Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Bài tiểu luận Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xhcn ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.46 KB, 24 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
___oOo___

TIỂU LUẬN MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Ngọc Diệp
Lớp: H2105HCMI0131
Nhóm : 7

Hà Nội, tháng 6 năm 2021


MỤC LỤC

I.MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 2
II. NỘI DỤNG................................................................................................................... 3
2.1 Thành phần kinh tế nhà nước và vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong
định hướng XHCN ở VN:.............................................................................................3
2.1.1 Lý luận chung về thành phần kinh tế Nhà nước.............................................3
2.1.2 Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong định hướng XHCN ở Việt
Nam............................................................................................................................. 5
2.2 Thực trạng vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.......................................................................7
2.2.1. Tiến trình phát triển.........................................................................................7
2.2.2 Những thành tựu đã đạt được:.......................................................................12
2.2.3 Tồn tại và yếu điểm của thành phần kinh tế nhà nước................................13
2.2.4. Vai trò thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta..........................................................................14


2.3 Một số giải pháp cơ bản để tiếp tục khẳng định và phát huy vai trò chủ đạo của
khu vực kinh tế nhà nước...........................................................................................17
III. KẾT LUẬN............................................................................................................... 19

2


I.MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và đang phát huy sức mạnh
tổng hợp của các thành phần kinh tế, kết hợp nội lực với ngoại lực để phát triển nhanh
hơn. Cùng với sự hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trải
qua các kỳ đại hội đảng, quan niệm về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
cũng có sự thay đổi cho phù hợp với từng hồn cảnh lịch sử. Theo đó, nội hàm của khái
niệm kinh tế nhà nước cũng thay đổi theo. Tuy nhiên, vai trò chủ đạo của thành phần kinh
tế này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về cơ bản vẫn được giữ
vững. Sau hơn 30 năm phát triển thành phần kinh tế nhà nước, trong đó có DNNN, nền
kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng kể. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội VI
(năm 1986), Đảng ta bắt đầu thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, trong đó
khẳng định vai trị chủ đạo thuộc về khu vực kinh tế nhà nước (thời điểm đó gọi là kinh tế
quốc doanh). Đảng chỉ đạo: “Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả
kinh tế quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện… làm cho thành phần kinh tế
này giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân. Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta chủ
trương củng cố vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước (KTNN): “Khẩn trương sắp
xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có
hiệu quả, nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế. Tập trung lực lượng củng cố và phát triển những cơ sở kinh tế trọng điểm,
những cơ sở làm ăn có hiệu quả và có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) cũng khẳng
định: “Phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Kinh tế quốc doanh giữ vai trị chủ đạo. Kinh tế tập thể khơng ngừng được củng cố

và mở rộng.

3


II. NỘI DỤNG
2.1 Thành phần kinh tế nhà nước và vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong định
hướng XHCN ở VN:
2.1.1 Lý luận chung về thành phần kinh tế Nhà nước
Khái niệm thành phần kinh tế Nhà nước: TPKTNN là thành phần kinh tế dựa
trên cơ sở quan trọng là sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất mà Nhà nước là đại diện.
Trước đây thành phần kinh tế gọi là thành phần kinh tế quốc doanh.
Chỉ có sở hữu Nhà nước với tư cách một lực lượng kinh tế , một chủ thể kinh tế trong nền
kinh tế thị trường mới là sở hữu thuộc TPKTNN. Cơ sở hình thành là dựa trên sự sở hữu
công cộng mà nhà nước là chủ đại diện
Các yếu tố cấu thành nên thành phần kinh tế Nhà nước
Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước: Đây là tổ chức kinh tế mà vốn đầu tư ban đầu
100% là của Nhà nước. Các doanh nghiệp này hoạt động dưới sự kiểm soát và chi phối
của nhà nước. nhà nước dự vào sự chi phối các doanh nghiệp để lấy đó làm căn cứ , cơng
cụ can thiệp tích cực vào nền kinh tế , định hướng nền kinh tế phát triển cân đối và hiệu
quả cao. Là yếu tố quan trọng nhất,là bộ phận quan trọng do nhà nước đầu tư vốn.
Hệ thống tài chính của Nhà nước: nhà nước đóng vai trị to lớn, đảm bảo cơng
bằng , nên tài chính nhà nước trở thành lực lượng đáng kể . từ ngân sách nhà nước có thể
hình thành các luồng đầu tư khác nhau như đầu tư vào doanh nghiệp ngồi quốc doanh để
thu lãi, cho vay tín dụng,… trong nền kinh tế hiện đại ,khi vốn là một trong những nguồn
lực sản xuất chủ yếu thì phần tài chính Nhà nước trở thành một lực lượng kinh tế lớn.
Hệ thống dự trữ , tài nguyên , đất đai, vùng biến thuộc sở hữu nhà nước : do đặc
thù nước ta tồn bộ đất đai,mặt biển và khơng phận đều thuộc sở hữu nhà nước . Dù mục
đích sử dụng có khác nhau nhưng khơng thể phủ nhận sở hữu đất đai , mặt biển,..đã làm
4



cho nhà nước là chủ thể kinh tế mạnh. Không chỉ có khả năng tham gia vào q trình
kinh tế mà cịn đóng vai trị điều tiết, định hướng và kiểm sốt các q trình đó.
Hệ thống dịch vụ Nhà nước: Cả dịch vụ thu phí và khơng thu phí . dịch vụ làm
thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người , làm tăng chất lượng cuộc sống con người. Việc
cung cấp dịch vụ làm tác động vào thị trường và thị trường tác động đến nền kinh tế, làm
tiềm lực kinh tế phát triển.
Các đặc trưng của thành phần kinh tế nhà nước:
Nhận thức được những vấn đề cơ bản trên đây, Đảng ta đã đề ra đường lối xây
dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thay cho cơ chế kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp – một cơ chế được xây dựng trong điều kiện cơ sở vật chất và trình độ
phát triển còn lạc hậu đã làm triệt tiêu những động lực của nền kinh tế, gây ra tình trạng
lạc hậu trì trệ ở nước ta trước đổi mới. Bởi vậy, đường lối đó của Đảng ta trong thời kì
đổi mới đã tạo ra một bước chuyển mình quan trọng đối với kinh tế - xã hội của đất nước
là nền kinh tế có nhiều thành phần tham gia. Đối với thành phần Kinh tế nhà nước gồm
có các thành phần riêng là Các doanh nghiệp nhà nước, Quỹ dự trữ quốc gia, Bảo hiểm
nhà nước , tài nguyên,... và có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, nổi bật nhất của thành phần KTNN là nó thuộc sở hữu của Nhà nước.
Tuy nhiên ở đây ta phải phân biệt rõ ràng giữa phạm trù sở hữu Nhà nước với phạm trù
quyền sử dụng của thành phần KTNN. Sở hữu Nhà nước là một phạm trù rộng lớn hơn
nếu ta đem so sánh với phạm trù KTNN với lý do: Đã nói đến thành phần KTNN thì
trước hết nó phải thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Nhưng sở hữu của Nhà nước có thể
do các thành phần kinh tế khác sử dụng, ví dụ như đất đai là tài sản mà Nhà nước đại điện
cho toàn dân về sở hữu, nhưng kinh tế hộ gia đình (cá thể tiểu chủ), các hợp tác xã nông
nghiệp, hay doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác vẫn được Nhà nước giao quyền
sử dụng đất lâu dài, chính việc này đã giải thích được việc mua bán đất đai trên thị trường
hiện nay. Về thực chất thì đây chỉ là việc mua bán quyền sử dụng đất bởi vì đất đai là sản
phẩm của tự nhiên con người khơng thể tiến hành sản xuất ra nó được. Và ngược lại

những tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước thì khơng hẳn đã phải là do thành phần
5


KTNN sử dụng, mà các thành phần kinh tế khác vẫn có thể sử dụng. Ví dụ như việc Nhà
nước góp vốn, cổ phần ở các thành phần kinh tế khác thơng qua việc liên doanh, liên kết
mà từ đó hình thành nên thành phần kinh tế tư bản Nhà nước.
Thứ hai, thành phần KTNN là các doanh nghiệp Nhà nước được tổ chức hoạt động
sản xuất, kinh doanh theo ngun tắc hạch tốn kinh tế, xóa bỏ dần sự bao cấp của Nhà
nước.
Thứ ba, nữa là trong thành phần KTNN thực hiện phân phối theo lao động và theo
hiệu quả sản xuất kinh doanh, đây là một đặc điểm rất quan trọng của các doanh nghiệp
thuộc thành phần KTNN, là hình thức phân phối căn bản và là nguyên tắc phân phối chủ
yếu, thích hợp với các thành phần dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta
hiện nay.

2.1.2 Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong định hướng XHCN ở Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và đang phát huy sức mạnh
tổng hợp của các thành phần kinh tế, kết hợp nội lực với ngoại lực để phát triển nhanh
hơn. Cùng với sự hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trải
qua các kỳ đại hội đảng, quan niệm về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
cũng có sự thay đổi cho phù hợp với từng hồn cảnh lịch sử. Theo đó, nội hàm của khái
niệm kinh tế nhà nước cũng thay đổi theo. Tuy nhiên, vai trò chủ đạo của thành phần kinh
tế này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về cơ bản vẫn được giữ
vững.
Sự nhất quán của Đảng ta về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta bắt đầu thừa nhận sự tồn tại
của nhiều thành phần kinh tế, trong đó khẳng định vai trị chủ đạo thuộc về khu vực kinh
tế nhà nước (thời điểm đó gọi là kinh tế quốc doanh). Đảng chỉ đạo: “Củng cố thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả kinh tế quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn

diện… làm cho thành phần kinh tế này giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân…

6


Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác
trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”1.
Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta chủ trương củng cố vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế
nhà nước (KTNN): “Khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh, bảo
đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững những lĩnh vực và ngành then
chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Tập trung lực lượng củng cố và phát
triển những cơ sở kinh tế trọng điểm, những cơ sở làm ăn có hiệu quả và có ý nghĩa lớn
đối với nền kinh tế quốc dân”
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
1991) cũng khẳng định: “Phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và mở rộng…”
Tổng kết thực tiễn 10 năm đổi mới, để phù hợp với sự biến đổi của đời sống kinh
tế - xã hội, Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) lần đầu tiên trong lịch sử đã thay thế cụm
từ kinh tế quốc doanh bằng cụm từ kinh tế nhà nước: "Chủ động đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ
đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng…"4. Cũng từ đây, nội hàm
của khái niệm KTNN được mở rộng hơn, bao quát được toàn bộ các hoạt động quản lý tài
nguyên của đất nước; những cơ sở hạ tầng trọng điểm; các loại quỹ của quốc gia; bộ phận
doanh nghiệp nhà nước (DNNN), bao gồm cả doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp
kinh doanh…
Đại hội IX, X, XI cũng thống nhất: “KTNN giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể
không ngừng được củng cố và phát triển. KTNN cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân…”
Về cơ bản nhất quán với các chủ trương trước đó, theo tinh thần Đại hội XII: "Nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó KTNN giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng
của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh
theo pháp luật”6. Nếu ở Đại hội X, khu vực kinh tế tư nhân được đánh giá là “một trong
7


những động lực” thì đến Đại hội XII, vai trị của khu vực kinh tế tư nhân đã được Đảng ta
tiếp tục đánh giá cao hơn: kinh tế tư nhân là “một trong những động lực quan trọng”. Tuy
vậy, vai trò chủ đạo vẫn thuộc khu vực KTNN.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
vào điều kiện cụ thể của đất nước, trải qua 6 kỳ Đại hội, Đảng ta đã khẳng định nhất quán
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó
KTNN giữ vai trị chủ đạo. Điều đó xuất phát từ lợi ích của đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, là “hòn đá thử vàng” để xem xét sự đúng hướng hay chệch hướng xã
hội chủ nghĩa trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Sau hơn 30 năm tiến hành sự
nghiệp đổi mới, nền kinh tế nước ta tăng trưởng liên tục ở mức khá. Thành tựu đó trước
hết là nhờ đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng.

2.2 Thực trạng vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
2.2.1. Tiến trình phát triển
* Trước đổi mới
Thời kỳ 1945-1954: là giai đoạn khó khăn nhất, gian khổ nhất vì vừa phải kháng
chiến chống giặc, vừa phát triển kinh tế trong điều kiện nghèo nàn, thiếu thốn.
Kinh tế nơng thơn và sản xuất nơng nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng trong giai
đoạn này. Cùng với việc động viên nơng dân tích cực tăng gia sản xuất, Chính phủ đã
từng bước thực hiện các chính sách về ruộng đất như giảm tơ, giảm tức. Với chính sách
toàn dân tăng gia sản xuất, lại được sự giúp đỡ tận tình của Chính phủ, các cơ quan, các

đơn vị bộ đội nên nông nghiệp trong suốt thời kỳ kháng chiến được bảo đảm ổn định và
cung cấp đủ lương thực cho kháng chiến. Trong các vùng giải phóng, sản xuất nông
nghiệp phát triển, sản lượng lương thực năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với
năm 1946. Nơng nghiệp đã hồn thành sứ mệnh là nền tảng của kinh tế kháng chiến với
những đóng góp to lớn giải quyết nạn đói các năm 1945, 1946.
Cơng nghiệp và thủ công nghiệp kháng chiến được xây dựng, đặc biệt là cơng
nghiệp quốc phịng đã góp phần khơng nhỏ đáp ứng nhu cầu chiến đấu và tiêu dùng. Từ
8


năm 1946-1950 đã sản xuất 20 nghìn tấn than cốc, 800 kg ăng-ti-moan; từ năm 1950 đến
cuối năm 1952 sản xuất được 29,5 tấn thiếc; 43 tấn chì; những năm 1950-1954 sản xuất
được 169,3 triệu mét vải; 31,7 nghìn tấn giấy…
Chính sách khuyến khích mở rộng việc bn bán của Chính phủ đã làm hàng hóa
được lưu thơng tự do trong tồn quốc. Theo đó, một số văn bản pháp lý như Nghị định
của Chính phủ ngày 02/10/1945 về bãi bỏ các luật lệ hạn chế kinh doanh dưới thời Pháp,
Nhật; Sắc lệnh của Chủ tịch nước ngày 22/9/1945 về xóa bỏ các tổ chức độc quyền kinh
doanh của người Pháp, Nghị định ngày 19/9/1945 của Bộ Quốc dân Kinh tế về xóa bỏ tất
cả mọi hạn chế lưu thơng hàng hóa thơng thường cho kinh tế và đời sống như gỗ, giấy,
lương thực, thực phẩm.
Thời kỳ 1955-1975: Khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, thực hiện các
chỉ tiêu trong Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm lần thứ nhất
Trong thời kỳ này, Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5
năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, xây
dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành
công nghiệp và nơng nghiệp. Năm 1975, GDP bình qn đầu người đạt 232 đồng, tương
đương 80 USD.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, năm 1975 có 17 nghìn hợp tác xã nơng nghiệp, tăng
12,2 nghìn hợp tác xã so với năm 1958; sản lượng lương thực quy thóc đạt 5,49 triệu tấn,

tăng 1,73 triệu tấn so với năm 1955; năng suất lúa đạt 21,1 tạ/ha, tăng 5,2 tạ/ha; đàn lợn
có 6,6 triệu con, tăng 4,2 triệu con.
Sản xuất công nghiệp từng bước được khôi phục và phát triển với đường lối cơng
nghiệp hóa, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp được phục hồi và xây dựng. Năm 1975, giá
trị tổng sản lượng công nghiệp đạt 4.175,4 tỷ đồng, gấp 13,8 lần năm 1955; bình quân
năm trong giai đoạn 1956 -1975 tăng 14%/năm.
Thương nghiệp quốc doanh được nhà nước quan tâm và có sự phát triển nhanh
chóng, làm nhiệm vụ hậu cần cho sản xuất và chiến đấu. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã
hội năm 1975 đạt 5.358,3 triệu đồng, gấp 7,8 lần năm 1955.
9


Thời kỳ 1976-1985: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp
Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp
lệnh được giao. Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1977-1985
tăng 4,65%, trong đó: nơng, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; cơng nghiệp tăng 5,54%/năm và
xây dựng tăng 2,18%/năm. Theo loại hình sở hữu, sở hữu quốc doanh tăng 4,29%; sở hữu
tập thể tăng 10,26% và sở hữu tư nhân, cá thể tăng 0,71%. Nhìn chung, tăng trưởng kinh
tế trong thời kỳ này thấp và kém hiệu quả.
Nông, lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP trong giai đoạn
này), nhưng chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước.
Công nghiệp được dồn lực đầu tư nên có mức tăng khá hơn nơng nghiệp, nhưng tỷ
trọng trong tồn nền kinh tế còn thấp (chiếm 39,74% GDP), chưa là động lực để thúc đẩy
nền kinh tế tăng trưởng.
Thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng, hợp tác xã tuy ở thời kỳ đầu
xây dựng, nhưng đã có những bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường, nhờ đó hạn chế được
nạn đầu cơ, tích trữ và tình trạng hỗn loạn về giá cả. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội
bình qn thời kỳ này tăng 61,6%/năm.

Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung – cầu (thiếu hụt nguồn cung),
đồng thời do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, là những nguyên
nhân dẫn đến chỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân giai đoạn 1976-1985 chỉ số giá bán
lẻ tăng 39,53%/năm.
Ở miền Bắc, mặc dù thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình cơng
nhân viên chức tăng từ 27,9 đồng năm 1976 lên đến 270 đồng năm 1984; thu nhập bình
quân đầu người một tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng từ 18,7 đồng
lên đến 505,7 đồng, nhưng do lạm phát cao, nên đời sống nhân dân hết sức khó khăn,
thiếu thốn.
* Sau đổi mới
Giai đoạn 1986-2000: Thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế.
10


Chính sách Đổi mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản
Việt Nam lần VI, năm 1986. Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, Nhà
nước bắt đầu có một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước
ta đã thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao
cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn 1986-2000: Thời kì thực hiện đường lối đổi mới kinh tế
Trong thời kỳ nay, tổng sản phẩm trong nước bình qn mỗi năm tăng 6,51%;
trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%; khu vực công nghiệp và xây
dựng tăng 9,06%; khu vực dịch vụ tăng 6,66%. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch
theo hướng đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hố. Năm 2000, tỷ trọng khu vực nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 24,53% GDP, giảm 13,53 điểm phần trăm so với năm 1986;
khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,73%, tăng 7,85 điểm phần trăm; khu vực dịch
vụ chiếm 38,74%, tăng 5,68 điểm phần trăm. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là đúng
hướng và phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.

Sản xuất cơng nghiệp đi dần vào thế phát triển ổn định với tốc độ tăng bình quân
mỗi năm trong thời kỳ 1986-2000 đạt 11,09%. Những sản phẩm công nghiệp quan trọng
phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả về số lượng và chất lượng. Sản
lượng điện năm 2000 gấp 4,7 lần so với năm 1986; sản lượng xi măng gấp 8,7 lần; thép
cán gấp 25,6 lần; thiếc gấp 3,6 lần. Sản lượng dầu thơ đã tăng từ 41 nghìn tấn năm 1986
lên gần 7,1 triệu tấn năm 1994 và 16,3 triệu tấn năm 2000. Các cơ sở sản xuất công
nghiệp đã quan tâm hơn đến chất lượng sản phẩm, không ngừng cải tiến mẫu mã, áp dụng
công nghệ tiên tiến và thay đổi phương án sản xuất theo yêu cầu của thị trường.
Giai đoạn 2001 đến nay: Thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng
Trong thời kỳ này, đất nước ta thực hiện hai chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
là Chiến lược 2001-2010 và Chiến lược 2011-2020 nhằm xây dựng nước Việt Nam “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo phương châm “Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế trên nguyên
11


tắc tơn trọng độc lập chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi, khơng can
thiệp cơng việc nội bộ, cùng phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”.
Số doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước ở Việt Nam từ chỗ có hơn 12.000, đến năm
2001 giảm xuống còn 5.655 doanh nghiệp, và đến thời điểm tháng 10 năm 2016 chỉ còn
718 doanh nghiệp. Theo kế hoạch của chính phủ Việt Nam, đến năm 2020, Việt Nam chỉ
còn 103 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước chủ yếu ở các ngành cơng nghiệp quốc
phịng, xuất bản, thủy lợi, dịch vụ cơng cộng và một số tập đồn lớn quan trọng đối với
nền kinh tế chủ yếu thuộc các ngành độc quyền tự nhiên như Dầu khí, Điện lực và Viễn
thông
Kinh tế liên tục tăng trưởng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước
vào nhóm nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp. Quy mô nền kinh tế
ngày càng mở rộng, GDP năm 2019 gấp 12,5 lần năm 2001. Tốc độ tăng GDP tương đối
cao, bình quân năm trong giai đoạn 2001-2010 tăng 7,26%, đạt xấp xỉ tốc độ tăng
7,56%/năm của Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 1991-2000, đây là một

thành tựu phát triển kinh tế rất quan trọng của đất nước ta trong giai đoạn này. Trong giai
đoạn 2011-2019, GDP tăng 6,3%/năm, trong đó năm 2018 tăng 7,08% và là mức tăng cao
nhất kể từ năm 2008. Cơ cấu kinh tế nước ta đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện
đại. Tỷ trọng các ngành, trình độ cơng nghệ sản xuất, cơ cấu lao động đã chuyển dịch theo
hướng tích cực; tỷ trọng lao động qua đào tạo của các ngành kinh tế đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế.
Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, đưa nước ta hội nhập
ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực và thế giới. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa ngoại
thương thực hiện trong giai đoạn 2011-2019 đạt 3.100,3 tỷ USD, gấp 20,2 lần giai đoạn
1991-2000 và gấp 3,6 lần giai đoạn 2001-2010. Tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so
với GDP từ 112,5% năm 2000 tăng lên 142,2% năm 2005; 152,2% năm 2010 và 210,4%
vào năm 2019. Điều này cho thấy nền kinh tế nước ta có độ mở ngày càng cao và tăng lên
tương đối nhanh, nước ta đã khai thác được thế mạnh của kinh tế trong nước và tranh thủ
được thị trường thế giới. Kể từ khi thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài từ năm 1988, thu
hút đầu tư nước ngoài vào nước ta đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Năm 2019, số
dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 4.028 dự án với tổng số vốn đăng ký đạt 38.951,7
12


triệu USD, tương ứng gấp 19,1 lần và 24,3 lần so với giai đoạn 1988-1990. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho sự phát triển kinh tế- xã hội,
có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao năng lực quản lý và trình độ
cơng nghệ cho nền kinh tế. Đặc biệt, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy
việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên
thế giới.
2.2.2 Những thành tựu đã đạt được:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi Mới,
thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị trường.
Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.

Sau nhiều năm phát triển thành phần kinh tế nhà nước, trong đó có doanh nghiệp
nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng kể. Hệ thống doanh nghiệp
nhà nước qua nhiều lần sắp xếp, chuyển đổi từng bước được củng cố và đóng góp vào
thành tựu của q trình đổi mới. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đứng vững trên thị trường,
sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nắm các ngành kinh tế then chốt, đóng góp lớn cho
ngân sách.
Hiện nay, doanh nghiệp nhà nước vẫn đang là trụ cột hàng đầu của nền kinh tế,
đóng góp tới 28,8% GDP. Vấn đề sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, hay gần đây
được sử dụng với thuật ngữ là tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đang được đặt ra.
Năm 2001, Nhà nước có khoảng 6.000 doanh nghiệp nhà nước, đến năm 2011 chỉ còn
1.369 doanh nghiệp nhà nước và đến hết tháng 10-2016 chỉ còn 718 doanh nghiệp nhà
nước. Nếu thời điểm năm 2001, doanh nghiệp nhà nước xuất hiện ở hơn 60 ngành, lĩnh
vực thì đến nay chỉ cịn tập trung vào 19 ngành, lĩnh vực. Đại đa số doanh nghiệp nhà
nước có quy mơ vừa và lớn.
Về đóng góp cho nền kinh tế, mặc dù số lượng chiếm tỷ lệ rất nhỏ về số lượng
trong khu vực doanh nghiệp (khoảng 0,67%), nhưng doanh nghiệp nhà nước vẫn là nguồn
thu lớn cho ngân sách Nhà nước. 5 doanh nghiệp đóng góp thuế nhiều nhất năm 2015
13


(năm 2016 chưa được cơng bố) thì đều là doanh nghiệp nhà nước, hoặc có vốn Nhà nước
chi phối, đó là: Tập đồn Viễn thơng Qn đội (Viettel), Tổng cơng ty Khí Việt NamCơng ty CP, Tổng cơng ty Viễn thơng MobiFone, Tập đồn Dầu khí Việt Nam (PVN),
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank). Nếu mở rộng ra tốp 10 doanh
nghiệp đóng thuế hàng đầu năm 2015 thì cũng có tới 7 doanh nghiệp nhà nước, hoặc có
vốn Nhà nước chi phối. Doanh nghiệp nhà nước cũng đang đóng góp lớn nhất vào GDP
với tỷ lệ 28,8%, so với doanh nghiệp ngoài nhà nước là 11,8% và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi (FDI) là 17,9%.
Trong nền kinh tế thế giới năm 2020, Việt Nam nổi lên như một điểm sáng đáng
ghi nhận và tự hào. Với tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2020 tăng 2,91% so với
năm trước, Việt Nam thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới. Có thể nói thể

chế thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã là cơ
sở để Việt Nam hồn thành mục tiêu “kép”, vừa phịng, chống dịch thành công, vừa tập
trung nguồn lực phát triển kinh tế. Nhờ phát triển thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà từ một nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu, quy mô
nhỏ bé, với GDP chỉ 14 tỷ USD và GDP bình quân đầu người chỉ khoảng 250 USD trong
những năm đầu đổi mới, Việt Nam đã thốt khỏi tình trạng đói nghèo, chuyển sang thực
hiện và đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kinh tế vĩ mơ ngày càng ổn
định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện
đáng kể. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Thị trường tiền tệ, ngoại hối cơ bản ổn
định. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng
hóa tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020. Đóng góp của năng suất các nhân
tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tính chung 10 năm 2011-2020 đạt 39,0%. Tốc độ tăng
năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2020 là 5,8%/năm. Lạm phát cơ bản giảm từ
13,6% năm 2011 xuống khoảng 2,5% năm 2020. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng
hóa tăng 3,6 lần, từ 157,1 tỷ USD năm 2010 lên 543,9 tỷ USD năm 2020.

14


2.2.3 Tồn tại và yếu điểm của thành phần kinh tế nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình hình thành và phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta nói chung, vai trị chủ đạo của kinh
tế nhà nước nói riêng vẫn còn một số hạn chế nhất định, như: Trong các doanh nghiệp nhà
nước, vấn đề quản lý, phân phối chưa được giải quyết tốt, cịn có sự phân biệt đối xử giữa
các thành phần kinh tế; các loại thị trường được hình thành và phát triển chậm, thiếu đồng
bộ; các nguồn lực kinh tế được phân bổ chưa đồng đều… Nguyên nhân chủ yếu của
những hạn chế trên là do: Việc nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN cịn
nhiều hạn chế, cơng tác lý luận chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn. Nền kinh tế vẫn cịn
trong tình trạng kém phát triển, sự chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư, các vùng miền và
các thành phần kinh tế cịn cao.

Ở góc độ quản lý, năng lực quản lý, tổ chức thực hiện của Nhà nước cịn chậm.
Vai trị tham gia hoạch định chính sách, thực hiện chính sách và giám sát của các chủ thể
cịn yếu. Kinh tế nhà nước chưa có cơ sở kinh tế vững chắc để phát triển, hiệu quả còn rất
thấp. Ngay tại thời điểm này, khơng ít doanh nghiệp nhà nước vẫn hoạt động khơng hiệu
quả, thậm chí thua lỗ. Do đó, nếu tỷ trọng của kinh tế nhà nước càng lớn thì hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế càng thấp. Về nguyên tắc, những doanh nghiệp nhà nước
hoạt động kém hiệu quả cần được xem xét để chuyển sang các hình thức tổ chức sản xuất
khác. Bộ máy nhà nước còn chưa ngang tầm với u cầu cơng việc, cán bộ cịn chưa đồng
đều, năng lực chưa cao, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của kinh tế nhà nước như là thành
phần kinh tế chủ đạo. Kinh tế nhà nước lại lạm dụng các lợi thế của mình về vốn, thị
trường, các mối quan hệ kinh tế và phi kinh tế làm ảnh hưởng đến lợi ích chính đáng và
hợp pháp của các thành phần kinh tế khác sẽ có xu hướng giảm thiểu động lực hoạt động,
dẫn đến những cạnh tranh không lành mạnh hoặc kéo theo sự trì trệ trong sản xuất và làm
chậm q trình phát triển của đất nước.
Chính vai trò lợi thế chủ đạo của kinh tế nhà nước đang hoạt động ở nước ta đã bị
những kẻ chống phá, thù địch lợi dụng, suy diễn, xuyên tạc bản chất, bóp méo sự thật về
vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trước tình hình trên địi hỏi chúng ta cần đẩy mạnh việc đấu tranh phòng, chống “diễn
15


biến hịa bình” trên lĩnh vực kinh tế, khơng để các thế lực thù địch, tác động, chuyển hóa
kinh tế, từ kinh tế chuyển hóa về chính trị; khắc phục đẩy lùi các nguy cơ chệch hướng,
tụt hậu. Nhà nước cần có những quyết sách để giữ vững phát triển kinh tế theo bản chất
định hướng XHCN mà Đảng đã chỉ đạo.
2.2.4. Vai trò thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Ở Việt Nam, KTNN ngày càng khẳng định vai trị, vị thế của mình trong các thành
phần kinh tế. Do bản chất và mục đích hoạt động, nên thành phần KTNN có vai trị chính
trị - xã hội to lớn. Các DN trong thành phần KTNN luôn tiên phong trong sự nghiệp cơng

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đóng vai trị quan trọng trong một số ngành, lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế, như viễn thơng, than, điện, xăng dầu, khai khống, tài chính,
ngân hàng và các dịch vụ công thiết yếu bảo đảm nhu cầu tiêu dùng, sản xuất trong nước
và xuất khẩu.
Sau hơn 30 năm phát triển thành phần kinh tế nhà nước, trong đó có DNNN, nền
kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng kể. Hệ thống DNNN qua nhiều lần sắp
xếp, chuyển đổi từng bước được củng cố và đóng góp vào thành tựu của q trình đổi
mới. Nhiều DNNN đứng vững trên thị trường, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nắm các
ngành kinh tế then chốt, đóng góp lớn cho ngân sách. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận
rằng, còn nhiều nhiệm vụ nêu ra chưa được thực hiện hiệu quả. Vai trò chủ đạo của thành
phần kinh tế nhà nước chưa được phát huy một cách đầy đủ. Thực tế cho thấy, nhiều
DNNN đã sử dụng chính sách "kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực", tham gia thành lập các
ngân hàng, cơng ty tài chính, đầu tư bất động sản và chứng khốn, ít đầu tư vào lĩnh vực
chính của mình. Trình độ kỹ thuật, cơng nghệ lạc hậu đã và đang là lực cản lớn đối với
quá trình nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của DNNN; một số đơn vị hoạt
động mang tính độc quyền còn cao, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường; sử dụng vốn nhà
nước nhiều nhưng hiệu quả chưa tương xứng, làm tăng nợ nhà nước; một bộ phận DNNN
cịn chưa gắn u cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội với hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Không chỉ làm ăn kém hiệu quả, bộ phận DNNN còn bị “tai tiếng” bởi những vụ
án tham nhũng kinh tế lớn, phức tạp thời gian vừa qua.
16


Vai trị chủ đạo của KTNN cịn có những ý nghĩa sau đối với kinh tế Việt Nam: là
đầu tàu, hướng dẫn, dẫn dắt các hình thức sở hữu khác trong việc phát triển các lĩnh vực
đặc biệt, như các lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư, có hàm lượng khoa học cao, một số lĩnh
vực đặc biệt mới hình thành. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, ngày càng xuất hiện nhu cầu hình thành một số lĩnh vực mới đòi hỏi vốn đầu tư
lớn, cơng nghệ cao mà tự nó rất khó phát triển. Trong điều kiện các quan hệ thị trường
mới được phát triển, khu vực tư nhân còn nhỏ bé, chưa có khả năng đầu tư lớn, khu vực

sở hữu nhà nước tất yếu phải đảm nhận vai trò đầu tàu, dẫn dắt trong những lĩnh vực mới
này. Khi thực hiện vai trị này, khơng có nghĩa là sở hữu nhà nước giữ vai trò thống trị độc
quyền vĩnh viễn mà vai trò đầu tàu, dẫn dắt thể hiện ở chỗ, khi các hình thức sở hữu khác
đủ sức tham gia và có khả năng tham gia có hiệu quả, Nhà nước kịp thời rút vốn ra khỏi
lĩnh vực đã đầu tư, để tiếp tục thực hiện vai trị của mình trong việc đầu tư vào những lĩnh
vực mới khác.
Đồng thời, bảo đảm phát triển năng lực cạnh tranh của quốc gia. Do lịch sử phát
triển, KTNN đã đảm nhận một loạt ngành cạnh tranh. Khi khu vực tư nhân chưa kịp phát
triển, Nhà nước phải trực tiếp tham gia và đầu tư phát triển, hỗ trợ các DN đầu đàn trong
giai đoạn đầu. Khi khu vực tư nhân lớn mạnh dần, KTNN dần dần rút hoặc chuyển đổi sở
hữu và về lâu dài, KTNN có thể khơng cần giữ vai trị chủ đạo ở lĩnh vực có lợi thế cạnh
tranh.
Đối với an ninh quốc gia, KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở hai nội dung cơ bản
sau: 1- Nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc
gia (sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị chun dùng cho quốc phịng, an ninh,...). 2Tham gia nắm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để giữ vững định hướng xã hội, làm
đối trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế (bán buôn lương thực, xăng dầu; sản xuất điện;
khai thác khoáng sản quan trọng; một số sản phẩm cơ khí, điện tử, cơng nghệ thơng tin
quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay,...).Thứ tư, về mặt xã hội, do bản chất về mặt sở
hữu và mục đích hoạt động, KTNN có vai trò quan trọng trong gánh vác chức năng xã
hội. Vai trò này thể hiện ở chỗ, KTNN phải đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó
khăn có ý nghĩa chính trị - xã hội mà tư nhân khơng muốn đầu tư, thực hiện sự bảo đảm
cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa
17


cơng cộng thiết yếu, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, các chương trình xóa đói,
giảm nghèo,...
Mặc dù đã khẳng định được vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, đóng
góp vào GDP ngày càng tăng, song năng lực nội tại của các doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế tư nhân (KTTN) ở nước ta nhìn chung còn thấp, chủ yếu vẫn là kinh tế hộ, cá thể.

KTTN hoạt động đa dạng ở hầu hết các ngành nghề, nhưng cơ cấu ngành nghề còn chưa
hợp lý: tập trung phần lớn trong các ngành nghề như thương mại và dịch vụ nhỏ, lẻ phục
vụ người tiêu dùng (81%); phần còn lại khoảng 19% trong các lĩnh vực cơng nghiệp và
xây dựng. Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất tập trung chủ yếu ở khâu gia công lắp ráp,
mang lại giá trị gia tăng thấp, doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN trong các lĩnh vực công
nghiệp phụ trợ cịn ít. Tỷ lệ doanh nghiệp thuộc khu vực này tham gia liên kết với các
doanh nghiệp FDI cũng như chuỗi liên kết sản xuất còn rất khiêm tốn.
Với chủ trương, chính sách quyết liệt của Đảng và Nhà nước, tỷ trọng đóng góp
vào GDP của khu vực KTTN được kỳ vọng sẽ tiếp tục gia tăng. Vai trò chủ đạo của khu
vực KTNN trong thời gian tới sẽ ngày càng được tập trung vào các nội dung và mục tiêu:
ngành, lĩnh vực then chốt, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều
tiết và ổn định kinh tế vĩ mơ…
Ở trình độ phát triển chưa cao như nền kinh tế nước ta, Nhà nước đóng vai trò
quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước sử dụng các nguồn lực của mình,
cùng các cơng cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ mơi trường.
Nhìn nhận ở góc độ kinh tế, KTNN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là
phù hợp với xu hướng xã hội hóa lực lượng sản xuất ở nước ta. Dưới góc độ chính trị,
KTNN được xem là một trong những “hịn đá thử vàng” để xem xét sự đúng hướng hay
chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Về mặt xã hội, hoạt động kinh tế của Nhà nước cũng như
của DNNN, ln có 2 mục tiêu với 2 tính chất khác nhau, đó là mục tiêu kinh doanh
thông thường như các doanh nghiệp khác và mục tiêu cơng ích. Tính chất đặc thù này tất
yếu ảnh hưởng đến “thị phần GDP” của bộ phận doanh nghiệp thuộc khu vực KTNN.
Như vậy, xét trên cả khía cạnh kinh tế, chính trị và xã hội, có thể khẳng định rằng,
KTNN vẫn là lực lượng vật chất quan trọng hàng đầu để Nhà nước định hướng, điều tiết
18


nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát
triển.


2.3 Một số giải pháp cơ bản để tiếp tục khẳng định và phát huy vai trò chủ đạo của
khu vực kinh tế nhà nước
Một là, cần bổ sung và nhất quán quan điểm: “KTNN giữ vai trò chủ đạo” vào
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030.
Hai là, đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, mà trọng tâm là các
tập đồn, tổng cơng ty nhà nước, phân định rõ vai trò kinh tế của Nhà nước với vai trò của
doanh nghiệp nhà nước để không đồng nhất độc quyền của kinh tế nhà nước với độc
quyền của doanh nghiệp nhà nước. Trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, kinh tế nhà nước độc quyền là để có điều kiện định hướng nền kinh tế theo mục
tiêu nhất định. Do vậy, nếu một doanh nghiệp nhà nước nào đó được độc quyền thì hoạt
động của nó phải hướng tới tính chất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô vì mục tiêu chung.
Cũng cần tránh hai khuynh hướng sai lầm: hoặc coi nhẹ doanh nghiệp nhà nước, muốn tư
nhân hóa tràn lan; hoặc bảo thủ, muốn duy trì tồn bộ doanh nghiệp nhà nước, không
muốn tổ chức sắp xếp lại cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Việc giảm bớt số
lượng doanh nghiệp nhà nước khơng có nghĩa là giảm sức mạnh của khu vực kinh tế nhà
nước mà là để tập trung nguồn lực cho những doanh nghiệp thực sự cần thiết cho quốc kế
dân sinh, điều đó nhất định sẽ giúp nâng cao vai trị then chốt của doanh nghiệp nhà nước
trên nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, làm cho kinh tế nhà nước thật sự là chủ đạo,
là lực lượng nịng cốt bảo đảm cân đối vĩ mơ, tạo điều kiện ổn định kinh tế - xã hội trong
quá trình đổi mới.
Ba là, đối với các bộ phận phi doanh nghiệp trong khu vực kinh tế nhà nước, phải
được quản lý, sử dụng hợp lý để thực sự trở thành công cụ đắc lực cho Nhà nước trong
việc định hướng, hỗ trợ, tạo môi trường phát triển cho tất cả các thành phần kinh tế, giải
quyết tốt các vấn đề xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng chuyên
nghiệp hóa bộ máy nhà nước và tái cấu trúc đầu tư công cũng như sắp xếp lại hệ thống tài
chính, tiền tệ.
19


Bốn là, quy định rõ tính chất kinh doanh và tính chất cơng ích của bộ phận doanh

nghiệp nhà nước trong từng điều kiện, hồn cảnh để từ đó xây dựng cơ chế quản lý phù
hợp, khắc phục sự không rõ ràng giữa nguồn vốn hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận với
nguồn vốn hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận.
Để nâng cao tính hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước, xứng đáng là bộ
khung trong hệ thống các doanh nghiệp của toàn bộ nền kinh tế, cần nâng cao tính hạch
tốn, tính chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Năm là, khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo khơng có nghĩa là phân biệt, đối
xử hay hạn chế các thành phần kinh tế khác, mà phải hoàn thiện cơ sở pháp lý để tất cả
các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân được tiến hành sản xuất kinh doanh
bình đẳng.
Giữa kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác có mối quan hệ hữu cơ trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Các thành phần kinh tế ngồi nhà nước càng
phát triển thì đóng góp vào ngân sách càng lớn, tức là làm cho bộ phận phi doanh nghiệp
của kinh tế nhà nước phát triển. Với vai trò chủ đạo là thúc đẩy các thành phần kinh tế
khác cùng phát triển, sự phát triển của khu vực kinh tế nhà nước thậm chí cịn là một
trong những tiêu chí đánh giá sự hồn thành vai trị chủ đạo của khu vực kinh tế nhà
nước. Sự phát triển năng động, hiệu quả của khu vực kinh tế ngoài nhà nước cũng là nhân
tố vừa trực tiếp, vừa gián tiếp thúc đẩy khu vực kinh tế nhà nước phát triển.

III. KẾT LUẬN
Ở Việt Nam, KTNN ngày càng khẳng định vai trị, vị thế của mình trong các thành
phần kinh tế. Do bản chất và mục đích hoạt động, nên thành phần KTNN có vai trị chính
trị - xã hội to lớn. Các DN trong thành phần KTNN luôn tiên phong trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đóng vai trị quan trọng trong một số ngành, lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế, như viễn thông, than, điện, xăng dầu, khai khống, tài chính,
ngân hàng và các dịch vụ công thiết yếu bảo đảm nhu cầu tiêu dùng, sản xuất trong nước
và xuất khẩu.
20



Các DNNN vừa là chủ thể kinh doanh, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt do Nhà
nước sử dụng trong tác động tham gia các hoạt động kinh tế. Là chủ thể kinh doanh, các
DNNN phải thực hiện hạch tốn kinh tế, tự chủ về tài chính, hoạt động có hiệu quả để bảo
đảm q trình tái sản xuất mở rộng, bảo đảm gia tăng nguồn lực kinh tế mà Nhà nước đã
đầu tư cho các DN này. Là lực lượng tham gia các hoạt động kinh tế như một cơng cụ của
Nhà nước, các DNNN cần góp phần tạo ra sự ổn định kinh tế - xã hội, giúp Nhà nước đạt
được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.
Nhìn lại những năm qua, khi kinh tế thế giới suy thối, thiên tai, dịch bệnh hồnh
hành, nhờ có sức mạnh của KTNN mà Việt Nam mới bảo đảm cân đối vĩ mô, các cân đối
lớn của nền kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát, duy trì mức tăng trưởng khá cao. Cùng
với tăng trưởng kinh tế, thành phần KTNN cịn đóng góp tích cực vào việc bảo đảm an
sinh xã hội, phát triển các lĩnh vực y tế, giáo dục, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, bảo
đảm ổn định chính trị - xã hội, an ninh - quốc phịng, chủ quyền quốc gia, góp phần nâng
cao vị thế của đất nước ở khu vực và trên thế giới...
Tuy nhiên, khi Nhà nước nắm trong tay một khối lượng sở hữu khổng lồ thì chính
những bất lợi (khuyết tật) của sở hữu nhà nước bắt nguồn từ đặc điểm của hình thức sở
hữu này ngày càng bộc lộ và tạo nên xu hướng làm giảm tính hiệu quả của thành phần
kinh tế này, kéo theo sự sụt giảm hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Chúng ta đang cơ cấu
lại khu vực DNNN, theo đó tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa
bàn quan trọng và an ninh - quốc phòng, những lĩnh vực mà DN thuộc các thành phần
kinh tế khác không đầu tư. Doanh nghiệp nhà nước tiến tới phải thật sự hoạt động theo cơ
chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu; tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định
pháp luật.
Như vậy, có thể khẳng định việc xác định KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN là đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta và là
tiêu chí quan trọng bảo đảm tính định hướng XHCN cho nền kinh tế.

21



Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM
(Lần 1)
Học phần: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Đề tài: Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam
Nhóm 7
Thời gian: 18/06/2021.
Địa điểm: Họp online
Vắng: 0
Nội dung:
1. Tìm hiểu đề tài, đưa ra bố cục cho đề tài
2. Phân công công việc cho các thành viên trong nhóm
3. Giải đáp thắc mắc của các thành viên với nhau

Hà Nội, ngày 18 tháng 06 năm 2021
22


Nhóm trưởng
Lương
Nguyễn Thị Hiền Lương

23


Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM
(Lần 2)
Học phần: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Đề tài: Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam
Nhóm 7
Thời gian: 28/06/2021.
Địa điểm: Họp online
Vắng: 0
Nội dung:
1. Tổng hợp nguồn tài liệu đã tìm
2. Nêu ý kiến và chỉnh sửa lại nội dung đề tài
3. Hoàn thiện bài thảo luận

Hà Nội, ngày 28 tháng 06 năm 2021
Nhóm trưởng
Lương
Nguyễn Thị Hiền Lương

24



×