt cận đại (khẩu ngữ của người Hoa Nam bộ), từ ngữ có yếu tố Hán Việt. Trong vốn từ tiếng Việt, đặc biệt là lớp từ vựng văn hóa, số lượng các yếu
tố gốc Hán chiếm một tỷ lệ áp đảo, cả ở ba cấp độ: từ, ngữ, phụ tố. Bộ phận từ
vựng gốc Hán này bao gồm hầu hết các bình diện văn hóa mà cư dân Việt chịu
ảnh hưởng của văn hóa Hán, trong đó ảnh hưởng rõ rệt nhất là các hoạt động
văn hóa tinh thần: cách thức tổ chức xã hội cổ truyền (con người, họ tên, quan
hệ thân tộc, tổ chức hành chính, tổ chức quân sự, bộ máy quan lại...); tín
ngưỡng, phong tục, lễ hội (tín ngưỡng, tơn giáo, giáo dục, khoa cử, phong tục
vòng đời, lễ hội...); văn học, nghệ thuật (thuật ngữ, các thể văn hành chính và
khoa cử, các thể loại văn học bác học, một số loại hình sân khấu...); ngơn ngữ
(đặt địa danh, vay mượn và sao phỏng từ ngữ, cấu tạo từ mới từ các yếu tố gốc
Hán...). Q trình tiếp biến văn hóa tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử trong
ngôn ngữ ấy tồn tại song hành với quá trình bảo tồn ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng
gốc Môn - Khơme, và tiếp biến các ngôn ngữ Tày, Chăm, Hoa, Khơme, Pháp
trong tiếng Việt.
Như vậy, trong chặng đường hơn 2000 năm tiếp xúc tư tưởng của Khổng
Tử, Mạnh Tử đã thật sự tác động mạnh vào xã hội Việt Nam trong hai giai đoạn:
Hậu Lê (1428 - 1527) và Nguyễn sơ (1802 - 1883). Hai đối tượng chịu ảnh
hưởng rõ nhất của tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử là chủ thể văn hóa và văn
hóa tinh thần. Trong chủ thể văn hóa, tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử đã tác

động chủ yếu đến các giai cấp, tầng lớp trên trong xã hội, chứ không ăn sâu bén
10


rễ vào các giai cấp, tầng lớp dưới. Đối với văn hóa tinh thần, tư tưởng của
Khổng Tử, Mạnh Tử đã góp phần làm hình thành dịng văn hóa quan phương
chính thống, chứ khơng thay thế được dịng văn hóa dân gian vốn có một bề dày
lịch sử gắn với ý thức tộc người, làm nên cốt lõi của văn hóa tộc người. Tức là,
tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử đã làm tách đôi kiến trúc thượng tầng của xã
hội Việt Nam, làm hình thành dịng văn hóa quan phương theo tư tưởng của
Khổng Tử, Mạnh Tử, song hành và đối lập với dịng văn hóa dân gian bản địa.
Hai dịng văn hóa này dung hợp lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Văn hóa dân
gian Việt cũng bị tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử hóa một phần, nhiều phong
tục gốc Hán và gốc Việt tồn tại song song. Cho nên, sẽ rất sai lầm nếu quan
niệm hoặc mô tả văn hóa Việt như một bản sao của văn hóa Hán.
- Nêu một số sách vở nghiên cứu về Khổng Tử và Mạnh Tử bằng
tiếng Việt.
1. Đồn Trung Cịn (Dịch giả) (1996), Luận Ngữ, Nxb Thuận Hóa, Huế.
2. Đồn Trung Còn (Dịch giả) (1996), Đại học Trung dung, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
3. Đồn Trung Cịn (Dịch giả) (1996), Mạnh Tử, Tập Hạ, Nxb Thuận Hóa, Huế.
4. Đồn Trung Cịn (Dịch giả) (1996), Mạnh Tử, Tập Thượng, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
5. Phan Đại Doãn (chủ biên) (1994), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
7. Lý Trường Hải (2002), Khổng Tử, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội.
8. Vũ Khiêu (chủ biên) (1991), Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
9. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.
10. Nguyễn Hiến Lê (1996), Khổng Tử, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
11


11. Quang Phong, Lâm Duật Thời (1963), Bàn về Khổng Tử, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
12. Lê Sỹ Thắng (Chủ biên) (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
13. Khương Lâm Tường, Lý Cảnh Minh (1999), Khổng Tử gia giáo, Nxb
Thế giới.
14. Nguyễn Khắc Viện (1993), Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, Hà Nội.
15. Phan Nãi Việt (1988), Khổng Tử với tư tưởng quản lý và kinh doanh
hiện đại. Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội.

12


Bài tập 2: Viết về một chủ đề văn học dân gian các dân tộc thiểu số.
Chủ đề: Củng cố, phát triển văn học dân gian các dân tộc thiểu số
trong giai đoạn hiện nay.
Những thành tựu, giá trị và bản sắc văn hóa độc đáo của hơn 50 dân tộc
anh em khơng chỉ làm cho nền văn hóa Việt Nam đậm sắc màu phong phú mà
cịn góp phần củng cố sự thống nhất ý chí, tinh thần, tình cảm, tạo nên sức mạnh
nội sinh bền vững của khối đại đồn kết tồn dân tộc.
Trong những năm qua, cơng tác củng cố, phát triển văn học dân gian các
dân tộc thiểu số được phát triển, đặc biệt là sự hình thành và hoạt động của các
chi hội cấp tỉnh vùng đồng bào dân tộc và miền núi. Hoạt động của Hội và các
tổ chức cơ sở ở địa phương từng bước được củng cố, đổi mới, góp phần nâng
cao khả năng tập hợp, động viên, phát huy tiềm năng sáng tạo và phát triển đội

ngũ văn nghệ sĩ người dân tộc thiểu số. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong các
dân tộc thiểu số được phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tơn vinh bằng
nhiều hình thức như: Hỗ trợ sáng tạo, trao giải thưởng, cử tham gia các lớp tập
huấn, trại sáng tác đối với lực lượng trẻ, vinh danh những văn nghệ sĩ cao tuổi
có nhiều cống hiến…
Công tác phối hợp sưu tầm, bảo tồn, nghiên cứu, phát huy những giá trị
truyền thống, và sáng tạo những giá trị mới về văn học, nghệ thuật của các dân
tộc anh em được tiến hành có hiệu quả. Mặc dù sống, hoạt động, sáng tạo trong
những địa bàn cịn nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, nhưng với nhiệt huyết,
niềm đam mê và sự gắn bó máu thịt với đồng bào mình, đội ngũ văn nghệ sĩ
người dân tộc thiểu số và những người hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, văn
học, nghệ thuật của các dân tộc ít người vẫn ln giữ vững vai trị xung kích
trên mặt trận tư tưởng văn hóa, văn nghệ của Đảng.
Hướng các hoạt động về địa bàn là các vùng miền núi và đồng bào dân
tộc thiểu số, trong những năm qua, bên cạnh các hội thảo về xây dựng phát
triển đội ngũ, Hội Văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số đã tổ chức nhiều đợt
đi thực tế - sáng tác tại các vùng miền núi và vùng dân tộc thiểu số thuộc các
13


tỉnh Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Tây Nam Bộ… và cho
ra đời những sáng tác có giá trị. Nhiều tài năng mới ở khắp các vùng miền này
đã được phát hiện và bổ sung. Số lượng tác phẩm được công bố, xuất bản, triển
lãm... ngày càng tăng; trong đó, có nhiều tác phẩm được trao tặng giải thưởng
của địa phương, khu vực, của Nhà nước và quốc tế. Nhiều văn nghệ sĩ người
dân tộc được trao tặng danh hiệu cao quý của Đảng và Nhà nước.
Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện có hơn 1.000 hội
viên, 40 tổ chức cơ sở Hội và chi hội của 40 tỉnh thành trong cả nước thuộc
các chuyên ngành: văn học, âm nhạc, múa, mỹ thuật, sân khấu - điện ảnh,
nhiếp ảnh, lý luận phê bình, văn nghệ dân gian. Cán bộ quản lý văn hóa dân

tộc gồm nhiều thành phần dân tộc: Tày, Nùng, Thái, Mơng, Lơ Lơ, Phù Lá, Pa
Dí, Bố Y, La Chí, Ê Đê, Ba Na, Gia Rai, Raglay, Hrê, M’nông, Xtiêng, Xơ
Đăng, Bru - Vân Kiều, Cơ Tu, Cơ Ho, Chơ Ro…
Nhìn chung, đội ngũ văn nghệ sĩ người dân tộc thiểu số xuất hiện khá
đơng đảo, có nhiều tác phẩm hữu ích, thiết thực phục vụ đồng bào. Đề tài
sáng tác được đề cập ở nhiều góc độ, từ truyền thống đấu tranh cách mạng và
kháng chiến đến sự đổi thay của quê hương, đề cao truyền thống văn hóa tốt
đẹp… Đáng chú ý, những năm gần đây, đề tài sáng tác đã được mở rộng hơn,
từng bước bắt nhịp vào đời sống của đồng bào dân tộc, ca ngợi cái mới, cái tốt
đẹp, phê phán cái xấu, cái ác, cái lạc hậu… Có nhiều tác phẩm đi sâu vào khai
thác thân phận con người vùng dân tộc và miền núi. Đặc biệt, ngày càng nhiều
tác giả người dân tộc thiểu số có ý thức quan tâm hơn đến việc sáng tác bằng
tiếng mẹ đẻ và sáng tác song ngữ. Công tác sưu tầm, nghiên cứu văn học dân
gian các dân tộc đã đạt nhiều thành tựu đáng kể. Hàng trăm cơng trình sưu
tầm, nghiên cứu biên dịch các loại hình văn nghệ dân gian cộng đồng Tây
Nguyên, Chăm, Tày, Nùng, Mường, Thái, Mông… của các tác giả dân tộc
thiểu số được biên soạn cơng phu, có giá trị cao, được bạn đọc và công chúng
quan tâm.
14


Từ những tác phẩm, cơng trình văn hóa, văn học nghệ thuật được công
chúng - bạn đọc và nhiều nhà nghiện cứu trong và ngồi nước đón nhận, tiếp
nhận, góp phần chuyển tải thông điệp quan trọng: Những thành tựu, giá trị và
bản sắc văn hóa độc đáo của hơn 50 dân tộc anh em không chỉ làm cho nền văn
hóa Việt Nam đậm sắc màu phong phú mà cịn góp phần củng cố sự thống nhất
ý chí, tinh thần, tình cảm, tạo nên sức mạnh nội sinh bền vững của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, làm sao văn hóa Việt Nam khơng ngừng phát triển thống nhất
trong đa dạng, tỏa sáng trong dịng chảy văn hóa, văn minh nhân loại.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề củng cố, phát triển văn học dân

gian các dân tộc thiểu số còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Đội ngũ văn nghệ
sĩ người dân tộc thiểu số tuy có tăng lên về số lượng nhưng chất lượng chưa đáp
ứng được những nhu cầu, đòi hỏi từ cuộc sống của vùng miền núi và dân tộc.
Qua các đợt trao giải thưởng, những bản thảo tham gia hỗ trợ sáng tạo số lượng
ngày một tăng nhưng những tác phẩm có giá trị nổi bật đáp ứng địi hỏi của thời
đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn cịn thấp. Cịn thiếu những tác phẩm chất
lượng cao, có sức lan tỏa về đề tài đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội ở miền
núi, chưa có những đột phá trong gìn giữ, phát huy tiếng nói, chữ viết dân tộc...
Từ những thành tựu đạt được và những hạn chế, bất cập cần khắc phục,
những nhiệm vụ trước mặt và lâu dài. Để củng cố, phát triển văn học dân gian các
dân tộc thiểu số trong thời gian tới cần tập trung làm tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục củng cố xây dựng lực lượng, tập hợp đoàn kết văn nghệ
sĩ dân tộc thiểu số, nỗ lực sáng tác nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có nội
dung, tư tưởng và nghệ thuật nhuần nhuyễn, lành mạnh ở tầm cao mới, phản
ánh chân thực, sinh động cuộc sống vùng dân tộc miền núi, đáp ứng nhu cầu
thưởng thức văn học nghệ thuật ngày càng cao của đồng bào dân tộc cả nước.
Chú trọng nâng cao nhận thức cho các văn nghệ sĩ trong đấu tranh phản
bác, chống các luận điệu sai trái, xuyên tạc, âm mưu diễn biến hịa bình của các
thế lực thù địch trên lĩnh vực văn học nghệ thuật. Cùng với đó là đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động, phát huy mạnh mẽ vai trò của các chi hội các
15


tỉnh, thành phố và của các chuyên ngành, các lĩnh vực hoạt động, tăng cường sự
phối hợp thường xuyên và có hiệu quả thiết thực với các hội chuyên ngành và
với cơ quan đảng, chính quyền các cấp.
Thứ hai, có chính sách đãi ngộ, tơn vinh tác giả, tác phẩm tiêu biểu, các
văn nghệ sĩ cao tuổi có nhiều đóng góp cho sự nghiệp văn học nghệ thuật các
dân tộc thiểu số; đẩy mạnh phát hiện, chăm lo, bồi dưỡng những nhân tố mới có
năng khiếu sáng tạo văn học nghệ thuật, đặc biệt là các tác giả trẻ là người dân

tộc thiểu số ở các vùng miền trên cả nước. Có kế hoạch mở lớp bồi dưỡng, tạo
nguồn kế cận, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ dân tộc thiểu số ngày càng lớn
mạnh cả về số lượng và chất lượng; tạo cơ hội cho các văn nghệ sĩ trẻ giao lưu,
tiếp xúc với những tác giả có kinh nghiệm, thành tựu trong sáng tác; tổ chức
những chuyến đi thực tế bổ ích, thiết thực, nhằm động viên khích lệ, sáng tạo
những tác phẩm chất lượng, giá trị.
Một trong những nhiệm vụ vừa có tính chiến lược vừa cấp bách của Hội
Văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số là khẩn trương xây dựng kế hoạch đào
tạo, phát hiện, bồi dưỡng đội ngũ sáng tác, biểu diễn, sưu tầm, nghiên cứu, lý
luận, phê bình cả về số lượng và chất lượng, vững vàng, tài năng, am hiểu sâu
sắc văn hóa dân tộc, gắn bó mật thiết với quê hương, nỗ lực sáng tạo nhiều tác
phẩm, cơng trình, sản phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, hấp dẫn
với quần chúng.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động sáng tạo, sưu tầm, nghiên cứu lý
luận phê bình văn học, nghệ thuật theo tinh thần Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ
Chính trị khóa X về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong
thời kỳ mới” và Nghị quyết 33-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa
XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước”. Phấn đấu có thêm những tác phẩm chất lượng,
có giá trị khoa học và thực tiễn, phản ánh chân thực, sinh động, sâu sắc cuộc
sống con người vùng dân tộc thiểu số trong lịch sử và hiện tại, mang đậm bản
sắc văn hóa truyền thống. Động viên, khích lệ các hội viên đẩy mạnh sáng tác,
16


quảng bá các tác phẩm, cơng trình văn học, nghệ thuật về học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Thứ tư, tiếp tục triển khai có chất lượng, hiệu quả giai đoạn I và giai
đoạn II của Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị tác phẩm văn học nghệ thuật
các dân tộc thiểu số Việt Nam” do Chính phủ phê duyệt, giao Hội Văn học,

nghệ thuật các dân tộc thiểu số thực hiện. Xác định việc thực hiện Đề án là
nhiệm vụ quan trọng, cơ bản, căn cốt nhằm tiếp tục bảo tồn, phát huy các giá
trị văn học nghệ thuật các dân tộc, đặc biệt trên các lĩnh vực ngôn ngữ, chữ
viết của những tác phẩm - văn bản cổ đã có từ nhiều trăm năm của nhiều dân
tộc trong cả nước mà hiện nay đang bị mai một đáng báo động.

17



×