Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.54 KB, 16 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI.
I. VAI TRÒ CỦA ĐẤT ĐAI TRONG SẢN XUẤT, ĐỜI SỐNG VÀ PHÂN LOẠI
ĐẤT.
1. Vai trò của đất đai trong sản xuất và đời sống.
Đất đai do tự nhiên tạo ra, có trước con người và là cơ sở để tồn tại và phát triển
của xã hội loài người. Sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người cho thấy đất đai
là một tài nguyên vô giá và chứa đựng sẵn trong đó các tiềm năng của sự sống, tạo
điều kiện cho sự sống của thực vật, động vật và con người trên trái đất. Chính vì
vậy,đất đai có vai trò ngày càng quan trọng. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt,
tham gia vào hoạt động của đời sống Kinh tế xã hội, có vị trí có định, không di
chyển được cũng không thể tạo ra thêm tuy nhiên đất đai lại có khả năng tái tạo
thông qua độ phì của đất. Con người không thể tạo ra đất đai nhưng bằng lao động
của mình con người tác động vào đất, cải tạo đất để tạo ra các sản phẩm cần thiết
phục vụ cho cuộc sống của con người. Vì thế đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên
lại vừa là sản phẩm của lao động. Luật đất đai năm 1993 đã khẳng định vai trò to
lớn của đất đai như sau: “ Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu
sản xuất đặc biệt, là thành phàn quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa
bàn phân bố khu dân cư, xây dựng các cơ sở hạ tầng xã hội, an ninh quốc
phòng…” Đối với mỗi lĩnh vực, đất đai lại có vai trò quan trọng khác nhau. Trong
ngành nông nghiệp, đất đai có vai trò đặc biệt quan trọng, nó vừa là đối tượng lao
động, vừa là tư liệu lao động. Con người khai phá đất hoang để chăn nuôi trồng
trọt, cũng nhờ có đất mà cây trồng mới có thể sinh trưởng và phát triển được, cung
cấp lương thực thực phẩm để nuôi sống con người. Cho nên nếu không có đất, các
hoạt động sản xuất nông nghiệp sẽ không thể tiến hành được. Trong công nghiệp
và các ngành khai khoáng, đất được khai thác để làm gạch ngói, đồ gốm phục vụ
cho ngành xây dựng. Đất còn làm nền móng, là địa điểm để tiến hành các hoạt
động thao tác, là chỗ đứng cho công nhân trong sản xuất công nghiệp. Trong cuộc
sống, đất đai còn là địa bàn phân bố khu dân cư, là nơi để con người xây dựng nhà
ở, hệ thống đường sá giao thông, các toà nhà cao tầng, các công trình văn hoá kiến
trúc tạo nên bộ mặt tổng thể của một quốc gia. Ngoài ra, đất đai còn là nơi để xây


dựng các tụ điểm vui chơi giải trí, thể dục thể thao, xây dựng các di tích lịch sử,
các danh lam thắng cảnh để thoả mãn nhu cầu cuộc sống hàng ngày của con người.
Mặt khác, đất đai còn là bộ phận lãnh thổ quốc gia. Nói đến chủ quyền của một
quốc gia là phải nói đến sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia đó. Để bảo vệ toàn vẹn
lãnh thổ, nhà nước phải sử dụng quyền lực của mình để bảo vệ đất đai, ngăn chặn
sự xâm lấn của các thế lực bên ngoài. Trải qua các cuộc đấu tranh dựng nước và
giữ nước, đất đai của nước ta ngày nay là thành quả của bao thế hệ đã hi sinh
xương máu, dày công vun đắp mới có được. Từ đó đất đai trở thành giá trị thieng
liêng và vô cùng quý giá, đòi hỏi chúng ta phải giữ gìn, sử dụng hợp lý đất đai.
Vai trò to lớn của đất đai chỉ có thể phát huy một cách đầy đủ khi mà có sự tác
động tích cực của con người một cách thường xuyên. Nếu như con người sử dụng,
khai tháckiệt quệ độ phì nhiêu của đất mà không bồi dưỡng cải tạo đất thì vai trò to
lớn của đất đai sẽ không thể được phát huy. Sự hạn chế về mặt diện tích đất cùng
với sự hạn chế trong việc khai thác tiềm năng đất do tiến bộ khoa học kỹ thuật đòi
hỏi con người phải biết tính toán đánh giá đầy đủ về đất đai để có thể khai thác
hiệu quả nhất.
2. Phân loại đất:
Phân loại đất để phục vụ cho mục tiêu quản lý, khai thác sử dụng cho từng mục
đích cụ thể. Mục đích của phân loại là nắm vững tính chất đặc điểm của từng loại
đấ, thực trạng khai thác quản lý sử dụng đất để tìm ra những biện pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng từng loại đất.
Đất đai ở nước ta bao gồm nhiều loại. Điều 11 luật đất đai năm 1993 quy định:
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, đất được phân thành các loại sau đây:
- Đất nông nghiệp.
- Đất lâm nghiệp.
- Đất khu dân cư nông thôn.
- Đất đô thị.
- Đất chuyên dùng.
- Đất chưa sử dụng.
Mỗi loại phải được bảo vệ, bồi dưỡng để không ngừng nâng cao giá trị của đất và

nhà nước đều phải quản lý theo từng loại để tránh việc chuyển đổi mục đích sử
dụng một cách tuỳ tiện.
a. Đất nông nghiệp:
Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông
nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm
về nông nghiệp. Đất nông nghiệp vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động
cho nên nó có vai trò hết sức quan trọng để tạo ra lương thực thực phẩm nuôi sống
con người. Trên địa bàn thành phố Hà Nội, đất nông nghiệp chủ yếu tập trung ở
năm huyện ngoại thành là Gia Lâm, Đông Anh, Thanh Trì, Sóc Sơn, Từ liêm. Đất
nông nghiệp cũng hình thành một loại quỹ đất và có sự biến động theo hướng sau:
- Do quá trình đô thị hoá, do sự phát triển cả hệ thống kết cấu hạ tầng nông
thôn, sự hình thành các trung tâm công nghiệp mới làm cho quỹ đất nông
nghiệp ngày càng thu hẹp lại. Đây là xu hướng diễn ra phổ biến hiện nay,
không chỉ ở trên địa bàn thàmh phố Hà Nội mà còn diễn ra trên phạm vi toàn
quốc. Nhưng vấn đề đặt ra là cần phải bố trí sắp xếp địa điểm xây dựng đô
thị và các khu công nghiệp như thế nào để không ảnh hưởng đến việc sản
xuất nông nghiệp. Mặt khác, do sức ép về lao động và việc làm, do dân số
ngày càng tăng nên phải cung cấp một lượng nông sản đủ lớn trong khi đó
quỹ đất nông nghiệp ngày càng giảm. Chính vì vậy việc khai khẩn đất
hoang, đất chưa sử dụng là mọt việc làm tích cực để mở rộng diện tích đất
nông nghiệp.
Quỹ đất nông nghiệp được cấu thành từ các loại đất khác nhau tuỳ theo mục đích
sử dụng. Khi mục đích sử dụng đất nông nghiệp thay đổi làm cho số lượng loại đất
này tăng lên, loại đất kia giảm đi. Vì vậy quỹ đất nông nghiệp cũng có sự biến
dộng trong nội bộ của nó theo hướng: Giảm dần diện tích trồng cây lương thực để
chuyển sang trồng các loại cây trồng khác. Diện tích đất nông nghiệp sẽ được tăng
cường cho ngành sản xuất nào đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Sự tiến bộ của
khoa học kĩ thuật đã tác động đến vấn đề này. Trước đây do trình độ sản xuất thấp
cho nên người ta đã phải trồng cây lương thực trên trên hầu hết quỹ đất nông
nghiệp để đáp ứng nhu cầu luơng thực cho mọi tầng lớp nhân dân. Nhưng khi áp

dụng khoa học kĩ thuật, người ta có thể tạo ra những cây trồng vật nuôi có giá trị
kinh tế cao, thay thế cho những cây trồng có giá trị thấp. Đất nông nghiệp được
phân thành các loại sau:
- Theo thời hạn canh tác của từng loại cây trồng:
+ Đất trồng cây hàng năm.
+ Đất trồng cây lâu năm.
- Theo công dụng của đất:
+ Đất trồng cây lương thực.
+ Đất trồng cây thực phẩm.
+ Đất trồng cây công nghiệp.
+ Đất trồng cây dược liệu,cây cảnh.
+ Đất đồng cỏ.
+ Đất trồng cây ăn quả.
+ Đất chăn nuôi.
- Theo tiêu chuẩn phân hạng đất:
+ Đất trồng cây hàng năm được phân ra làm 6 hạng.
+ Đất trồng cây lâu năm được phân ra làm 5 hạng.
+ Căn cứ phân hạng đất theo nghị định 73CP là:
Chất đất.
Vị trí.
Địa hình.
Điều kiện tưới tiêu.
Nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế quan trọng tronng nền kinh tế quốc dân.
Chính vì thế quản lý đất nông nghiệp phải được chú trọng và quan tâm chặt chẽ để
nhằm phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Thực hiện đa canh, đa dạng hó a
sản phẩm, kết hợp nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu đạt hiệu quả cao.
b. Đất lâm nghiệp:
Đất lâm nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất lâm
nghiệp, gồm đất có rừng tự nhiên, đất đang có rừng trồng và đất để sử dụng vào

mục đích lâm nghiệp như trồng rừng, khoanh nuôi bảo vệ rừng để phuc hồi tự
nhiên, nuôi dưỡng làm giàu rừng, nghiên cứu thí nghiệm về lâm nghiệp.
Rừng không những tạo môi trường sinh thái cân bằng, điều hoà khí hậu dòng
chảy mà còn cung cấp cho con nguời những loại gỗ quý, những cây dược liệu có
giá trị cao, các loài động vật quý hiếm và hệ thực vật đa dạng phong phú.
Ở thành phố Hà Nội, đất lâm nghiệp còn chiếm một tỉ lệ nhỏ trong diện tích
đất tự nhiên của toàn thành phố và chủ yếu phân bố ở huyện Sóc Sơn. Ở khu vực
nội thành còn có hệ thốngcông viên cây xanh, cây xanh sinh thái ở các đường
phốcó tác dụng làm giảm bớt sự ô nhiễm của thành phố.
Trong những năm gần đây, việc khai thác sử dụng đất lâm nghiệp trên toàn địa
bàn thành phố đã có nhiều tiến bộ theo trào lưu chung của công cuộc đổi mới. Sự
tiến bộ của khoa học kĩ thuật đã có tác dụng tích cực đến việc khai thác đất lâm
nghiệp, việc nhân giống cây trồng, lựa chọn cây trồng phù hợp với từng vùng đã
đem lại nhứng hiệu quả to lớn trong việc trồng rừng. Nhưng diện tích rừng vẫn có
xu hướng giảm xuống nhất là ở khu vực có đất lâm nghiệp điển huyện là ở huyện
Sóc Sơn. Xu hướng biến đổi tích cực như chuyển một bộ phận đất lâm nghiệp sang
trồng rừng, cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả, thúc đẩy việc hình thành
những vùng nông thôn mới, hình thành quan hệ chặt chẽ giữa nông nghiệp với lâm
nghiệp. Sự biến đổi tiêu cực của đất lâm nghiệp như diện tích đất trống đồi trọc
ngày càng tăng, khai thác rừng bừa bãi làm trữ lượng các cây gỗ quý và các loài
động vật quý hiếm ngày càng giảm, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường
sinh thái.
Quỹ đất lâm nghiệp có đặc điểm:
- Phân bố ở vùng trung du miền núi, dân cư thưa thớt, cơ sở hạ tầng kém phát
triển gây khó khăn cho việc khai thác đất lâm nghiệp.
- Địa hình phức tạp, độ dốc lớn, chất đất không đồng đều.
- Nhiều vùng vẫn còn đất trống đồi trọc trơ sỏi đá chưa được phủ xanh.
- Bình quân diện tích đất lâm nghiệp / đầu người thấp.
Đất lâm nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội chủ yếu do ban Quản lý rừng
phòng hộ, rừng đăc dụng và UBND huyện Sóc Sơn quản lý.

c. Đất khu dân cư nông thôn:
Đất khu dân cư nông thôn là đất thuộc vùng nông thôn được sử dụng để xây
dựng nhà ở và các công trình phục vụ cho sinh hoạt ơ nông thôn. Ngoài ra một bộ
phận đáng kể đất khu dân cư nông thôn dùng cho chăn nuôi như gà, lợn, trâu bò…
Đất ở của hộ gia đình nông dân là đất để làm nhà ở, chuồng trại chăn nuôi, kho
tàng nhà xưởng.
- Đất khu dân cư nông thôn có vai trò quan trọng trong sản xuất và đời sống
của người dân.
+ Đối với sản xuất: Đất khu dân cư nông thôn là địa điểm để chăn nuôi và trồng
trọt trong phạm vi diện tích của mỗi gia đình nông thôn. Đất khu dân cư nông
thôn còn là nơi để xây dựng nhà ở đảm bảo các yêu cầu cuộc sống của người
nông dân, để có thể tái sản xuất sức lao động phục vụ cho các quá trình sản xuất
tiếp theo.
+ Đối với đời sống: Đất khu dân cư nông thôn là địa điểm để xây dựng các
công trình văn hoá vui chơi giải trí, thoả mãn các nhu cầu sinh hoạt của người
dân. Quá trình đô thị hoá cùng với những tác động của cơ chế thị trường cũng
làm cho đất khu dân cư nông thôn có nhiều biến động. Một bộ phận diện tích
đất khu dân cư nông thôn chuyển sang đất đô thị để xây dựng hệ thống cơ sở hạ
tầng như đường sá giao thông, các khu công nghiệp, khu chế xuất, các khu nhà
cao tầng. Điều đó làm cho bộ mặt khu dân cư nông thôn có nhiều thay đổi tích
cực, làm rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Nhưng nó cũng
mang lại những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Đó là do quá trình đô
thị hoá làm cho giá đất ngày càng tăng dẫn đến người dân ở khu vực nông thôn
bán nhà bán đất, làm xáo trộn cuộc sống của họ, làm nảy sinh các cuôc tranh
chấp đất đai ở nông thôn.
Đất khu dân cư nông thôn phải được quy hoạch để sử dụng một cách hợp lý,
sắp xếp địa điểm không gian cho phù hợp với từng mục đích sử dụng. Hệ thống
đường sá, trường học, bệnh viện … phải được bố trí gần nơi ở của người dân.

×