Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN dựa trên cơ sở lý luận về nguyên tắc dạy học đại học, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động dạy học tại trường đại học văn lang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.51 KB, 23 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: DỰA TRÊN CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC DẠY HỌC
ĐẠI HỌC, PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DẠY
HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG HIỆN NAY

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

– 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1.
Cơ sở lý luận về nguyên tắc dạy học đại học
Cơ sở lý luận về nguyên tắc dạy học
1.1.
1.2.
2.

Hoạt động dạy học ở trường đại học

2
7


Thực trạng hoạt động dạy học tại Trường Đại học Văn

2.1.

Lang
Trường Đại học Văn Lang

2.2.

Những kết quả đạt được

2.3.

Những bất cập, hạn chế

3.

1
2
2

8
8
9
11

Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động dạy học tại
Trường Đại học Văn Lang hiện nay

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

14
20
21


MỞ ĐẦU
Mục tiêu phát triển của Việt Nam đến năm 2045 là, về cơ bản, trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu này, cần huy động
và sử dụng một cách có hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngồi nước. Theo đó,
một trong những yếu tố có ý nghĩa then chốt là chất lượng giáo dục đại học. Bởi
trong bất kỳ điều kiện lịch sử nào, trường đại học luôn là môi trường bồi dưỡng,
sáng tạo và chuyển giao những thành tựu khoa học - công nghệ mới nhất, là đầu
tàu trong việc tạo ra nguồn lao động chất lượng cao phục vụ sự nghiệp phát triển
đất nước.
Trong bối cảnh ngành giáo dục đang tích cực chuẩn bị cho đổi mới
chương trình giáo dục thì việc nắm vững ngun tắc dạy học từ đó nâng cao chất
lượng hoạt động dạy học có ý nghĩa quan trọng. Để khắc phục những yếu kém
đang tồn tại trong hoạt động dạy học tại Trường Đại học Văn Lang và để theo
kịp, hội nhập với xu hướng phát triển chung của thế giới thì hoạt động dạy học
phải khơng ngừng cải cách, đổi mới. Do đó nghiên cứu vấn đề “Dựa trên cơ sở
lý luận về nguyên tắc dạy học đại học, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt
động dạy học tại Trường Đại học Văn Lang hiện nay” làm đề tài tiểu luận có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

1


NỘI DUNG

1. Cơ sở lý luận về nguyên tắc dạy học đại học
1.1. Cơ sở lý luận về nguyên tắc dạy học
Nguyên tắc là hệ thống các quan điểm, tư tưởng xuyên suốt toàn bộ hoặc
một giai đoạn nhất định đòi hỏi các tổ chức và cá nhân phải tuân theo, nói khác
theo cách khác thì Ngun tắc là tư tưởng chỉ đạo quy tắc cơ bản,yêu cầu cơ bản
đối với hoạt động và hành vì rút ra từ tính quy luật được khoa học thiết lập.
Cũng giống như nguyên tắc vậy, nguyên tắc dạy học cũng có nhiều định
nghĩa khác nhau nhưng mang một nội dung chính là muốn cho người học hiểu
được bài. Chúng ta có thể xem qua 2 khái niệm dưới đây:
(1) Nguyên tắc dạy học là một hệ thống nhiều luận điểm, mỗi nguyên tắc
nhấn mạnh một khía cạnh của q trình dạy học, nói cách khác nguyên tắc dạy
học là luận điểm cơ bản cần phải dựa vào khi giảng dạy những vấn đề khoa học
(2) Nguyên tắc dạy học là hệ thống xác định những u cầu cơ bản, có
tính chất xuất phát để chỉ đạo việc xác định nội dung, phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học phù hợp với mục đích giáo dục, với nhiệm vụ dạy học và với
những tính quy luật của q trình dạy học [7, tr.215].
Ngun tắc dạy học là phạm trù lịch sử, lịch sử phát triển nhà trường và lý
luận nhà trường đã chỉ ra rằng mục đích giáo dục biến đổi dưới tác động của
những yêu cầu của sự phát triển xã hội đã dẫn tới sự biến đổi các nguyên tắc dạy
học, với lý luận dạy học phải nhạy bén nắm bắt sự biến đổi những yêu cầu của
xã hội đối với việc giáo dục thế hệ trẻ, phản ứng kịp thời trước những yêu cầu
đó xây dựng hệ thống những nguyên tắc dạy học chỉ ra một cách đúng đắn
phương hướng chung đi đến mục đích và đồng thời cũng cần bảo toàn và hoàn
thiện những phương pháp dạy học trước đây mà chưa mất ý nghĩa trong hoàn
cảnh mới của nhà trường.
Ngun tắc dạy học đóng vai trị quan trọng trong q trình dạy và học vì
nó khơng chỉ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của một trường học, một cơ sở
giáo dục cụ thể nào đó mà thực chất là nó quyết định chất lượng “ sản phẩm”
của nền giáo dục lấy các nguyên tắc dạy học đó làm nền tảng, vì lẽ đó mỗi giáo
2



viên cần hiểu rõ và biết vận dụng hệ thống các nguyên tắc dạy học vi nó hâu như
chi phối tồn bộ nội dung và hình thức dạy học.
Hệ thống các nguyên tắc dạy học:
Một là, Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính
giáo dục trong dạy học.
Nguyên tắc này chính là đảm bảo sự thống nhất giữa hai mặt phẩm chất
và năng lực trong nhân cách học sinh.
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải vũ trang cho người
học những tri thức khoa học chân chính, phản ánh những thành tựu khoa học,
cơng nghệ và văn hố hiện đại, phải dần dần giúp học sinh tiếp cận với những
phương pháp học tập, nhận thức, thói quen suy nghĩ và làm việc một cách khoa
học, dạy học không chỉ làm phát triển lý trí của con người và cung cấp cho
người học một khối lượng kiến thức nào đó mà phải làm cháy lên ở họ lòng khát
khao học tập một cách nghiêm túc và thiếu điều đó thì cuộc sống khơng thể nào
là một cuộc sống xứng đáng và hạnh phúc.
Hai là, Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa “lý luận và thực tiễn”,
“học đi đôi với hành” và “nhà trường gắn liền với đời sống, với nhiệm vụ
phát triển đất nước”.
Ngun tắc này địi hỏi trong q trình dạy học nắm vững tri thức, nắm
vững cơ sở khoa học, kỹ thuật, văn hố thơng qua đó mà giúp họ ý thức rõ tác
dụng của tri thức lý thuyết đối với thực tiễn, hình thành cho họ những kỹ năng
vận dụng chúng ở những mức độ khác nhau mà mức độ cao nhất là góp phần
phát triển kinh tế- xã hội và văn hoá- khoa học của đất nước.
Bản thân nguyên tắc “ Lý luận và thực tiễn” đã phản ánh luôn nội dung
“học đi đôi với hành”, như chúng ta đã biết khi đưa ra lý luận thì cần phải có
những dẫn chứng thực tiễn để có thể phân tích được vấn đề cần phải lý luận đó,
cũng giống như lúc chúng ta muốn bắn cái tên đến cái đích đã định sẵn, có tên
rồi mà lại khơng bắn được, bắn lệch bắn ngang, việc này muốn nhắc nhở chúng

ta cần phải cố gắng học, đồng thời phải thực hành kèm theo.
3


Bác Hồ đã nói, đã học là phải học phải tồn diện, khơng những phải có tri
thức phổ thơng mà cịn phải có đạo đức cách mạng, cịn với hành theo Bác là
vận dụng những điều đã học vào việc giải quyết những vấn đề do thực tiễn đề ra,
việc thực hành này không chỉ là những việc to lớn mà cả trong những việc bình
thường, ai cũng làm, từ đó có thể nhận thấy nội dung khái niệm học và hành nó
liên kết chặt chẽ với nhau, trong nội dung học có nội dung hành và ngược lại.
Ba là, Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính tuần tự trong dạy học.
Nguyên tắc này đòi hỏi phải giúp người học lĩnh hội hay nói cách khác là
nhận thức được trình tự hệ thống logic, phải cho người học biết hệ thống những
kiến thức khoa học hiện đại. Trong lịch sử khoa học, sự nhận thức những vật thể
và hiện tượng phức tạp hơn thường đi trước sự nhận thức những thành phần của
nó, trong q trình dạy học ở trường phổ thông khi muốn giới thiệu về tế bào
của động, thực vật thì cần phải giới thiệu những thực vật, động vật trước hay
việc trình bày các hợp chất trước tiên phải nghiên cứu các phân tử, nguyên tử,…
Chính vì thế hệ thống hợp lý về mặt lý luận dạy học của những giáo trình phải
được xây dựng trên sự nghiên cứu cẩn thận logic của khoa học và sự phát triển
của những khái niệm, định luật trong lịch sử khoa học và trong ý thức của người
học sinh.
Bốn là, Thống nhất vai trò chủ đạo của người dạy và vai trị tích cực, tự
giác, sáng tạo độc lập của học sinh trong dạy học.
Trong dạy học, phải đảm bảo mối quan hệ thuận lợi nhất giữa sự chỉ đạo
sư phạm của thầy giáo và lao động tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh. Tính
tự giác nhận thức thể hiện ở chỗ người học phải tự nhận thức đầy đủ mục đích
của việc học này, nhiệm vụ của mình cần phải làm gì. Tính tích cực nhận thức ở
đây được hiểu là người học có thái độ tích cực trọng việc học, có sự tương tác
cao trong việc dạy và học của hai. Tính sáng tạo độc lập ở đây được hiểu là học

sinh tự độc lập trong việc giải quyết các vấn đề, cần sáng tạo trong lúc cần thiết
điều này cần phải linh động từ ý thức tới hành động .
4


Năm là, Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa cái cụ thể và cái trừu
tượng trong dạy học.
Nguyên tắc này địi hỏi trong q trình dạy học cần cho học sinh tiếp xúc
trực tiếp với những sự vật hiện tượng hay các hình ảnh của chúng từ đó có thể tự
đưa ra các khái niệm, quy luật trừu tượng theo cách suy nghĩ của mình. Và
ngược lại, có thể cho học sinh nắm cái trừu tượng, khái quát rồi xem xét các sự
vật, hiện tượng cụ thể, đảm bảo được mối liên hệ qua lại giữa tư duy cụ thể và tư
duy trừu tượng.
Sáu là, Nguyên tắc đảm bảo tính vững chắc và sự phát triển năng lực
nhận thức của học sinh.
Trong q trình dạy học, địi hỏi học sinh phải nắm vững tri thức, kĩ năng,
kĩ xảo để khi cần, có thể nhớ, vận dụng được một các linh hoạt, sáng tạo trong
các tình huống nhận thức hay hoạt động thực tiễn khác nhau. Bên cạnh đó rèn
luyện ở học sinh phẩm chất tư duy nói chung, phẩm chất mềm dẻo để vận dụng
điều đã học vào tình huống quen thuộc và tình huống mới.
Tâm lý học đã khẳng định việc lĩnh hội nội dung dạy học và phát triển
năng lực nhận thức là hai mặt của một q trình, có liên hệ mật thiết với nhau,
khi lĩnh hội những tri thức khoa học thì trí não đồng thời thực hiện những nhiệm
vụ nhận thức khác nhau, và cùng với điều đó, năng lực nhận thức của học sinh
được phát triển.
Bảy là, Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới đặc điểm lứa tuổi,
đặc điểm cá biệt và tính tập thể của việc dạy học.
Nguyên tắc này địi hỏi trong q trình dạy học, khi lựa chọn nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phải khơng ngừng nâng cao mức độ
khó khăn trong học tập, gây nên sự căng thẳng về trí lực, thể lực một cách cần

thiết, nói cách khác, dạy học vừa sức có nghĩa là trong dạy học phải tạo nên khó
khăn vừa sức, những yêu cầu và nhiệm vụ học tập đề ra phải tương ứng với giới
hạn cao nhất của vùng phát triển trí tuệ gần nhất.
5


Tính vừa sức địi hỏi phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, mỗi độ tuổi gắn
liền với sự trưởng thành của những cơ quan trong cơ thể và những chức năng
của các cơ quan đó, cũng như với sự tích lũy những kinh nghiệm về mặt nhận
thức và về mặt xã hội, với loại hoạt động chủ đạo của lứa tuổi đó, lứa tuổi thay
đổi thì nhu cầu trí tuệ và hứng thú nhận thức của trẻ cũng biến đổi.
Tám là, Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vừa sức chung và
vừa sức riêng trong dạy học.
Đảm bảo nguyên tắc này trong dạy học là phải vận dụng nội dung,
phương pháp, hình thức dạy học nhằm thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của mọi
thành viên trong lớp đồng thời phải quan tâm đến từng cá nhân người học, đảm
bảo cho mọi người đều có thể phát triển ở mức tối đa so với khả năng của mình.
Chín là, Ngun tắc đảm bảo cảm xúc mang tính tích cực của dạy học.
Ngun tắc này địi hỏi trong q trình dạy học phải lơi cuốn hấp dẫn tạo
hứng thú học hỏi cho người học, tác động mạnh mẽ lên cảm xúc của họ, bởi tình
cảm có vai trị quan trọng đối với hoạt động của con người, thôi thúc con người
hành động, thậm chí đến mức xả thân mình cho sự nghiệp
Thực tiễn cũng chứng minh rằng nếu bạn u thích một cơng việc nào đó
thì bạn sẽ dễ dàng hồn thành nó, mặt khác nếu gặp khó khăn trong chính cơng
việc bạn u thích bạn cũng sẽ biết cách giải quyết nó một cách triệt để nhất.
Ngược lại, nếu bạn khơng u thích cơng việc đó thì khơng những khơng động
viên được chính mình mà cịn đè nén nó tạo ra cái cảm giác khó chịu trong lịng
làm cho cơng việc có hiệu quả khơng được cao bởi vậy việc học tập của học sinh
cũng giống như như vậy.
Mười là, Nguyên tắc chuyển quá trình dạy học sang q trình tự học.

Ngun tắc này địi hỏi phải hình thành cho người học có nhu cầu, năng
lực, phẩm chất tự học để có thể chuyển dần q trình dạy học sang quá trình tự
học, nghĩa là người học có thể tự mình tìm ra kiến thức cùng với cách khai thác
bằng hành động của chính mình, tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn, tự tổ
6


chức hoạt động của mình, tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh hoạt động học
của mình.
Mối liên hệ giữa các nguyên tắc dạy học: Các nguyên tắc dạy học có
mối liên hệ mật thiết với nhau, nội dung của từng nguyên tắc đan kết với nhau
hỗ trợ nhau nhằm đảm bảo thực hiện quá trình dạy học đạt được hiệu quả, chẳng
hạn khi thực hiện nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và tính giáo dục trong dạy
học không thể không chú ý tới nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, học đi đôi với hành; nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính tự
giác, tính tích cực, tính độc lập sáng tạo của học sinh và vai trò chủ đạo của giáo
viên trong quá trình dạy học; nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới đặc
điểm lứa tuổi và đặc điểm cá nhân trong điều kiện dạy học tập thể; nguyên tắc
đảm bảo tính cảm xúc tích cực của dạy học; nguyên tắc chuyển từ dạy học sang
tự học.
Nếu xét các nguyên tắc dạy học khác thì cũng như vậy, trong quá trình
dạy học, với nội dung và những điều kiện dạy học nhất định, có thể coi trọng
một ngun tắc dạy học nào đó, điều đó khơng có nghĩa là coi nhẹ những
nguyên tắc khác mà cần phải kết hợp các nguyên tắc thành một thể hoàn chỉnh
thì mới đạt được hiệu quả cao trong quá trình dạy học.
1.2. Hoạt động dạy học ở trường đại học
Chất lượng giáo dục đại học đang là vấn đề quan tâm không chỉ của các
cơ sở giáo dục đại học mà còn là vấn đề của nền giáo dục đào tạo nước ta. Nghị
quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục Đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định rõ: “đầu

tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển…phát triển Giáo dục - Đào tạo là
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Việc đổi mới để nâng cao
chất lượng giáo dục Đại học đáp ứng nhu cầu xã hội đòi hỏi các cơ sở giáo dục
đào tạo phải có sự thay đổi đồng bộ về cơ chế quản lý, chính sách - mục tiêu

7


chất lượng phù hợp, chất lượng đội ngũ giảng viên, các nguồn lực, phương pháp
dạy và học, phương pháp kiểm tra đánh giá…” [3, tr.8].
Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học là vấn đề mà các cơ sở giáo dục đại
học phải thực hiện và đẩy mạnh hoạt động này hơn bao giờ hết vì nó khơng
những là u cầu mà còn là điều kiện để các trường đại học mở rộng quan hệ
hợp tác, liên kết với các trường trong khu vực và trên thế giới nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo và vị thế của mình hơn nữa. Đặc biệt trong điều kiện tác
động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư thì địi hỏi các
trường đại học phải không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
có kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng với khoa học kỹ thuật cao, kỹ năng giao tiếp,
thái độ làm việc của một “cơng dân tồn cầu”.
Trước những yêu cầu đổi mới toàn diện giáo dục đại học Việt Nam, Các
trường đại học đã bám sát nguyên tắc dạy học, chủ động đổi mới phương pháp
dạy học, dạy học lấy sinh viên làm trọng tâm để phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của sinh viên theo chương trình đào tạo tín chỉ, đây là một trong
những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo đục, đào tạo.
Nắm vững nguyên tắc dạy học ở trường đại học vừa là một yêu cầu
khách quan của thực tế vừa là động lực phát triển của các trường đại học, đòi hỏi
mỗi giảng viên nhận thức sâu sắc được vai trị và trách nhiệm của mình tích cực
tham gia vào quá trình đổi mới ở đại học, đòi hỏi sinh viên cũng phải thay đổi
vai trò, cách học cho phù hợp. Nó cũng đặt ra cho những nhà quản lý giáo dục,
quản lý nhà trường những yêu cầu mới trong việc trang bị cơ sở vật chất đáp

ứng yêu cầu dạy học, đánh giá xếp loại sinh viên, trình độ giảng viên, năng lực
sư phạm của giảng viên…
2. Thực trạng hoạt động dạy học tại Trường Đại học Văn Lang
2.1. Trường Đại học Văn Lang
Đại học Văn Lang (Van Lang University) được thành lập theo quyết định
số 71/TTg năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ. Năm 2015, trường được cho
phép chuyển đổi loại hình đại học từ dân lập sang hệ bán công. Đây là trường
đại học đa ngành, đào tạo theo định hướng ứng dụng. Trường Đại học Văn Lang
8


có 16 khoa và đào tạo 07 ngành bậc sau đại học, 45 ngành bậc đại học, tổ chức
thành 5 nhóm ngành. Cho đến tháng 7/2018, Trường đã đào tạo và cấp bằng tốt
nghiệp cho 39.273 cử nhân, kỹ sư, kiến trúc sư và 77 thạc sĩ.
Về cơ bản, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo Trường Đại học Văn
Lang đã đạt chuẩn và trên chuẩn trình độ đào tạo, cụ thể là đạt 99,7%; có trên
70% giáo viên có trình độ sau đại học, số lượng giáo viên có học vị tiến sĩ và
phó giáo sư ngày một tăng. Đây là kết quả đáng khích lệ mà Trường Đại học
Văn Lang đã đạt được. Hầu hết cán bộ quản lý, giáo viên có lịng u nghề, có
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm cao trong cơng
việc, có ý chí vươn lên, tích cực học tập, rèn luyện và bồi dưỡng nâng cao trình
độ chun mơn, nghiệp vụ. Năng lực sư phạm của phần lớn nhà giáo được nâng
lên, đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục. Đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục tham mưu tích cực và hiệu quả cho cấp ủy đảng và chính quyền
các cấp trong việc xây dựng các chính sách cán bộ, giáo viên, sinh viên phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội của bộ, ngành, địa phương và của nhà trường. Đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã tăng mạnh về số lượng, chất lượng và
ngày càng đồng bộ về cơ cấu, từng bước đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo
dục của nhà trường.
2.2. Những kết quả đạt được

Về chương trình đào tạo và xây dựng chương trình đào tạo. Để khơng
ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, nhà trường đã tổ chức nghiên cứu tiến hành
cải tiến nội dung chương trình đào tạo. Quy trình làm chương trình đào tạo phải
căn cứ vào chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo (phần cứng), trên cơ
sở phần cứng bắt buộc, Hội đồng khoa học ngành (bao gồm Ban Giám hiệu,
phòng Đào tạo, đại diện các bộ phận liên quan, các chuyên gia về ngành đào tạo)
sẽ nghiên cứu bổ sung các môn học khác (phần mềm) cho phù hợp với yêu cầu
thực tế.
Quá trình xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo ở trường Đại học
Văn Lang đã tạo ra được động cơ và hứng thú học tập cho sinh viên. Đồng thời,
9


kích thích, động viên sinh viên chủ động và tham gia tích cực vào mọi hoạt động
của q trình đào tạo đặc biệt là quá trình học tập.
Việc xây dựng chương trình đào tạo được thực hiện đúng qui trình, vừa
đảm bảo tính khoa học và phù hợp với đối tượng đào tạo của trường Đại học
Văn Lang. Chương trình đào tạo được ban hành và tổ chức thực hiện một cách
thống nhất. Hàng năm có khảo sát, đánh giá, điều chỉnh, cải tiến. Đây là cơ sở
pháp lý để xây dựng và quản lý kế hoạch đào tạo toàn khóa và kế hoạch giảng
dạy năm học.
Nhà trường đã từng bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đào
tạo. Đã cải tạo cơ bản về hạ tầng cơ sở, đầu tư nâng cấp và xây dựng mới ký túc
xá, phòng học, thư viện, nhà ăn, đường nội bộ, cấp thoát nước… tạo điều kiện
cho cán bộ, giảng viên, sinh viên nhà trường công tác và học tập ngày càng hiệu
quả hơn. Nhà trường luôn quan tâm tập trung mọi nguồn lực có thể đầu tư cho
việc mua sắm trang thiết bị đồ dùng dạy - học. Nhiều trang thiết bị mới, hiện đại
đã được đầu tư mua sắm cho các phòng học thực hành, phòng lý thuyết…
Chất lượng đội ngũ giảng viên luôn được Nhà trường quan tâm, coi đây là
yếu tố cực kỳ quan trọng đảm bảo chất lượng đào tạo. Học tập nâng cao trình độ

lý luận chính trị, trình độ chun mơn và năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng
viên được Nhà trường và mọi giảng viên xác định là nhiệm vụ thường xuyên và
là nghĩa vụ của mỗi giảng viên. Do vậy, hàng năm Nhà trường đã làm tốt công
tác qui hoạch giảng viên. Gửi 30% số cán bộ giảng viên theo học các lớp đào
tạo, tập huấn chính trị, chun mơn, chun ngành nhằm khơng ngừng trang bị,
nâng cao trình độ, cập nhật thông tin, kiến thức, phương pháp giảng dạy mới,
tích cực [4, tr.90].
Giảng viên của trường thật sự yêu nghề, tận tâm với nghề nghiệp, có trách
nhiệm và nhiệt tình giảng dạy, sẵn sàng hướng dẫn và giúp đỡ sinh viên khi sinh
viên yêu cầu. Đa số các giảng viên trong trường đều có trình độ trên đại học, có
trình độ lý thuyết, trình độ thực hành cũng như kinh nghiệm thực tế về môn dạy
cao và được sinh viên cũng như đồng nghiệp và cán bộ quản lý nhà trường thừa
nhận. Nội dung giảng dạy của giảng viên ln bám sát chương trình mơn học và
10


kế hoạch giảng dạy điều chỉnh và cập nhật nội dung kiến thức mới cho phù hợp
thực tế và đáp ứng mục tiêu đào tạo của bài học, môn học, ngành học. Thực hiện
tích cực các hoạt động tự bồi dưỡng dưới nhiều hình thức như sinh hoạt tổ
chun mơn, tự nghiên cứu tài liêu liên quan đến môn giảng, tự học tập để nâng
cao trình độ.
Phong trào đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hố q trình học
tập của sinh viên được nhiều giảng viên hăng hái tham gian. Nhà trường khuyến
khích, động viên giảng viên tham gia viết sáng kiến kinh nghiệm, nghiên cứu
các đề tài khoa học, viết sách, giáo trình các mơn học. Phong trào thi đua “Dạy
tốt - học tốt - phục vụ tốt” được phát huy và có hiệu quả, nhiều mơn học sử dụng
đồ dùng dạy - học hiện đại nên hiệu quả giờ giảng ngày càng cao. Thông qua sổ
lên lớp và các kế hoạch đào tạo, kế hoạch giảng dạy năm học và lịch giảng dạy học tập để theo dõi được tiến độ bài giảng của giảng viên.
2.3. Những bất cập, hạn chế
Trong nhiều thập kỷ qua, hệ thống giáo dục nước ta đang chứa đựng nhiều

yếu tố bất cập, chất lượng giáo dục đại học còn thấp, chưa đáp ứng được kỳ
vọng “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Vẫn biết “nhân tài là nguyên khí quốc
gia”, nhưng những điều kiện vật chất nghèo nàn, cơ chế quản lý lạc hậu, đội ngũ
giảng viên vừa thiếu, vừa yếu,… không tương ứng với tốc độ phát triển của quy
mơ đào tạo chính là những ngun nhân căn bản dẫn tới sự yếu kém của giáo
dục đại học [5, tr.29].
Qua thực tiễn hoạt động dạy học ở Trường Đại học Văn Lang nói riêng và
hoạt động dạy học đại học ở Việt Nam nói chung vẫn cịn nhiều bất cập, thể hiện
trên một số nội dung sau:
Nội dung kiến thức đào tạo còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa
tạo được sự thống nhất gắn mục tiêu giáo dục với mục tiêu tìm kiếm việc làm
đối với người học.
Chưa tạo được sự liên thông giữa các chuẩn mực giáo dục đại học trong
nước và quốc tế. Mặc dù được đặt dưới sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, nhưng trên thực tế, khả năng liên thông kiến thức giữa các
11


cơ sở giáo dục đại học ở nước ta hiện nay cịn rất hạn chế, ít thừa nhận và tiếp
nhận các kết quả đào tạo của nhau, nên người học rất khó khăn khi chuyển
trường, ngành học. Việc liên thơng kiến thức giữa các cơ sở giáo dục đại học
trong nước và ngồi nước lại càng khó khăn hơn do có sự khác biệt về mục tiêu,
nội dung và phương pháp đào tạo giữa các cơ sở giáo dục đại học trong nước và
quốc tế (trừ các chương trình liên kết đào tạo theo thỏa thuận). Điều này không
những gây khó khăn cho người học khi muốn chuyển đến cơ sở giáo dục ngồi
nước, mà ngay cả việc cơng nhận văn bằng, chứng chỉ của các cơ sở giáo dục
trong nước tại các nước mà người học chuyển đến định cư hoặc cơng tác cũng
khơng phải dễ dàng.
Chương trình học còn nặng với thời lượng lớn. Một thống kê và so sánh
cho thấy, thời gian học 4 năm ở một lớp đại học tại Việt Nam là 2.138 giờ so với

Mỹ là 1.380 giờ. Như vậy chương trình học ở Việt Nam dài hơn 60% so với Mỹ.
Thời gian học nhiều như vậy nên người học khó tránh khỏi việc rơi vào trạng
thái ln bị áp lực hồn thành các chương trình mơn học, ít có thời gian để tự
học, tự nghiên cứu, hoặc tham gia các hoạt động xã hội khác. Nhìn chung, trong
bối cảnh hội nhập quốc tế, chương trình giáo dục đại học tại Việt Nam hiện nay
tỏ ra bất cập và kém hiệu quả. Đây cũng được coi là nguyên nhân cơ bản khiến
nền giáo dục đại học ở Việt Nam đang có xu hướng tụt hậu.
Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đại học, các trường đại học
ở nước ta hiện nay nhìn chung chưa tiếp cận với các phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học đại học phổ biến của thế giới. Nhằm mục tiêu “nhấn mạnh đến
kỹ năng xử lý vấn đề đặt ra trong cuộc sống hơn là tập trung vào việc làm đầy
kiến thức đã có sẵn”, việc áp dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học của các trường đại học trên thế giới thường rất linh hoạt, dựa trên tinh thần
đề cao vai trò của người học, tạo điều kiện tối đa cho người học có thể tự học, tự
nghiên cứu.
Chất lượng giáo dục đại học còn nhiều bất cập. Theo đánh giá của nhiều
chuyên gia trong và ngoài nước, các trường đại học Việt Nam chưa đào tạo được
lực lượng lao động có trình độ chun mơn cao tương ứng với nhịp độ tăng
12


trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế. Nhiều cuộc điều tra, thăm dị gần đây cho
thấy, có khoảng 50% sinh viên tốt nghiệp đại học ở Việt Nam không tìm được
việc làm đúng chun mơn, bằng chứng đó phản ánh sự thiếu liên kết nghiêm
trọng giữa đào tạo và nhu cầu của thị trường.
Chưa gắn nghiên cứu khoa học của các trường đại học với hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng của mối
quan hệ này, Đảng và Nhà nước ta đã nêu lên chủ trương, “các trường đại học
vừa là cơ sở đào tạo vừa là cơ sở nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ”
nhưng cho đến nay, dường như quan điểm đó vẫn chỉ được xem là chủ trương

chung,chưa được cụ thể hóa thành những chính sách cụ thể, trách nhiệm và
quyền lợi giữa các cơ sở đào tạo và đơn vị sử dụng lao động, giữa trường đại
học và doanh nghiệp.
Đối với Trường Đại học Văn Lang, thực trạng chỉ ra:
Về quản lý chương trình đào tạo: Việc xây dựng đề cương các học phần
cịn chậm, có mơn học chưa có đề cương thống nhất, giảng viên lên lớp có
trường hợp cịn tùy tiện cắt xén nội dung.
Về kế hoạch đào tạo: Do chương trình đào tạo thay đổi thường xuyên nên
việc xây dựng kế hoạch đào tạo tồn khóa, kế hoạch giảng dạy năm học và lịch
giảng dạy học tập (thời khóa biểu) có khi bị chậm chễ, chưa đảm bảo đúng kế
hoạch đã đặt ra. Sự phối hợp giữa Khoa, Bộ mơn và phịng Đào tạo có lúc chưa
kịp thời.
Mặc dù cơ sở vật chất được đầu tư khá nhiều nhưng vẫn còn thiếu các
phương tiện, thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập tích cực so với nhu cầu dạy
học. Trang thiết bị cho phịng thí nghiệm đối với ngành Bảo hộ lao động còn
thiếu, chỗ ở cho sinh viên còn chưa đáp ứng hết nhu cầu, tài liệu học tập còn
thiếu so với qui mô đào tạo của Nhà trường.
Số giảng viên có học hàm, học vị cao, đúng chun ngành cịn ít. Một số
giảng viên còn ít thời gian đi nghiên cứu thực tế cơ sở. Nhiều giảng viên trình độ
ngoại ngữ cịn yếu nên gặp khó khăn trong việc nghiên cứu tài liệu, học tập, cơng
tác ở nước ngồi và giao tiếp quốc tế. Thiếu đội ngũ giảng viên có trình độ
13


chun mơn sâu. Quy mơ Nhà trường có tăng nhưng biên chế lại khơng tăng dẫn
tới tình trạng nhiều giảng viên quá tải về giờ giảng.
Một số giảng viên chưa thực hiện nghiêm chỉnh việc xây dựng đề cương
bài giảng hoặc có xây dựng đề cương nhưng khơng tn thủ theo nội dung, biểu
mẫu quy định chung. Tình trạng nộp đề cương muộn, đề cương không tuân thủ
biểu mẫu quy định, nội dung giữa các học phần bài giảng chồng chéo, thiếu tính

khoa học, vẫn cịn nhiều đề cương khơng thông qua Hội đồng khoa học Khoa,
Bộ môn, điều này đã gây khơng ít khó khăn, đặc biệt là khó thống nhất chương
trình và nội dung giảng dạy khi mời giảng viên ngoài, cũng như khi ra đề thi,
đánh giá kết quả học tập của sinh viên.
Các cấp quản lý trường học chưa giải quyết có hiệu quả hiện tượng thiếu
đội ngũ giảng viên có trình độ chun mơn sâu, họ ít có điều kiện tham gia thực
tế và cập nhật tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.
Việc áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực chưa được chỉ đạo
thường xuyên và nhân rộng khắp trong tồn trường. Hệ thống thơng tin quản lý
đào tạo trong Nhà trường còn manh mún, rời rạc.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động dạy học tại Trường Đại
học Văn Lang hiện nay
Từ thực trạng hoạt động dạy học đại trên đặt ra yêu cầu cần có những giải
pháp nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế. Để đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục hiện nay, cần phải thực hiện tốt một giải pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng một chiến lược và triết lý giáo dục riêng. Hiện nay,
trên thế giới có ba mơ hình giáo dục đại học lớn cần phải tham khảo trong quá
trình xây dựng chiến lược giáo dục đại học ở Việt Nam: một là, mơ hình kiểu
Đức là nơi tạo dựng và phổ biến tri thức; hai là, mơ hình kiểu Pháp là nơi đào
tạo người lao động có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của phát triển và sử dụng
nguồn nhân lực; ba là, mơ hình kiểu Mỹ là tôi luyện bản lĩnh sống cho tầng lớp
trẻ, tôn trọng sự phát triển nhân cách cá nhân, trung thực, khơng ngừng đổi
mới. Theo chúng tơi, mỗi một mơ hình trên đều có những mặt tích cực có thể áp
dụng, nhưng hồn tồn khơng thể rập khn máy móc khi tạo dựng triết lý cho
14


giáo dục đại học hiện nay. Nên chăng, nền giáo dục đại học ở Việt Nam cần
hướng tới việc phổ biến, ứng dụng và hiện thực hóa các tri thức khoa học, rút
ngắn khoảng cách “độ chênh về chất lượng”.

Thứ hai, cơ cấu lại ngành học cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn phát
triển của đất nước. Hiện nay, cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng
miền đang có sự mất cân đối. Việc tăng quy mô đào tạo hiện vẫn chủ yếu diễn ra
ở bậc đại học; số học sinh, sinh viên theo học các ngành kỹ thuật, công nghệ ở
bậc cao đẳng và trung học chuyên nghiệp còn thấp và tăng chậm. Dường như
trong những năm qua chúng ta chỉ chú trọng vào những ngành học có vốn đầu tư
ít, thu lợi nhuận cao, chẳng hạn Luật, Kinh tế, Ngoại ngữ, Công nghệ thơng
tin…, mà chưa thực sự đầu tư thích đáng vào nhóm các ngành khoa học cơ bản,
kỹ thuật cơng nghệ cao. Để hướng tới một nền giáo dục bền vững, chúng ta phải
có một chiến lược dài hạn, đầu tư có trọng điểm vào những ngành khoa học,
cơng nghệ mũi nhọn, đồng thời phải biết lựa chọn và thu hút được những sinh
viên ưu tú, áp dụng những chương trình tiên tiến của thế giới vào giảng dạy để
đạt hiệu quả cao. Chỉ có như vậy, chúng ta mới thực sự “đi tắt, đón đầu” và theo
kịp được với sự phát triển của khoa học - công nghệ tiên tiến hiện nay [6,
tr.162].
Thứ ba, cải cách hành chính và trao quyền tự chủ cho các trường đại
học. Đổi mới tư duy giáo dục đại học trong quản lý nhà nước để tiến đến trao
quyền tự chủ, gắn với tự chịu trách nhiệm cao của các trường đại học chính là
động lực của phát triển. Đó là yêu cầu tất yếu từ chính các trường đại học trong
cả nước hiện nay, như quyền tự chủ tài chính, nhân sự, cơng tác tuyển sinh và
nhất là xây dựng chương trình. Bởi, với chủ trương “đào tạo theo nhu cầu” thì
việc xây dựng chương trình phải xuất phát từ nhu cầu của xã hội. Chỉ có như
vậy, các trường đại học mới có thể tự quyết định trong đầu tư cơ sở vật chất và
chun mơn hố sâu về lĩnh vực đào tạo của mình. Chế độ tuyển dụng, đãi ngộ,
đề bạt của các cơ sở đào tạo đại học phải dựa trên năng lực và hiệu quả công
việc của từng cá nhân. Chất lượng đào tạo của các trường đại học là một tiêu chí
đáng tin cậy cho mức độ phát triển của nền kinh tế. Hiện nay, các trường đại học
15



của Việt Nam chưa đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao
và chưa có một trường đại học nào được các tổ chức kiểm định quốc tế thừa
nhận. Nếu như khơng có các biện pháp cấp thiết để cải cách giáo dục đại học thì
nước ta khó có thể đạt được các mục tiêu đã đề ra cho sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước.
Thứ tư, chuẩn hóa chương trình và giáo trình là xương sống của giáo dục
đại học tại tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt giàu, nghèo và phát
triển hay đang phát triển. Điểm mấu chốt ở đây là, chương trình và giáo trình
phải được xây dựng theo định hướng mà ngành giáo dục đại học nước ta hướng
tới. Đó là đào tạo để phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó
khơng có nghĩa là chúng ta chỉ dạy cái gì mà sản xuất và dịch vụ cần; ngược lại,
phải xây dựng chương trình với một tỷ lệ thích hợp giữa kiến thức cơ bản, kiến
thức chuyên sâu gắn liền với nhu cầu của các ngành kinh tế và kiến thức hiện
đại, nhằm tạo cho sinh viên, sau khi ra trường, không những chỉ có khả năng
tiếp thu tốt sự chuyển giao cơng nghệ, mà cịn có thể cải tiến cơng nghệ và tiến
tới sáng tạo công nghệ mới. Đây cũng là nét chủ đạo của giáo dục đại học Mỹ.
Trên 80% số sinh viên tốt nghiệp các trường đại học Hoa Kỳ có đủ kiến thức và
kỹ năng làm việc trong các ngành công nghiệp hiện đại cũng như các lĩnh vực
sản xuất, dịch vụ tiên tiến khác. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần định sớm một lịch
trình cho các trường đại học và cao đẳng xây dựng chương trình tổng thể của
từng trường, từng ngành và từng môn học cùng với lịch trình tiếp theo là biên
soạn (hoặc biên dịch) và xuất bản sách giáo khoa cho những môn học chủ yếu.
Đó là việc cần làm ngay và tiếp tục huy động tổng lực các nhà khoa học, công
nghệ trong cả nước tham gia.
Thư năm, chuẩn hóa đội ngũ thày và trị đóng vai trị quyết định đến sự
thành, bại của sự nghiệp giáo dục. Thày giáo là “kỹ sư tâm hồn”, thày giáo
không những chỉ truyền thụ kiến thức cho sinh viên, mà điều quan trọng hơn là
giúp các em hình thành phương pháp tư duy khoa học, nhân cách và tâm huyết
với nghề nghiệp. Trong thời đại mà nhiều nước công nghiệp tiên tiến đang
chuyển dần sang kinh tế trí thức thì việc chuẩn hóa đội ngũ thày dạy đại học

16


theo các tiêu chí: kiến thức, phương pháp giảng dạy, đạo đức - tư cách và khả
năng nghiên cứu, là hòn đá tảng trong cải cách giáo dục đại học.
Thày giáo phải nắm vững kiến thức cơ bản, chuyên sâu và hiện đại trong
lĩnh vực giảng dạy và nghiên cứu của mình; có khả năng truyền thụ kiến thức
trên cơ sở bồi dưỡng được năng lực độc lập suy nghĩ của sinh viên; biết dẫn dắt
sinh viên đi vào con đường nghiên cứu để tìm tịi cái mới và chủ động sáng tạo.
Việc chuẩn hóa đội ngũ thày giáo đi kèm với việc chuẩn hóa tỷ lệ giữa số sinh
viên và số thày dạy, với việc xây dựng các bộ mơn mạnh. Chuẩn hóa đội ngũ
thày giáo là mối quan tâm hàng đầu tại nhiều trường đại học lớn trên thế giới.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cần sớm có lịch trình triển khai việc chuẩn hóa
đội ngũ thày giáo tại tất cả các trường đại học và cao đẳng; đồng thời, kiến nghị
với Chính phủ về một chế độ lương thích hợp để người thày giáo chỉ chuyên tâm
làm tốt nhiệm vụ “kỹ sư tâm hồn” của mình. Việc làm này tuy rất khó, nhưng
trước sau cũng phải làm nếu chúng ta không muốn tụt hậu ngày càng xa.
Nếu thiếu thày giáo đủ tiêu chuẩn, chúng ta cần huy động các thày giáo
làm việc tại nhiều viện nghiên cứu trong nước và mạnh dạn mời thày giáo ở
nước ngoài, bao gồm cả Việt kiều, đến dạy tại các trường đại học Việt Nam.
Song song với cải cách giáo dục bậc phổ thơng việc chuẩn hóa đầu vào
các trường đại học là hết sức quan trọng. Chỉ tuyển vào đại học những học sinh
vừa nắm chắc kiến thức bậc phổ thơng vừa có khả năng tư duy độc lập. Cần duy
trì quan điểm này một cách nhất quán trong tất cả các kỳ tuyển sinh đại học:
tuyển không đủ số lượng thì thơi, nhất thiết khơng hạ chất lượng. Được trang bị
đầy đủ về khoa học, công nghệ, tiếng Anh và tin học, nếu có khả năng tư duy
độc lập sinh viên có thể tự “chắp cánh” cho mình bay vào bầu trời bao la của
khoa học, công nghệ hiện đại thông qua mạng in-tơ-nét [2, tr.84].
Thứ sáu, nghiên cứu khoa học, công nghệ là yêu cầu bắt buộc đối với tất
cả các thày giáo dạy đại học cũng như đối với sinh viên khi làm luận văn tốt

nghiệp. Vì chỉ có nghiên cứu mới nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với
sản xuất và phát triển công nghệ. Nhà nước sớm ban hành những văn bản pháp
quy và tạo lập một thị trường khoa học - công nghệ để từ đó hình thành các tổ
17


hợp đào tạo - nghiên cứu - sản xuất, dịch vụ. Nước Mỹ đã đi đầu trong lĩnh vực
này với Thung lũng Si-li-côn nổi tiếng. Học tập kinh nghiệm này, các nước châu
Âu đã tạo lập Thung lũng Si-li-côn châu Âu, lấy Cam-brít làm trung tâm. Tại Ấn
Độ, Bin Ghết đã gọi bảy viện công nghệ Ấn Độ là tinh hoa của nền khoa học công nghệ, từ đây đã tạo nên nền công nghiệp high-tech (kỹ thuật cao) của Ấn Độ.
Nhật Bản đang đẩy mạnh việc liên kết giữa trường đại học với doanh nghiệp để
tăng cường số lượng và chất lượng các cơng trình nghiên cứu ở khu vực đại học.
Tăng cường các hoạt động nghiên cứu và cơng bố quốc tế, tiến tới quốc tế
hóa các tiêu chuẩn đánh giá khoa học và các hoạt động về chuyên môn tại các cơ
sở giáo dục đại học. Trước mắt, Nhà nước và các cơ sở giáo dục đại học cần có
các cơ chế chính sách động viên, khuyến khích các nhà khoa học nghiên cứu và
tích cực cơng bố kết quả nghiên cứu trên các ấn phẩm khoa học quốc tế. Về lâu
dài, cần đặt ra lộ trình (đối với mỗi cơ sở giáo dục đại học khác nhau cần có
những lộ trình khác nhau) tiến tới quốc tế hóa các tiêu chuẩn đánh giá các hoạt
động khoa học và các hoạt động về chuyên môn trong tất cả các cơ sở giáo dục
đại học, đồng thời cần coi đây là giải pháp quan trọng để đưa giáo dục đại học
Việt Nam hội nhập sâu hơn vào môi trường quốc tế.
Thứ bảy, đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình và phương pháp dạy
học theo hướng hội nhập quốc tế. Nội dung chương trình và giáo trình cần được
tổ chức xây dựng và triển khai theo hướng mở (cho phép cập nhật thường xuyên
về kiến thức trong và ngồi nước, sử dụng giáo trình, học liệu trong nước hoặc
ngoài nước một cách linh hoạt để giảng dạy cho người học), nội dung giảng dạy
phải gắn chặt và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành nghề mà người học
đang theo đuổi. Về phương pháp, cho phép sử dụng đa dạng các phương pháp
dạy học theo nguyên tắc “lấy người học là trung tâm”, giảm tải tối đa giờ giảng

trên lớp để người học có thời gian tự học và tự nghiên cứu. Tất nhiên, các cơ sở
đào tạo cần thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, đánh giá khách quan, chặt chẽ
để bảo đảm tính hiệu quả của việc dạy và học.
Thứ tám, đổi mới vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong tổ chức
giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế. Theo đó, về mặt pháp lý, cần
18


tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy định về pháp luật đối với các hoạt động
giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế. Các cơ quan quản lý nhà
nước, trực tiếp là Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thay đổi cách tư duy về quản lý
đối với các hoạt động giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế. Thay vì
trực tiếp quản lý toàn diện đối với các cơ sở giáo dục đại học, các cơ quan quản
lý nhà nước chỉ nên đóng vai trị là cơ quan “tài phán”, định hướng các hoạt
động theo luật pháp, đồng thời tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục đại học được
độc lập, tự chủ hơn trong các hoạt động. Cần tránh tư duy quản lý theo cách áp
đặt, hoặc “bao cấp” đối với các hoạt động giáo dục đại học trong điều kiện hội
nhập quốc tế hiện nay.

19


KẾT LUẬN
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, chỉ rõ “Đổi mới căn bản, toàn diện
nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hố, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lí giáo dục, phát triển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lí là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ
năng thực hành, khả năng lập nghiệp...” [1, tr.78]. Giáo dục ngày nay được coi là
nền móng của sự phát triển, lịch sử đã cho thấy mỗi quốc gia muốn phát triển và

hưng thịnh đều phải coi trọng công tác giáo dục. Đối với nước ta giáo dục luôn
được coi là quốc sách - nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Cùng với sự đổi mới của giáo dục phổ thông, giáo dục đại học đang có
những bước chuyển lớn về cả định hướng phát triển và nội dung hoạt động đào
tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ để đáp ứng yêu cầu của giai
đoạn đổi mới. Trong đó cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề nâng cao chất lượng
hoạt động dạy học ở môi trường đại học.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
2. Nguyễn Thị Phương Hoa (2018), Con đường nâng cao chất lượng cải
cách các cơ sở đào tạo giáo viên - Cơ sở lý luận và giải pháp, Nxb Đại học sư
phạm, Hà Nội.
3. Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” , Ban Chấp hành
Trung ương, 2013.
4. Nguyễn Trần Trung (2019), Nâng cao chất lượng giáo dục đại học đáp
ứng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Phan Văn Khương (2015), Quản lý Giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Phạm Viết Vượng (2009), Giáo dục học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
7. Viện ngôn ngữ học (2001), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

21




×