Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ĐỀ TÀI : KHỔNG GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI
VIỆT NAM
Phần 1 : Lời giới thiệu đầu .
Một trong những tư tưởng triết học thời cổ đại của Trung Quốc có ảnh
hướng sâu rộng đến đời sống của con người không những ở thời đó mà đền
tận ngày nay chúng ta phải kể đến tư tưởng Nho gia và triết học của Khổng
Tử. Đã có rất nhiều người đi tìm hiểu và nghiên cứu tư tưởng đó, để có thể
thấy được vị trí ảnh hưởng của nó cả về mọi mặt :chính trị-xã hội, đời sống
tinh thần , đạo đức …Do vậy việc nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề này là rất
quan trọng hiện nay.Chính tầm quan trọng của nó nên em đã chọn đề tài : “
Khổng giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội Việt Nam “.
Phần 2 :Nội dung tư tưởng của Khổng giáo :
I,Khổng Tử người sáng lập Đạo Nho (Đạo Khổng):
Khổng Tử ( Còn gọi là Khổng Phu Tử ; 28 tháng 9, 551 – 479 TCN) là
một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Quốc, các bài
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn trên cuộc sống và tư tưởng
Đông Á.
Triết học của ông nhấn mạnh trên cá nhân và cai trị bằng đạo đức, sự
chính xác của những mối quan hệ xã hội, sự công bằng và sự ngay thẳng.
Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở
Trung Quốc như Pháp gia hay Lão giáo ở thời nhà Hán. Các tư tưởng của
Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống triết học được gọi là
Khổng giáo. Khổng giáo được Matteo Ricci đưa vào Châu Âu, ông cũng là
người đầu tiên La tinh hoá tên Khổng Tử thành "Confucius". Tư tưởng của
ông còn được xem là một đạo giáo của loài người, nhất là dân tộc Trung
Quốc.
Các bài giảng của Khổng Tử được nghiên cứu chủ yếu qua cuốn Lụân
Ngữ , một tập hợp những "mẩu chuyện cách ngôn ngắn", được biên soạn
nhiều năm sau khi ông qua đời. Các nhà sử học hiện đại cho rằng bất kỳ một
tài liệu nào cũng không thể được coi là do ông viết ra, nhưng trong gần
2,000 năm ông từng được cho là tác giả của Ngũ Kinh, Lễ Ký, và Biên niên
sử Xuân Thu.
II,Quá trình hình thành và phát triển của Khổng giáo ( Nho giáo nguyên
thuỷ - Nho giáo tiền Tần ):
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định , hiệu đính và giải thích bộ Lục
Kinh gồm có Kinh Thi , Kinh Thư , Kinh Lễ , Kinh Dịch , Kinh Xuân Thu
và Kinh Nhạc . Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh
thường được gọi là Ngũ kinh . Sau khi Khổng Tử mất , học trò của ông tập
hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ . Học trò xuất sắc nhất của Khổng
Tử là Tăng Sâm , còn gọi là Tăng Tử , dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại
học . Sau đó , cháu của Khổng Tử là Khổng Cấp , còn gọi là Tử Tư viết ra
cuốn Trung Dung . Đến thời Chiến Quốc , Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà
học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử .Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình
thành nên Nho giáo nguyên thuỷ , còn gọi là Nho giáo tiền Tần ( trước đời
Tần ),Khổng giáo hay “ tư tưởng Khổng Mạnh “.
III,Sách kinh điển của Khổng giáo :
Các sách kinh điển của Khổng giáo đều hình thành dựa trên học thuyết của
Khổng tử do ông soạn thảo , hiệu đính và do học trò ghi lại những lời dạy
của ông . Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh
điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về
chính trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Khổng giáo .
Ngũ Kinh còn chỉ đến Torah, năm quyển đầu tiên của Kinh Thánh
Hebrew.
Ngũ Kinh là năm quyển kinh điển trong văn học Trung Hoa dùng làm nền
tảng trong Nho giáo. Theo truyền thuyết, năm quyển này đều được Khổng
Tử soạn thảo hay hiệu đính. Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ
Thư. Năm quyển Ngũ Kinh gồm có:
1. Kinh Thi : sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói
nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm
giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn
đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh
Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh
Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách Luận ngữ).
2. Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước
Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo
gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt,
Trụ.
3. Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại
mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử
nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận
Ngữ).
4. Kinh Dịch : nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại
dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn
Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu
Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là
Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải
rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện
và Hào truyện.
5. Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng
Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục
đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng
tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói: "Thiên hạ
biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân
Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất, xuân thu có
nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại
một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy Lục
kinh chỉ còn có ngũ kinh.
Tứ Thư
1. Luận ngữ: ghi lại lời dạy của Khổng Tử do học trò của ông ghi chép lại
sau khi ông mất (Luận ngữ = các lời bình luận).
2. Đại học: dạy phép làm người để trở thành bậc quân tử. Sách này do Tăng
Sâm, còn gọi là Tăng Tử, học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, dựa trên
lời dạy của ông soạn ra (Đại học = sự học lớn).
3. Trung Dung: dạy người ta cách sống dung hòa, không thiên lệch. Sách
này do người cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, học trò của Tăng
Tử, còn gọi là Tử Tư soạn ra (Trung dung = ở giữa, dung hòa).
4. Mạnh Tử: ghi lại lời dạy của Mạnh Tử. Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha,
là người tiêu biểu nhất sau Khổng Tử, thuộc dòng Tử Tư, phát triển tư
tưởng của Khổng Tử ở thời Chiến Quốc (390-305 trước công nguyên).
IV,Quan điểm về thế giới :
1,Về tự nhiên:
Khổng Tử chịu ảnh hưởng quan niệm về vũ trụ của người Trung Hoa
thượng cổ.Cho rằng vạn vật đều có chung nguồn gốc và vận động không
ngừng theo” đạo “của nó
Khổng Tử cũng không phủ nhận sự tồn tại của quỷ thần nên theo ông quỷ
thần là việc cao xa.u uẩn con người cần kính trọng song chẳng cần gần gũi
làm gì
2,Về con người - quan hệ giữa trời và người
Với tư tưởng cơ bản là duy tâm muốn ru ngủ quần chúng bằng niềm tin
vào mệnh trời và số phận. Ông đã thể hiện rõ thái độ của mình trong việc
ủng hộ giai cấp chủ nô
Khổng tử nhấn mạnh hoạt động của con người và coi nó giữ địa vị quan
trọng nhất trong đời sống của con người
V.Quan điểm chính trị xã hội :
1,Thuyết chính danh
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Khổng Tử cho rằng mỗi người,mỗi vật trong xã hội đều có một công
dụng, địa vị,bổn phận nhất định và gọi đó là “danh”.Vật,người nào mang
danh nào phải thực hiện những tiêu chuẩn của danh đó,nếu không sẽ phải
gọi bằng danh khác. Đó là chính danh
Học thuyết này phản ánh tôn ti trật tự,phép tắc của Khổng Tử đó là quan
hệ giữa người với người , được gọi là “Luân”.Nho xác định có 5 mối quan
hệ giữa người với người gọi là “Ngũ luân”bao gồm:Vua-tôi ,Cha – con ,
chồng - vợ , anh – em , bè - bạn .Nhưng ông coi trọng hơn cả là quan hệ vua
– tôi và cha – con
Trong quan hệ vua tôi ông đề cập đến phạm trù “Trung”
Trong quan hệ cha con ông đề cập đến phạm trù “Hiếu”
Nhưng ông không chủ trương ngu “trung” ,ngu “hiếu”.
2.Quan điểm về phương cách trị nước:
Theo Khổng Tử , ổn định xã hội hữu hiệu nhất phải bằng đức hạnh,lễ
nghĩa.Không nên lạm dụng luật pháp để ép dân đi vào tôn ti trật tự .Vì đức
hạnh có khả năng cảm hoá con người và nó làm cho con người biết hổ thẹn
với mình khi có hành vi sai phạm.
Phương thức trị nước của Khổng Tử là dùng “lễ trị “cùng với “đức trị”
VI.Quan điểm về lí luận đạo đức :
Theo Khổng Tử một con người có đạo đức phải bao gồm cả 3 yếu tố :
Nhân , Trí , Dũng .
1.Nhân:
“ Nhân” không chỉ riêng một đức tính nào mà chỉ chung mọi đức tính nên
theo nghĩa rộng nhất “nhân” là đạo làm người .có thể hiểu đó là cách cư xử
với mình và cách cư xử với người
Chữ “ nhân” trong việc hình thành đạo đức con người có:
+ Cách cư xử đối với mình, người có “Nhân” trước hết phải làm
những việc khó sau đó mới hưởng thành quả thì luôn vui vẻ sống trong bất
cứ hoàn cảnh dù vinh hoa phú quý hay đói nghéo túng thiếu. Người có nhân
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cao cả nhất là đức nhân của mình. Đó là người sẽ tự kiềm chế được mình
tuân theo lễ tiết của xã hội trước mọi cán dỗ, luôn luôn vững vàng trầm tư
như núi trước mọi thử thách, luôn rộng lượng, bao dung và biết thi ân bố
đúc. Nhưng đức nhân đó phải được hiểu là có thể vì nhân mà sát thân chứ
không phải vì thân mà hại nhân.
+ Cách xư sự đối với người, Nguyên tắc suốt đời của người có nhân là
“ yêu thương người khác”. Giải thích điều này Khổng tử dạy “ người nhân
muốn tự lập lấy mình thì phải lo lập người, muốn thành đạt cho mình thì
phải lo cho người thành đạt”. Phải lấy cách ứng xử của người nhân với mình
như thế nào dể ứng xử với mọi người. Có một chữ mà trọn đời người nhân
phải theo đó là chữ thứ, có nghĩa là thứ mình không muốn đừng làm cho
người khác. Kẻ có nhân là người tình cảm chân thực hết lòng vì nghĩa, cho
nên có nhân thì bao giờ cũng hiếu đễ, lễ nghĩa trung thư kỷ bất nhân thì dầy
những trí thuật khôn khéo, dối trá gian ác, phản loạn lừa gạt.
Chữ “nhân” trong cung cách trị nước : Khổng tử cho rằng nếu tâm của
con người luôn hướng về nhân thì không bao giờ con người nghĩ đến chuyện
phản loạn do đó miệng không nói bậy và thân không dấn vào việc ác tà. Đối
với dân đức nhân cần thiết hơn tất cả những thứ gì khác. Đối với bậc đế
vương cầm quyền thì chữ đức “nhân” lại càng cực kì quan trọng như một
thành trì để gìn giữ và bảo vệ những gì họ đã dạt được. Khổng tử chia người
có đức nhân thành bậc thánh và bậc nhân. Bậc thánh : Nghiêu, Thuấn … còn
những người như Bá Di, Thúc Tề, Vi Tử Quảng Trọng … vào bậc nhân.
Phạm trù nhân khá phong phú và thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực cuộc
sống. Thông qua việc hướng con người vào đức nhân để tự khẳng định được
mình của các thành viên trong xã hội; giáo dục ý thức cộng đồng trong cuộc
sống và đặc biệt xác định được nguyên tắc hội_đó là các quan hệ trong học
thuyết “ Ngũ luân “. Nhưng nếu đức nhân đòi hỏi con người phải quên mình
để quay về với đạo lý đương thời phải chấp nhận bất kì hoàn cảnh nào chỉ dể
vui với cái cao cả nhất của đức nhân. Thì không dem lại được cuộc sống thái
bình mà trái lại đó là môt sợi xích khoá chặt thần dân dưới ách thống trị của
giai cấp cầm quyền như thời Nghiêu, Thuấn là ví dụ.
2, Phạm trù về “ Trí” .
“Trí” hiểu là biết người, là sự minh mẫn nói chung để phân biệt, đánh giá
con người và tình huống qua đó tự xác định cho mình cách cư xử cho phải
đạo. Phải có trí con người mới vươn lên tới được chữ “ nhân “. “Trí” được
xếp vào một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất của con người hoàn
thiện .Khổng Tử quan niệm trí bao gồm trí thức thượng thặng hay tri thức
6