Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận quản lí nhà nước về tôn giáo trên địa bàn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.91 KB, 25 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
Chủ đề: QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ TƠN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2021
1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HĨA - XÃ

Trang
4
8

HỘI CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẶC
ĐIỂM CỦA TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
1.1.

PHỐ
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội của thành

phố Hồ Chí Minh


1.2.
Đặc điểm của tơn giáo trên địa bàn thành phố
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

8
11

TƠN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
2.1.
Thành tựu
2.2.
Hạn chế
2.3.
Nguyên nhân thành tựu và hạn chế
Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG

12
12
13
15

CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
3.1.

MINH HIỆN NAY
Một số phương hướng cơ bản nâng cao hiệu quả quản lý

18


nhà nước đối với tôn giáo trên địa bàn thành phố Hồ Chí
3.2.

Minh hiện nay
Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả quản lý nhà

18

nước đối với tôn giáo trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay

20
24
25

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo. Chưa kể vài chục triệu người khác

vẫn giữ tín ngưỡng dân gian truyền thống, chỉ tính riêng 6 tơn giáo lớn, ở nước
ta đã có gần 1/3 dân số cả nước sinh hoạt tơn giáo thường xuyên. Tôn giáo trở
thành nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Trong tình hình đó, Đảng và
Nhà nước xác định phải tăng cường công tác tơn giáo để vừa đảm bảo nhu cầu
tín ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tơn giáo
để đi ngược lại lợi ích căn bản của nhân dân. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước đối với tôn giáo là vấn đề hết sức quan trọng, nó phải được sự
quan tâm của các ngành, các cấp và cần được tiến hành trên cơ sở khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta từng bước hồn thiện chính
sách tơn giáo, tăng cường quản lý nhà nước đối với tôn giáo bằng pháp luật;
hướng cho cán bộ, đảng viên nhận thức đúng vai trị của các tơn giáo trong đời
sống nhân dân; kiên quyết uốn nắn nhận thức lệch lạc, những khuyết điểm nhằm
thực hiện triệt để tinh thần đại đoàn kết tồn dân vì sự nghiệp xây dựng nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thành phố Hồ Chí MInh là một thành phố đơng dân số, nhưng có tới
40% dân số theo Phật giáo, Cơng giáo, Tin lành, Cao đài. Ngồi ra, một bộ phận
nhân dân cịn theo tín ngưỡng truyền thống. Phần đơng tín đồ các tơn giáo có
trình độ dân trí thấp, cịn mê tín, thậm chí cuồng tín, nên dễ bị các thế lực tiêu
cực kích động, lợi dụng vào các mục đích chính trị xấu.
Hiện nay, tuy hoạt động của các tơn giáo có xu hướng đồng hành với dân
tộc, mang tính thuần túy tơn giáo, nhưng bên cạnh đó vẫn có tình trạng lúc này
hay lúc khác hoạt động của một số tơn giáo diễn ra khơng bình thường, có phần
lấn lướt chính quyền, vi phạm một số quy định của Nhà nước về xây dựng, sửa
chữa cơ sở thờ tự, in ấn, phát tán kinh sách; lợi dụng hoạt động từ thiện, nhân
đạo để khuếch trương thanh thế. Hiện tượng bói tốn, mê tín cịn diễn ra tràn
lan. Một số chức sắc các tôn giáo ngấm ngầm chống đối chủ trương, chính sách
4



của Đảng và Nhà nước. Các dịng tu, hội đồn và Gia đình phật tử thơng qua các
hình thức sinh hoạt phong phú đã thu hút khá đông thanh, thiếu niên tham gia
sinh hoạt tôn giáo. Hoạt động truyền đạo trái phép của một số tôn giáo vào vùng
đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa ngày càng gia tăng. Việc các thế lực phản
động lợi dụng tôn giáo để kích động quần chúng chống đối chính quyền vẫn lẻ
tẻ diễn ra ở một số nơi.
Trước tình hình đó, Thành ủy đã tăng cường chỉ đạo quản lý nhà nước
đối với tôn giáo, nên đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, công tác
quản lý nhà nước đối với tơn giáo cịn có nhiều hạn chế: sự phối hợp giữa các
ngành, các cấp thiếu tập trung và đồng bộ; việc phân định chức năng quản lý của
các cấp chính quyền khơng rõ ràng, cịn đùn đẩy cho nhau. Điều đó vơ tình đã
tạo ra những sơ hở, thiếu chặt chẽ; giải quyết không đúng thẩm quyền. Nhận
thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên về chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về tơn giáo cịn hạn chế. Do đó, một số cơ quan quản lý nhà nước
cũng vi phạm chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước.
Trước tình hình đó, việc tìm ra những phương hướng và giải pháp để
nâng cao hiệu quả quản lý của cơ quan Nhà nước trên địa bàn nhằm vừa đảm
bảo nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo lành mạnh của quần chúng, vừa đảm bảo cho
chính sách tơn giáo khơng bị vi phạm, vừa đấu tranh có hiệu quả chống địch lợi
dụng tôn giáo là việc làm cần thiết.
Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề: “Quản lí nhà nước về tơn giáo trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh” trở thành vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước đối với tơn giáo nói riêng
là một trong những u cầu của sự nghiệp đổi mới. Cho nên, từ khi có Nghị
quyết 24 của Bộ Chính trị, việc đi vào nghiên cứu tơn giáo, đề ra chủ trương,
chính sách tơn giáo ngày càng được nhiều nhà lý luận - chính trị quan tâm hơn.
Từ đó, nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này đã được công bố. Chẳng hạn,
“Mối quan hệ giữa chính trị và tơn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế
và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

5


hiện nay” của Trung tâm Khoa học về Tín ngưỡng và Tơn giáo thuộc Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998; “Tơn giáo tín ngưỡng hiện nay Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết” của Trung tâm Thơng tin - Tư liệu, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1995; “Đổi mới quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam” của Trần Minh
Thư, năm 1999... Song, các cơng trình nghiên cứu này mới chỉ đề cập cơng tác
tơn giáo nói chung, chưa đi sâu vào nghiên cứu quản lý nhà nước đối với tơn giáo.
Các cơng trình nghiên cứu trên mới chỉ đi sâu vào nghiên cứu các tôn
giáo trên địa bàn của các thành phố, thành, từ đó, bước đầu đưa ra một số giải
pháp chủ yếu để quản lý các tôn giáo đó. Các cơng trình này chưa đánh giá được
thực trạng quản lý nhà nước đối với tôn giáo và làm rõ vấn đề đặt ra hiện nay
trên lĩnh vực quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở thành phố Hồ Chí Minh. Do
vậy, một số giải pháp được đưa ra còn thiếu sát hợp và đồng bộ. Đề tài này góp
phần hồn thiện thêm cơng tác nghiên cứu đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ thực trạng quản lý nhà nước đối với tơn giáo ở Thành
phố Hồ Chí Minh với tất cả các mặt mạnh và yếu của nó, tiểu luận góp phần đề
xuất một số phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
đối với tôn giáo trên địa bàn thành phố trong thời gian trước mắt.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những đặc điểm của tơn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Làm rõ những thành tựu và hạn chế trong quản lý nhà nước đối với tôn
giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây, nguyên nhân của chúng.
Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước đối với tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh trong tình hình mới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu

Quản lí nhà nước về tơn giáo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
* Phạm vi nghiên cứu
6


Công tác tôn giáo bao gồm nhiều mặt, liên quan đến nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội. Đề tài này chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu quản lý nhà nước
đối với tơn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay trên một số phương diện.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Tiểu luận được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quản lý nhà
nước đối với tôn giáo. Tiểu luận cũng xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước
đối với tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua.
* Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tiểu luận này, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp lôgic
và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh, đối chiếu cùng phương pháp của xã hội
học... nhằm đạt mục đích và hoàn thành những nhiệm vụ mà tiểu luận đặt ra.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
* Ý nghĩa khoa học
Bước đầu phát hiện ra được một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong
quản lý nhà nước đối với tơn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Đưa ra được một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước đối với tơn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn
Tiểu luận có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để xây dựng chủ
trương, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với tôn giáo và vận dụng vào
thực tiễn của Thành phố Hồ Chí Minh.
Tiểu luận có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy Chủ nghĩa xã hội
khoa học, Tôn giáo học...

7. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
gồm 3 chương, 7 tiết.

7


Chương 1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA - XÃ HỘI
CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TÔN GIÁO TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội của thành phố Hồ
Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong hai thành phố lớn nhất cả nước,
nằm ở miền Nam Việt Nam, trong tọa độ địa lý khoảng 10 0 10' - 10 0 38' vĩ độ
Bắc và 106022' - 106 054' kinh độ Đông, cách thủ đô Hà Nội 1.730km theo
đường bộ và cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Phía Bắc giáp tỉnh
Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng
Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long
An và Tiền Giang. Thành phố Hồ Chí Minh là đầu mối giao thông lớn, thuận lợi
về giao thông đường thủy, đường bộ và đường hàng không, rất thuận tiện về
giao lưu quốc tế.
Với diện tích khoảng 2095,01 km2, gồm 19 quận và 5 huyện, 254 phường,
63 xã, thị trấn, với dân số khoảng 8.993.900 người (năm 2020) (thống kê
1/4/2019 chỉ khoảng 7.123.340 người), mật độ dân số 4.419 người/km², thành
phố Hồ Chí Minh là đơn vị hành chính đơng dân cư nhất cả nước với mật độ và
tốc độ tăng dân số cao (3,54%/năm), trong đó tăng cơ học (20,72‰) cao hơn
tăng tự nhiên (10,35‰) (tỷ lệ này năm 2009 là 21,56‰ và 10,37‰). Lượng dân
cư tập trung chủ yếu trong nội thành (6.184.000 người), mật độ 14.906
người/km² (năm 2009 là 5.929.479 người).
Với những điều kiện khách quan thuận lợi, Sài Gòn – thành phố Hồ Chí

Minh, nơi một thời được mệnh danh là “Hịn ngọc Viễn Đơng”, đã trở thành
trung tâm cơng nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, tài chính ngân hàng, giao
lưu văn hóa năng động nhất của cả nước, “có vị trí chính trị quan trọng sau thủ
đơ Hà Nội”. Thành phố luôn tiếp nhận các chủ trương, đường lối đổi mới của
Đảng nhanh chóng nhất, sáng tạo nhất và hiệu quả nhất. Trong hơn 30 năm thực
hiện cơng cuộc đổi mới, thành phố Hồ Chí Minh đã có vai trị to lớn trong việc
8


đóng góp vào những thành tựu chung của cả nước, thể hiện ở các thành tựu kinh
tế, văn hóa, xã hội.
Thành phố Hồ Chí Minh ln đi đầu trong cả nước về tốc độ tăng trưởng
kinh tế và tổng sản phẩm trong nước. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) năm 2019
đạt 832.076 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng GDP thời kì 2015 – 2020 đạt bình quân
11%/năm. GDP bình quân đầu người liên tục tăng từ 2661 USD (năm 2009) lên
3.606 USD/người (năm 2019). Thành phố Hồ Chí Minh ln thu hút nhiều vốn
đầu tư và dự án của nước ngồi (trong 2019 có 318 dự án được cấp giấy phép
trong tổng số 456 dự án của khu vực Đông Nam Bộ với số vốn 2385.6 triệu đô
la Mỹ. Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao cả về vật chất và tinh
thần; hệ thống giáo dục không ngừng được mở rộng, nâng cao và hiện đại hóa;
lĩnh vực y tế có nhiều tiến bộ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân; lĩnh vực văn hóa nghệ thuật có nhiều biến chuyển theo hướng hiện
đại, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân; luôn đi đầu cả nước trong các
phong trào xã hội, là nơi đầu tiên trong cả nước được công nhận hoàn thành phổ
cập giáo dục trung học; lối sống văn minh đô thị được đẩy mạnh… Trong những
năm tới, thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ vai trị đầu tàu trong đa giác chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội vùng Nam bộ cũng như của cả nước và là một thành
phố văn minh hiện đại có tầm cỡ ở khu vực Đông Nam Á.
Nằm trong bối cảnh lịch sử chung của vùng đất Nam Bộ, Sài Gòn - Gia
Định là nơi hội tụ, định cư của người dân khắp mọi miền đất nước nên ngay từ

buổi đầu đã sớm là nơi hội tụ thuận hòa của một nền văn hóa đa tầng của đa tộc
người nên mang tính đa tộc, đa văn hóa, dẫn đến đa dạng về tín ngưỡng, tơn
giáo, phong tục tập qn. Thành phố Hồ Chí Minh hiện có khoảng 52 dân tộc cư
trú (dân tộc Kinh đông nhất, kế đến là Hoa, Chăm, Khmer, Tày, Nùng, Mường,
Thái…) với sự “hiện diện gần như tất cả các tôn giáo trên cả nước” với khoảng
hơn 1.983.048 tín đồ (chiếm 27,68% dân số thành phố) cùng các hoạt động tôn
giáo đa dạng, phong phú. Mỗi dân tộc có tín ngưỡng, sắc thái văn hố riêng góp
phần tạo nên một nền văn hoá đa dạng.
9


Đặc trưng văn hoá của vùng đất này là sự năng động, sáng tạo mà khoan
dung nhân hậu, nghĩa tình, có trước có sau và ln ln đi đầu trong sự giao lưu
và hội nhập văn hoá với khu vực và quốc tế, là sự kết hợp hài hòa giữa truyền
thống dân tộc với những nét văn hoá phương Bắc, phương Tây, góp phần hình
thành lối sống, tính cách con người Sài Gịn: thẳng thắn, bộc trực, phóng
khống, có bản lĩnh, năng động, dám nghĩ, dám làm. Cũng chính nhờ thế mà văn
hố Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh là nơi hội tụ và lan toả nhiều giá trị văn
hố hiện đại, nhân văn, tiến bộ khơng chỉ của riêng Nam bộ mà cịn của văn hố
Việt Nam từ hơn 300 năm qua. Điều này thật đúng với nhận xét của GS.Trần
Quốc Vượng: “Một trăm năm giao thoa văn hố Đơng Tây trên đất nước này
chủ yếu là ở đơ thị (Sài Gịn - Chợ Lớn đi trước, sau là Hà Nội, Huế…)”. Vậy
nên dù là một thành phố trẻ, mới hơn 3 thế kỷ hình thành và phát triển nhưng Sài
Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều cơng trình kiến trúc cổ, nhiều di
tích, danh lam thắng cảnh và hệ thống bảo tàng phong phú. Những đặc điểm này
tạo nên đặc trưng riêng có của gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh.
Tận dụng lợi thế mọi mặt của mình, trong những năm qua thành phố Hồ
Chí Minh có vai trị rất lớn trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt
Nam. Trong bối cảnh tồn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay, là thành phố năng
động nhất cả nước với nhiều đặc điểm thuận lợi, thành phố Hồ Chí Minh ln

nhanh chóng đi đầu trong việc giao lưu, hội nhập quốc tế. Qua đó, thành phố có
điều kiện hết sức thuận lợi để giao lưu, tiếp biến các tinh hoa văn hóa nhân loại,
làm phong phú bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam và giữ gìn nó. Nhưng mặt
khác, những tác động của q trình tồn cầu hóa diễn ra hết sức mạnh mẽ tại
đây, cùng với cơ cấu dân cư đông đúc và đa dạng về vùng, miền, quốc tịch, dân
tộc, tôn giáo,… làm cho việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam tại
thành phố Hồ Chí Minh gặp nhiều thách thức to lớn. Nguy cơ mất bản sắc luôn
tiềm ẩn, nếu không biết khéo léo giữ gìn thì bản sắc dân tộc của văn hóa Việt
Nam sẽ dễ bị mai một nhất tại thành phố năng động nhất này.
10


1.2. Đặc điểm của tôn giáo trên địa bàn thành phố
Những năm qua, thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước,
thành phố Hồ Chí Minh đã có những bước phát triển mới trên nhiều lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội và đặc biệt là đời sống người dân được cải thiện một
cách rõ rệt. Cùng với nhịp độ phát triển của thành phố, lượng người dân tham
gia các tôn giáo ngày càng nhiều.
Hiện thành phố Hồ Chí Minh có 2,4 triệu tín đồ các tơn giáo, chiếm đến
1/3 dân số tồn thành phố Hồ Chí Minh. Trong số 2,4 triệu tín đồ các tơn giáo,
Phật giáo chiếm số đông với 1,6 triệu người; tiếp theo là đồng bào theo đạo
Công giáo với hơn 645 ngàn người; Tin Lành: trên 65 ngàn người; Cao Đài: 48
ngàn người; Hồi giáo: 5 ngàn người. Có thể thấy rõ nhất hình ảnh đồng bào theo
Phật giáo sống hịa hợp cùng những người khơng theo tơn giáo tại các khu xóm
người Hoa ở Chợ Lớn. Cũng có thể lấy minh chứng về chuyện đồng bào ở khu
xóm Khmer (Q10) hay đồng bào Chăm theo đạo Hồi (Phú Nhuận) nô nức đi bầu
trong ngày bầu cử Quốc hội khóa XII vừa qua để thấy rằng tín đồ các tơn giáo ở
thành phố Hồ Chí Minh có sinh hoạt và cuộc sống với tinh thần công dân như
mọi người khác. Theo thống kê của Ban Tơn giáo - Dân tộc, hiện tồn thành phố
Hồ Chí Minh có 8.147 chức sắc các tơn giáo và 1.544 cơ sở thờ tự…

Một hình ảnh dễ bắt gặp tại thành phố Hồ Chí Minh là những sinh hoạt
tôn giáo ngày càng diễn ra thường xuyên hơn. Gần đây nhất, lễ Phật đản đã thu
hút 7.000 người đến thắp hương, ngày Đức mẹ Fatima Bình Triệu có đến 40.000
người dự, lễ Giáng sinh do Tổng Liên hội Tin Lành miền Nam tổ chức thu hút
7.000 người, Đại hội Giới trẻ do Tịa Tổng giám mục tổ chức có hơn 8.000
người đến tham gia…
Bên cạnh đó là việc các trường tôn giáo như Trường Thánh kinh Thần học
viện, Trường Trung cấp Phật học, Đại chủng viện, lớp Liên tu sĩ… đã đào tạo
4.582 tu sĩ, chủng sinh, sinh viên, học viên các tơn giáo. Đây chính là “nguồn” để
các tôn giáo tấn phong, bổ nhiệm mới 785 chức sắc chỉ trong vòng 1 năm qua.
11


Theo tiến trình hội nhập, đặc biệt là từ khi Việt Nam gia nhập WTO, ngày
càng có nhiều cơng dân quốc tế đến thành phố Hồ Chí Minh làm việc và sinh
sống mang theo tôn giáo của họ. Với các tơn giáo có nhu cầu được bày tỏ đức
tin một cách chính đáng, thành phố Hồ Chí Minh tạo rất nhiều điều kiện cho
những người nước ngoài đến tham gia sinh hoạt tôn giáo. Chỉ trong năm 2018 và
những tháng gần đây, chúng tơi ghi nhận ít nhất 4 đồn tơn giáo quốc tế đã đến
thăm thành phố Hồ Chí Minh và tham gia các hoạt động tôn giáo như Đồn Liên
minh Báptit thế giới, Đồn Hiệp hội Thơng cơng ngũ tuần thế giới, Đoàn Hội
đồng Giám mục Pháp và Đồn Thiền sư Thích Nhất Hạnh cùng các Tăng thân
Làng Mai (Pháp).
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TƠN
GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Thành tựu
Ban Tôn giáo thành phố đã phối hợp chặt chẽ với Sở Xây dựng, Sở Tài
nguyên và Môi trường và Ủy ban nhân các quận, huyện trên địa bàn cấp phép sửa
chữa, cải tạo và xây mới cho trên 1.500 cơ sở tôn giáo. Cấp 540 m2 đất xây dựng
nhà nguyện ở giáo xứ; cấp 600 m2 đất xây dựng tượng Chúa Giêsu Kitô, cấp 297

m2 đất xây dựng nhà nguyện họ giáohuyện Bình Chánh, cấp 1.000 m2 đất xây
dựng nhà nguyện tại giáo xứ huyện Củ Chi…. Các vấn đề liên quan đến khiếu
kiện, khiếu nại, tranh chấp đất đai có liên quan đến tơn giáo đã được các cấp
chính quyền thành phố quan tâm, xem xét và giải quyết đúng quy định pháp luật.
Đối với những vụ việc phát sinh, tiềm ẩn phức tạp, Ban Tôn giáo thành
phố đã chủ động phối hợp với ủy ban nhân dân các quận, huyện nơi phát sinh vụ
việc giải quyết theo thẩm quyền, ổn định tình hình tại địa phương, không làm
phát sinh các vấn đề phức tạp, giữ vững an ninh, trật tự trên địa bàn.
Thành phố Hồ Chí Minh mở lớp tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho đội
ngũ chức sắc, chức việc các tôn giáo trên địa bàn. Từ năm 2015 đến nay, mỗi
năm thành phố mở được từ 6 – 10 lớp, mỗi lớp từ 100 – 150 học viên. Ngoài ra,
12


mở một số lớp bồi dưỡng chuyên hoạt động về tôn giáo; chấp thuận việc phong
phẩm, bổ nhiệm, thuyên chuyển các chức sắc tôn giáo theo đúng quy định.
Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết kịp thời các nhu cầu sinh hoạt tơn giáo
chính đáng, như: đề nghị thành lập các tổ chức tôn giáo trực thuộc; chấp thuận
đăng ký hoạt động của Ủy ban Bác ái Xã hội (Caritas); tôn giáo Baha’i tổ chức
Đại hội bầu đại biểu dự Đại hội cộng đồng tôn giáo Baha’i lần thứ IV. Đồng ý
cho Tổng giáo phận thành phố Hồ Chí Minh tổ chức các đại hội Giáo lý viên;
Tòa Giám mục Hưng Hóa kỷ niệm 30 năm tuyên thánh tử đạo; kỷ niệm 100
năm Hội thánh Tin lành Việt Nam; chấp thuận cho các tổ chức tơn giáo người
nước ngồi đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung tại 3 điểm nhóm Tin lành Hàn
Quốc.
Ban Tơn giáo thành phố đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng tổ
chức các hoạt động tôn giáo trong dịp lễ, tết trọng đại: Lễ Phật đản, Phục sinh,
Khai đạo… và Tết Nguyên đán. Ủy ban Bác ái Xã hội – Caritas thuộc Tổng
Giáo phận thành phố Hồ Chí Minh tổ chức các hoạt động từ thiện phẫu thuật
mắt cho người nghèo; trao gần 2.000 xuất quà cho người nghèo trong thời gian

cách ly đại dịch Covid-19 vừa qua; đặt quầy hàng tặng nhu yếu phẩm cần thiết
tại Giáo xứ Bình Thạnh và Tịa Tổng Giám mục; đặt cây ATM gạo tại sân nhà
thờ Chính tịa tặng cho người dân gặp khó khăn…
Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức làm công
tác tôn giáo vững về chuyên môn, nghiệp vụ, gần gũi với chức sắc, tín đồ tơn
giáo. Đồng thời, đưa các hoạt động tôn giáo đi vào nền nếp, từng bước giúp
chức sắc, tín đồ hành đạo trong khn khổ pháp luật, xây dựng khối đại đồn kết
tồn dân.
2.2. Hạn chế
Một bộ phận chức sắc vẫn có biểu hiện lấn lướt chính quyền, một số linh
mục, tu sĩ lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo, tự do dân chủ để thực hiện diễn biến
hịa bình, bạo loạn lật đổ. Việc chống đối của các linh mục tập trung ở các hoạt
động, như: phong chức, phong phẩm cho các tu sĩ không báo cáo cơ quan chức
13


năng; khơng đăng ký chương trình sinh hoạt tơn giáo hằng năm với cơ quan có
thẩm quyền. Đặc biệt, có hiện tượng kích động chức sắc và tín đồ Cơng giáo
khiếu kiện đông người, cổ vũ các hoạt động chống đối chính quyền xảy ra ở các
địa phương khác.
Một số cán bộ, đảng viên cấp cơ sở chưa nhận thức rõ tầm quan trọng
của công tác tôn giáo nên chưa phát huy hết sức mạnh của cả hệ thống chính trị
do Đảng lãnh đạo, mà phổ biến cịn “giao khốn” cho Mặt trận Tổ quốc và các
ngành chức năng. Bên cạnh đó, cán bộ làm cơng tác tơn giáo cấp quận, huyện
nhiều nơi còn kiêm nhiệm và thay đổi qua các kỳ bầu Hội đồng nhân dân. Vì
vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo ở các cấp là vấn đề
có ý nghĩa then chốt và quyết định [4, tr.17].
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tơn giáo của các cấp chính quyền
cịn nhiều sơ hở, việc xây dựng những quy định, văn bản pháp quy để chủ động
hướng dẫn các tôn giáo thực hiện chính sách tơn giáo cịn nhiều hạn chế. Do

vậy, bị động trong việc đưa ra các biện pháp giải quyết, để sự việc lan rộng, kéo
dài, nhất là những khiếu kiện, khiếu nại liên quan đến nhà đất, xây dựng, cải tạo
lại nơi thờ tự, thuyên chuyển giáo sĩ…
Công tác tuyên truyền giáo dục, vận động chức sắc tuy đạt được một số
kết quả, song chưa thường xuyên. Kinh phí cho cơng tác vận động, tranh thủ
giáo sĩ, giáo dân cịn q hạn hẹp.
Cơng tác xây dựng Đảng trong vùng có đơng đồng bào có đạo hiện chưa
được chính quyền cơ sở và các đoàn thể quan tâm. Do vậy, đội ngũ nịng cốt, cốt
cán, đảng viên, đồn viên cịn ít, tác dụng cịn hạn chế.
Như vậy, cơng tác quản lý nhà nước về tôn giáo hiện nay cần sự phối
hợp của các ngành, các cấp chính quyền địa phương và không thể tách rời việc
giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội. Vì vậy, cơng tác tôn giáo, nhất là công tác
giải quyết các vụ việc khiếu kiện có liên quan đến các tơn giáo cần có một hệ
thống giải pháp mang tính cơ bản và toàn diện.
14


2.3. Nguyên nhân thành tựu và hạn chế
2.3.1. Nguyên nhân thành tựu
Các thành tựu to lớn nói trên của cơng tác quản lý nhà nước đối với tôn
giáo ở thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua có được trước hết là do Đảng
ta đã đề xướng đường lối đổi mới đúng đắn, toàn diện, đã lãnh đạo quá trình
thực hiện đường lối đổi mới thành cơng. Đảng ta xác định: “Chính những sáng
kiến, nguyện vọng của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của
Đảng” [2, tr. 73]. Đường lối đổi mới của Đảng chẳng những phản ánh đúng đắn
lợi ích, nguyện vọng, sáng kiến của nhân dân ta nói chung, của quần chúng tín
đồ nói riêng, mà cịn giác ngộ, tổ chức, hăng hái, tích cực thực hiện cơng cuộc
đổi mới đất nước vì lợi ích chung, trong đó có lợi ích thiết thân của mỗi người.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước đã sớm đưa ra các chủ trương, chính
sách tơn giáo theo tinh thần đổi mới, đúng đắn và kịp thời; đồng thời, đã chủ

động sáng tạo trong quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện, kiên quyết thực hiện
các chủ trương, chính sách đó trên thực tiễn. Qn triệt quan điểm chỉ đạo của
Đảng về chính sách đối nội, đối ngoại trong các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI, VII, VIII, các cơ quan nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
pháp quy quan trọng trên lĩnh vực quản lý nhà nước đối với tôn giáo, hướng dẫn
các địa phương vận dụng quản lý cho sát với hợp với tình hình thực tiễn.
Chính phủ đã Ban hành Nghị định 69/HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ): “Quy định về các hoạt động tơn giáo”, Chỉ
thị 397/TTg về các hoạt động tôn giáo. Ban tôn giáo của Chính phủ ban hành
Thơng tư 01/TGCP và Thơng tư 02/TGCP để hướng dẫn thi hành Nghị định
69/HĐBT. Đặc biệt, trong những năm gần đây, do tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước và sự mở rộng giao lưu quốc tế, đời sống tôn giáo cũng có
nhiều thay đổi. Để giải quyết kịp thời những vấn đề cấp bách đang đặt ra cho
công tác quản lý nhà nước đối với tơn giáo, Bộ chính trị đã ra Chỉ thị 37-CT/TW
ngày 2/7/1998 “Về tăng cường công tác tơn giáo trong tình hình mới”. Để thực
hiện các chỉ thị trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định 26/1999/NĐ-CP: “Về
15


các hoạt động tơn giáo”. Có thể nói rằng các văn bản pháp quy của Nhà nước
ban hành đã kịp thời giải quyết những vướng mắc trong công tác quản lý nhà
nước. Đó cũng là cơ sở để địa phương vận dụng vào giải quyết có liên quan trên
địa bàn thành phố.
Trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của Trung ương, căn cứ vào đặc điểm
và tình hình tơn giáo của địa phương, thường trực thành ủy và Ủy ban nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn các cấp
chính quyền tăng cường quản lý nhà nước đối với tôn giáo. Thành ủy chỉ đạo
các cấp, các ngành tổ chức tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 24 của Bộ
Chính trị, Nghị định 69 của Chính phủ; triển khai thực hiện Thơng báo 145, Chỉ
thị 37 của Bộ Chính trị; mở hội nghị cán bộ chủ chốt của thành phố và chỉ đạo
cơ sở quán triệt Nghị định 26 của Chính phủ quy định về các hoạt động tơn giáo

cho cán bộ, đảng viên và chức sắc, tín đồ. Thành ủy cũng đã chỉ đạo các ngành,
các cấp tiến hành khảo sát các dịng tu, hội đồn Cơng giáo, khảo sát đạo Tin
lành; từ đó, đưa ra kế hoạch và chủ trương đối với đạo Tin lành trong tình hình
mới. Có thể nói, Thành ủy đã thường xuyên quan tâm, đôn đốc các ngành, các
cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tôn giáo theo thẩm quyền của
cơ quan mình.
Ban tơn giáo phối hợp với các ngành chức năng và Trường chính trị
thành phố thường xuyên tổ chức học tập, qn triệt các chủ trương, chính sách
tơn giáo của Đảng và Nhà nước cho cán bộ, đảng viên, chức sắc và tín đồ. Từ
năm 2015 đến năm 2020, đã mở lớp tập huấn, hội nghị quán triệt nội dung chính
sách tơn giáo theo Nghị định 69/HĐBT, Nghị quyết 24/BCT của Bộ Chính trị
cho 3000 cán bộ chủ chốt cấp huyện, quận, thành phố. Việc học tập đó đã góp
phần tạo được những chuyển biến tích cực trong nhận thức của cán bộ, đảng
viên, giáo dân và chức sắc về chủ trương, chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà
nước trong thời kỳ đổi mới.
Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố đã tích cực xây dựng, củng cố
kiện toàn bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, nhất là Ban tôn giáo
16


thành phố. Thành ủy quyết định thành lập Ban chỉ đạo công tác tôn giáo của
thành phố, thành lập Ban chỉ đạo công tác tôn giáo của các huyện, quận và thành
phố để kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở
cơ sở. Công an thành phố cũng tăng cường cán bộ chiến sĩ làm công tác đấu
tranh chống bọn phản động lợi dụng tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc nhằm
ngăn chặn các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo và dân tộc để gây mất ổn định
chính trị. Mặt trận Tổ quốc, Ban dân vận thành phố Hồ Chí Minh và các đồn
thể đã có cán bộ chun trách để theo dõi cơng tác tơn giáo. Vì vậy, đã khắc
phục được tình trạng thiếu tập trung, thống nhất trong chỉ đạo. Bước đầu phân
công trách nhiệm công tác giữa Ban dân vận, Mặt trận Tổ quốc, và các đồn thể.

Nhờ đó, đã có sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ hơn trước, đảm bảo sự lãnh đạo
của cấp ủy đảng về công tác tôn giáo và quản lý nhà nước của chính quyền.
Bên cạnh đó, Ban tơn giáo và các ngành hữu quan đã làm tốt công tác
tham mưu, đề xuất những biện pháp để giải quyết các vấn đề có liên quan đến
tơn giáo, kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong q trình thực hiện
chính sách tơn giáo để uốn nắn, sửa chữa kịp thời. Không để kẻ địch lợi dụng
chống phá.
2.3.2. Nguyên nhân hạn chế
Lĩnh vực tôn giáo là một lĩnh vực tổng hợp có liên quan trực tiếp hoặc
gián tiếp đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội... Hoạt động tơn giáo có liên
quan đến các Sở, Ban, Ngành và Ủy ban nhân dân các huyện, quận, thành trong
thành phố. Cho nên, Ban tôn giáo thành phố không thể là cơ quan hành chính
duy nhất đảm đương mọi nhiệm vụ quản lý trên tất cả các lĩnh vực.Từ đó, một
yêu cầu tất yếu đặt ra là phải có sự phân công, phân cấp quản lý, trên cơ sở xác
định rõ vị trí pháp lý và thẩm quyền pháp lý của từng cơ quan hành chính nhà
nước. Nhưng thực tế hiện nay, ở địa phương, sự phân công, phân cấp giữa các
Sở, Ban, Ngành của thành phố cũng như thẩm quyền giữa Ban tôn giáo với Ủy
ban nhân dân các huyện, quận, thành chưa rõ ràng. Điều đó dẫn đến tình trạng
vừa chồng chéo, lấn sân, vừa buông lỏng và thả nổi quản lý. Việc thực thi công
17


vụ quản lý không đúng quyền hạn, đùn đẩy cho nhau giữa các cơ quan cùng
chung hệ thống ngang hoặc hệ thống dọc trong quá trình xử lý các tình huống
quản lý do thực tiễn đặt ra.
Công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách tơn
giáo của Đảng và Nhà nước cho tín đồ, chức sắc, nhà tu hành và cán bộ, đảng
viên còn chậm, chưa thường xun; nội dung, hình thức chưa phù hợp, thậm chí
khơng chuyển tải đầy đủ.
Nhận thức của một số cán bộ, đảng viên cũng như các ngành, các cấp về

chủ trương, chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ; chưa thấy
được tơn giáo là vấn đề cịn tồn tại lâu dài, đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù
hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Một trong những nguyên nhân khách
quan là Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị được triển khai theo chế độ “tối mật”,
rất ít cán bộ, đảng viên ở cơ sở được đọc và hiểu Nghị quyết 24 một cách thấu
đáo. Có quán triệt được Nghị quyết 24, cán bộ, đảng viên làm cơng tác tơn giáo
mới có thể xử lý, giải quyết các vấn đề tơn giáo một cách có hệ thống, đúng tinh
thần đổi mới tư duy về tôn giáo, đúng nguyên tắc. Nghị định 69/HĐBT là sự thể
chế hóa Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị. Nếu khơng hiểu Nghị quyết 24 thì
khơng thể vận dụng một cách đúng đắn Nghị định 69/HĐBT và dễ vi phạm
những nguyên tắc chung. Ngoài ra, một số nội dung của các các luật (như Luật
Đất đai, Luật Dân sự, Luật Xuất bản...), Nghị định 79/CP của Chính phủ về quản
lý và sử dụng con dấu, Nghị định 51/CP của Chính phủ về đăng ký và quản lý
hộ khẩu có liên quan trực tiếp đến tơn giáo, nhưng chưa có văn bản hướng dẫn
quy định chi tiết việc thi hành, nên rất khó thực hiện ở cơ sở.
Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
3.1. Một số phương hướng cơ bản nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước đối với tôn giáo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

18


Thứ nhất, tín ngưỡng tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Nhà nước xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Đồng bào các tơn giáo là bộ phận của khối đại đồn kết
tồn dân tộc. Theo đó, cần thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng tơn giáo, quyền sinh hoạt tơn giáo bình thường theo
đúng pháp luật. Các tôn giáo cũng phải hoạt động trong khn khổ pháp luật,

bình đẳng trước pháp luật. Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo để hoạt
động mê tín, dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích
động chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia [5, tr.89].
Thứ hai, thực hiện các nhiệm vụ tôn giáo là trách nhiệm của tồn bộ hệ
thống chính trị của thành phố do Thành ủy thành phố lãnh đạo, trong đó đội ngũ
cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là lực lượng tham mưu nịng cốt. Tổ
chức bộ máy làm cơng tác tơn giáo cần được củng cố, kiện tồn, nhất là ở cơ sở,
những địa bàn trọng điểm có đơng đồng bào tơn giáo. Tăng cường đồn kết
đồng bào các tơn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ ba, thành phố thống nhất phương châm “Kiên trì – đồng bộ – linh
hoạt – đúng pháp luật” trên cơ sở chính sách tơn giáo và các quy định của pháp
luật để giải quyết các vấn đề về tôn giáo. Trong q trình giải quyết, phải tranh
thủ cảm hóa, tạo được sự đồng tình, ủng hộ của các chức sắc, tín đồ, kết hợp
chặt chẽ với công tác tuyên truyền, vận động, đối thoại, thuyết phục để giải
quyết kiến nghị, khiếu nại địi nhà, đất có nguồn gốc tơn giáo và giải quyết các
vấn đề phức tạp liên quan đến tôn giáo. Cụ thể là: kiên trì vận động, thuyết phục
giáo sĩ, giáo dân chấp hành đúng pháp luật; thực hiện đồng bộ các biện pháp vừa
kiên trì vận động, thuyết phục, vừa tuyên truyền, phê phán, lên án, tập trung
phân hóa, cơ lập; đấu tranh với các đối tượng chủ mưu, xúi giục; xử lý bằng
pháp luật đối với những đối tượng quá khích để răn đe, chuẩn bị sẵn sàng các
phương án đối phó với hoạt động q khích biểu tình, gây rối hoặc cưỡng chế
giải tỏa khi cần thiết. Linh hoạt trong việc thực hiện các biện pháp xử lý trong
từng trường hợp và từng thời điểm cụ thể.
19


Tuyệt đối khơng để xảy ra sai sót, khơng thực hiện đúng quy định của
pháp luật trong quá trình xử lý các vụ việc, tình huống phức tạp để tạo cớ cho
các đối tượng xấu lợi dụng, tuyên truyền xuyên tạc, kích động.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước

đối với tôn giáo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý nhà
nước đối với tôn giáo
Pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện cơng tác quản lý nhà
nước nói chung và quản lý nhà nước đối với tôn giáo nói riêng. Điều đó càng
đúng trong bối cảnh chúng ta đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền
và cải cách nền hành chính quốc gia. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VII đã khẳng định: “Quản lý đất nước bằng pháp luật chứ không phải bằng đạo
lý. Pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân
dân, phải được thực hiện thống nhất trong cả nước. Tuân thủ pháp luật là chấp hành
đường lối, chủ trương của Đảng” [1, tr. 80].
Quản lý nhà nước đối với tôn giáo là hoạt động quản lý hành chính của
Nhà nước. Hình thức cơ bản của quản lý nhà nước là các cơ quan có thẩm quyền
thuộc bộ máy nhà nước được ban hành những văn bản hành chính quy định chung
và ban hành các văn bản có tính chất cá biệt về từng vấn đề. Vì vậy, với chức
năng của mình, các ngành ở Trung ương cần tham mưu đề xuất với Quốc hội,
Chính phủ để ban hành những văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong hoạt động quản lý nhà nước liên quan tới các tơn giáo. Từng bước
hệ thống hóa, bổ sung, sửa đổi các văn bản pháp luật đã ban hành; xây dựng các
văn bản pháp luật mới. Trong các văn bản pháp luật cần xác định những nguyên
tắc cơ bản trong việc quản lý hoạt động và xử lý vi phạm pháp luật của chủ thể và
khách thể trong quản lý nhà nước đối với tôn giáo, để vừa đảm bảo chính sách tơn
giáo của Đảng và Nhà nước khơng bị vi phạm, vừa góp phần vào việc củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc, bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia.
Chính phủ khẩn trương cụ thể hóa các văn bản pháp quy (Nghị định,
20


Quyết định, Chỉ thị, Thông tư) để hướng dẫn thi hành các quy phạm pháp luật có
nội dung trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh hoạt động tôn giáo (hoặc liên quan đến

hoạt động tôn giáo). Trên cơ sở các quy phạm pháp luật, chính quyền các cấp kịp
thời ban hành các quyết định hành chính quản lý nhà nước để điều chỉnh các hoạt
động tôn giáo theo đúng pháp luật và sát hợp với thực tiễn; từ đó, hình thành dần
hành lang pháp lý để điều chỉnh các hoạt động tơn giáo.
Vai trị của tư pháp trong q trình bảo vệ pháp luật Nhà nước trong lĩnh
vực tôn giáo cũng cần được tăng cường thích hợp; phải có những chế tài cụ thể,
như giáo dục hành chính, xử lý hành chính, xử phạt hành chính, cưỡng chế hành
chính để xử lý có hiệu quả các vi phạm pháp luật.
Nhiều quy định về tơn giáo hiện nay khơng có phần chế tài, mỗi nơi hiểu
và áp dụng khác nhau. Cho nên, sau khi có luật về tơn giáo, ban hành các văn
bản dưới luật, đảm bảo thực hiện đồng bộ những việc cấp bách như công tác đối
với tổ chức và sinh hoạt hội đồn, các dịng tu Cơng giáo, đạo Tin lành.
3.2.2. Tổ chức tốt công tác thông tin pháp luật
Thơng tin pháp luật có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình
hình thành, phát triển ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật. Nó tác động lớn
đến hành vi pháp lý và lối sống theo pháp luật trong xã hội. Vấn đề đặt ra là làm
thế nào để toàn bộ các văn bản, tài liệu mang tính quy phạm - từ các đạo luật
cho đến các quy định cá biệt - được truyền tải đầy đủ, chính xác, kịp thời đến
những người thực hiện và áp dụng pháp luật. Từ kinh nghiệm quản lý nhà nước
đối với tơn giáo nhiều năm qua chúng ta có thể khẳng định rằng một trong
những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới các vi phạm pháp luật là do sự thiếu hiểu
biết về pháp luật. Tình trạng cán bộ làm công tác quản lý nhà nước liên quan đến
các hoạt động tôn giáo không nắm chắc các văn bản pháp quy trong lĩnh vực này
còn khá phổ biến. Nhiều thể nhân tôn giáo khi hoạt động tôn giáo cũng không
hiểu được pháp luật của Nhà nước về các hoạt động tơn giáo để thực hiện.
Có nhiều cách truyền tải thơng tin pháp luật đến người thực hiện và áp
dụng, như thông qua xuất bản ấn phẩm về pháp luật, các sách bản pháp lý, phim
21



ảnh có nội dung pháp lý, giao tiếp giữa các cá nhân thông qua giáo dục, đào tạo,
phổ biến, trao đổi pháp luật, hoạt động dịch vụ pháp lý của các trung tâm, các
Công ty... Trong số các phương tiện thông tin pháp luật, các phương tiện truyền
thông đại chúng có vị trí cực kỳ quan trọng. Việc truyền tải thông tin pháp luật
cần tiến hành cả trong nước và ở nước ngồi, làm thường xun và có hệ thống,
chỉ như vậy mới có hiệu quả cao.
Trong các cơ quan chức năng, trước hết là lực lượng làm công tác quản
lý nhà nước trên lĩnh vực tôn giáo từ trung ương đến địa phương, một mặt, phải
nắm vững và thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà nước về những vấn đề
liên quan đến hoạt động của các tôn giáo; mặt khác, phải làm nòng cốt trong
việc tuyên truyền, phổ biến để các tôn giáo thực hiện quy định của Nhà nước về
vấn đề này; đảm bảo quản lý hoạt động của các tôn giáo theo đúng pháp luật của
Nhà nước.
3.2.3. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Để bổ sung lực lượng cán bộ làm công tác tôn giáo cũng như trang bị
kiến thức tôn giáo cho đội ngũ này, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
phối hợp với Ban Tơn giáo của Chính phủ và một số trường đại học khác mở hệ
đào tạo cử nhân, cao học chuyên ngành tôn giáo; biên soạn giáo trình để phục vụ
cho cơng tác bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo ở cơ sở. Bộ Khoa học,
Cơng nghệ và Mơi trường đầu tư kinh phí cho các cơng trình khoa học nghiên
cứu về tơn giáo ở cấp Nhà nước cũng như cấp thành phố.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng, xây dựng
lực lượng chính trị trong các vùng tơn giáo trọng điểm
Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (khóa VI) đã khẳng định rằng nội dung
cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, công tác đối với
con người. Bác Hồ cũng đã nói: “Dễ mười phần khơng dân cũng chịu, khó vạn
lần dân liệu cũng xong” [3, tr.178]. Điều đó có nghĩa là, quần chúng nhân dân
lao động có một vai trị, vị trí hết sức quan trọng, quyết định sự thành, bại của
cuộc đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước. Vì vậy, công tác vận động
22



quần chúng phải được đặt lên hàng đầu.
Tuyệt đại đa số quần chúng tín đồ tơn giáo ở thành phố Hồ Chí Minh là
nhân lao động, có tinh thần u nước, nhưng do bị bọn phản động, phần tử xấu
tuyên truyền lừa bịp, xuyên tạc nên có một bộ phận tín đồ cho rằng Cộng sản cấm
đạo; số này trở thành cuồng tín, dễ bị kích động lơi kéo vào các hoạt động chống
chính quyền. Vì vậy, u cầu của công tác vận động quần chúng là làm cho quần
chúng tín đồ tin tưởng vào chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước, để từ đó
họ hăng hái thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết
tâm tham gia công cuộc đổi mới do Đảng bộ và chính quyền địa phương lãnh đạo
thấy được âm mưu của địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng.
Trong công tác vận động quần chúng, phải chú ý khơi dậy và phát huy
lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm cơng dân của quần chúng. Do đó, phải tin
tưởng vào lịng u nước của quần chúng, khơng thành kiến và phải phân biệt rõ
những người do tư tưởng lạc hậu, cuồng tín mà câu kết với các phần tử phản
động cố tình chống đối.
Trong cơng tác vận động quần chúng, cần tranh thủ hàng ngũ chức sắc.
Đây là đội ngũ giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống đạo của các tôn giáo.
Làm tốt công tác tranh thủ chức sắc là biện pháp rất quan trọng trong việc hướng
lái đường hướng hoạt động của các tôn giáo trong giải quyết các vụ, việc phức
tạp liên quan đến tôn giáo. Làm tốt cơng tác tranh thủ chức sắc cịn có tác dụng
thiết thực trong cơng tác nắm tín đồ.
Vì vậy, phải tập trung bồi dưỡng tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc,
hướng dẫn cho mọi chức sắc biết và hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật hiện
hành của Nhà nước. Công tác đối với chức sắc cần phải thực hiện phương châm:
“Gần - Hiểu - Cảm hóa - Bồi dưỡng và Sử dụng”. Lôi kéo họ về với cách mạng,
khơng được đẩy chức sắc về phía bên kia để kẻ thù lôi kéo, lợi dụng nhằm phục
vụ cho mưu đồ chính trị phản động.


23


KẾT LUẬN
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có đơng tín đồ các tơn giáo cũng
như tình hình hoạt động của các tôn giáo diễn ra ngày càng phức tạp. Vì vậy,
Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố đã quan tâm đến đời sống tín ngưỡng,
tơn giáo của quần chúng tín đồ. Các ngành, các cấp đã tạo điều kiện cho tín đồ
có nơi thờ tự khang trang, đảm bảo đầy đủ kinh sách, đồ dùng việc đạo và có
chức sắc để hướng dẫn sinh hoạt tơn giáo. Chính quyền các cấp giúp đỡ giáo hội
các tơn giáo đào tạo, phong chức, bổ nhiệm và thuyên chuyển chức sắc, chức
việc; hướng dẫn các tôn giáo làm tốt cơng tác từ thiện nhân đạo. Bên cạnh đó,
cịn kiên quyết xử lý vi phạm pháp luật của một số cá nhân và tổ chức tôn giáo,
đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng tơn giáo chống
phá cách mạng. Do chính quyền thực hiện đúng đắn chính sách tơn giáo của
Đảng và Nhà nước nên quần chúng tín đồ và chức sắc các tôn giáo đã ủng hộ sự
nghiệp đổi mới, tin vào sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện tốt các chính sách của
địa phương.
Tuy nhiên, sự quản lý của Nhà nước đối với tơn giáo cịn bộc lộ nhiều
hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Do đó, cịn có một số
vấn đề bức xúc phải giải quyết cả về nội dung chính sách và cơng tác quản lý.
Hiện nay, tình hình tơn giáo trong nước nói chung và thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng đang diễn ra phức tạp. Các thế lực thù địch đang tìm mọi cách để kích
động các tơn giáo chống lại Nhà nước. Để đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo
của quần chúng tín đồ và đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hịa bình”
của địch, thành phố Hồ Chí Minh sẽ tập trung thực hiện các giải pháp đã nêu
trên. Các giải pháp trên có mối quan hệ với nhau, làm cơ sở cho nhau góp phần
thực hiện tốt chính sách tơn giáo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.

24



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011.
4. Nguyễn Văn Tài (2018), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo
đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
5. Trần Minh Tùng (2019), Đổi mới quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Đại học quốc
gia, Hà Nội.

25


×