Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Đề tài phân tích tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam trong giai đoạn hiện nay, việt nam cần làm gì để hòa nhập mà không hòa tan vào kinh tế thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.08 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM

BÀI TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Đề tài: Phân tích tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam. Trong
giai đoạn hiện nay, Việt nam cần làm gì để hịa nhập mà khơng hịa tan
vào kinh tế thế giới.

GVGD

:

Họ tên

:

MSSV

:

Lớp

:

HÀ NỘI - 2021

0


Phần mở đầu
Lý do chọn đề tài :Vì tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam. Trong


giai đoạn hiện nay, Việt nam cần làm gì để hịa nhập mà khơng hịa tan vào kinh tế
thế giới là một vấn đề đang rất nóng bỏng và được xã hội quan tâm . Vì nó liên quan
đến sự tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam . Giữa việc tiếp thu những cái mới ,
những cái tiến bộ và loại bỏ những cái cũ những cái đã lỗi thời đã khơng cịn hợp với
thời đại. Giữ gìn phát triển bản sắc của dân tộc ta qua bao đời nay . Chỉ hịa nhập chứ

khơng hịa tan .

Chương I: Khái quát lý luận: trình bày các khái niệm, nội dung lý luận
1)Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế
- Là một hình thức trong đó diễn ra q trình xã hội hóa mang tính chất quốc tế đối
với quá trình tái sản xuất giữa các chủ thể kinh tế quốc tế.
- Là quá trình gắn kết nền kinh tế và thị trường của một quốc gia với nền kinh tế và
thị trường khu vực/thế giới thông qua các biện pháp tự do hoá và mở cửa thị trường ở
các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương.
- Là q trình trong đó hai hay nhiều chính phủ ký với nhau các hiệp định để tạo nên
khuôn khổ pháp lý chung cho sự phối hợp và điều chỉnh quan hệ kinh tế giữa các
nước.
- Cấp độ liên kết: Khu vực và quốc tế.
- Các chủ thể kinh tế quốc tế: Cấp quốc gia hoặc các tổ chức, doanh nghiệp thuộc các
quốc gia khác nhau.
- Liên kết giữa các chủ thể kinh tế quốc tế dựa trên các các hợp đồng kinh tế.

1


- Cơ sở của liên kết: Trước khi hệ thống Kinh tế xã hội chủ nghĩa sụp đổ: liên kết chủ
yếu dựa vào sự tương đồng về chính trị ( Ví dụ: HĐTTKT, NATO, VACSAVA, EU)
- Sau khi hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa sụp đổ: liên kết chủ yếu giữa các quốc gia
chung một khu vực địa lý hoặc tương đồng về trình độ phát triển kinh ( Ví dụ : G7,

G20 , ASEAN , EU,NAFTA)
2)Nội dung :
- Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam .
- Việt nam cần làm gì để hịa nhập mà khơng hịa tan vào kinh tế thế giới.

Chương II:Phân tích tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và
cần làm gì để hịa nhập mà khơng hịa tan vào kinh tế thế giới.
1) Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Trước Đại hội IX năm 2001, văn kiện của Đảng chỉ nói đến “quốc tế hóa”, chưa đề
cập tới “tồn cầu hóa”. Từ Đại hội IX của Đảng, Việt Nam đề cập đến “tồn cầu
hóa kinh tế”. Khi đó, Báo cáo chính trị Đại hội IX nhận định: “Tồn cầu hóa kinh
tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này
đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi
phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có
hợp tác vừa có đấu tranh”(1). Qua hai nhiệm kỳ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng,
Việt Nam nhấn mạnh tới “tồn cầu hóa kinh tế”. Đến Đại hội XI của Đảng (năm
2011), Việt Nam chuyển từ nhận thức về “tồn cầu hóa kinh tế” sang nhận thức về
“tồn cầu hóa”. Báo cáo chính trị Đại hội XI nhận định: “Tồn cầu hóa và cách
mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã
hội thơng tin và kinh tế tri thức”(2). Đại hội XII của Đảng (năm 2016) tiếp tục
khẳng định: “Tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ,
kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh”(3). Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng
2


(năm 2021) nhấn mạnh: “Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển
nhưng đang phải đối mặt với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc...
Cùng với nhận thức về tồn cầu hóa, Việt Nam từng bước tiến hành hội nhập quốc tế.
Đại hội IX của Đảng đã đề ra chủ trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm

độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường” (5). Đại hội X của Đảng (năm
2006) tiến thêm một bước trong nhận thức và hành động hội nhập quốc tế; đề ra chủ
trương: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” (6).
Đến Đại hội XI của Đảng, Việt Nam nhấn mạnh đến hội nhập quốc tế: “Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia,
dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”(7).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) đã xác định 8 phương hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam,
trong đó phương hướng thứ năm là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” (8).
Cương lĩnh đặt ra yêu cầu: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hịa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(9). Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị (khóa
XI) đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW “Về hội nhập quốc tế”. Một trong những
3


nhiệm vụ tổng quát mà Đại hội XII của Đảng đề ra là: “Thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên
thế giới”(10). Đại hội XII đề ra chủ trương: “Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc

tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia
các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và
thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch
tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước… Đẩy mạnh hội nhập
quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và
các lĩnh vực khác”(11). Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng đưa ra định hướng lớn
bao quát những vấn đề phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới,
trong đó “tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế tồn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, khơng ngừng nâng cao vị
thế, uy tín quốc tế của Việt Nam. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc
tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của
nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngồi; chủ động hồn
thiện hệ thống phịng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước
phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế
với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng
giai đoạn”(12).
Như vậy, từ Đại hội IX của Đảng đến nay, quan điểm của Đảng về “tồn cầu hóa” và
“hội nhập quốc tế” ngày càng đầy đủ và đóng vai trị hết sức quan trọng đối với việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước. Từ nhận thức về
“quốc tế hóa” đã phát triển thành nhận thức về “tồn cầu hóa kinh tế” và đi đến nhận
thức về “tồn cầu hóa”. Trên cơ sở thực tiễn về “tồn cầu hóa”, Đảng và Nhà nước ta
4


đưa ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”, “chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực
khác” và ngày nay là chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, “nâng cao
hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế”, “đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn
hóa, xã hội, khoa học - cơng nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác”.

Những năm gần đây, ở Việt Nam, cũng như trên thế giới, có ý kiến cho rằng, “tồn
cầu hóa” đang chững lại; thậm chí có ý kiến đề cập đến “phi tồn cầu hóa”. Luồng ý
kiến này nhấn mạnh đến xu hướng gia tăng hoạt động bảo hộ ở nhiều nước trên thế
giới, đến cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc và những tranh chấp về thương
mại giữa các trung tâm kinh tế lớn của thế giới, đến việc Mỹ đe dọa rút và đã rút khỏi
một vài định chế quốc tế... Do vậy, câu hỏi đặt ra hiện nay là phải chăng tồn cầu hóa
đang chững lại? Việc trả lời câu hỏi này là một trong những cơ sở căn bản để Đại hội
XIII của Đảng hoạch định đường lối phát triển đất nước trong những năm tiếp theo.
Xét về bản chất, “tồn cầu hóa” là q trình hình thành nên “cái toàn cầu”, phân biệt
với “cái khu vực” (chỉ liên quan đến những khu vực địa - kinh tế - chính trị nhất định
trên thế giới), “cái phe, khối” (chỉ liên quan đến các tập hợp lực lượng trên thế giới),
“cái quốc gia - dân tộc” (chỉ liên quan đến từng đất nước). Xã hội loài người ngày
nay, với nền kinh tế thế giới, nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại, cho
thấy tồn cầu hóa đã tiến rất xa và sâu rộng; đồng thời, khẳng định “tồn cầu hóa”
thực sự là một xu thế khách quan, khơng thể đảo ngược. Điều rõ ràng là, dù cịn rất
nhiều hạn chế, khiếm khuyết hay khuyết tật... trong cả ba hệ thống lớn nói trên, nhưng
nhu cầu phát triển nội tại, tự thân của xã hội lồi người chính là gốc rễ quy định xu
thế tồn cầu hóa. Điều đáng chú ý là tiến trình tồn cầu hóa khơng diễn ra một cách
tuyến tính, mà có những bước nhảy vọt, gắn với các cuộc cách mạng trong lực lượng
sản xuất xã hội lồi người. Có thể khẳng định rằng, trong thời gian tới, khi cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) bùng nổ, nhất định sẽ có

5


bước nhảy vọt mới trong tiến trình tồn cầu hóa, tồn cầu hóa hồn tồn khơng chững
lại.
Sự gia tăng các hoạt động bảo hộ trong những năm gần đây không đồng nghĩa với
việc chia cắt thị trường thế giới thành những thị trường quốc gia hay phe, khối biệt
lập, không làm đứt đoạn các dòng đầu tư xuyên quốc gia, khơng làm mất đi các vấn

đề tồn cầu nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế thế giới mà việc giải quyết
chúng đòi hỏi phải tăng cường hợp tác và những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế.
Có chăng, chủ nghĩa bảo hộ chỉ đặt ra những “trở ngại” mới về thuế quan và phi thuế
quan cho lưu thơng hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, mà những trở ngại này ln tồn tại
trong tiến trình tồn cầu hóa. Những số liệu thống kê của thế giới về thương mại và
đầu tư cho thấy rất rõ rằng, bất chấp sự gia tăng của các hoạt động bảo hộ trong
những năm gần đây, thương mại thế giới và đầu tư quốc tế vẫn tăng lên.
Việc hình thành “cái tồn cầu” trong q trình tồn cầu hóa kéo theo việc ra đời các
định chế toàn cầu, như Liên hợp quốc và các tổ chức thuộc Liên hợp quốc, Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)...
Các định chế này không phải là “nhất thành, bất biến”, cơ chế hoạt động của chúng
phải luôn cần đổi mới, cập nhật cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của “cái
toàn cầu”. Đây là sự thích nghi, bảo đảm sức sống, nâng cao tính hiệu quả của các
định chế quốc tế, chứ khơng phải và càng khơng thể ngăn cản tiến trình tồn cầu hóa.
Bước phát triển mới của tồn cầu hóa gắn với sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 tất yếu kéo theo những đổi mới, cải tổ, cải cách các định chế tồn cầu hiện
có và có thể ra đời những định chế quản trị toàn cầu mới.
Yêu cầu đặt ra đối với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
thế giới và trở thành một bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới, trước hết là bộ
phận cấu thành của “nền kinh tế thế giới”, “nền Có thể hiểu q trình hội nhập quốc tế
của một đất nước (quốc gia) là sự tham gia vào hệ thống chính trị thế giới” và “nền
6


văn minh nhân loại”. Sự tham gia ở đây là thông qua các hoạt động tương tác (hợp
tác, cạnh tranh và đấu tranh...) với các bộ phận cấu thành khác nhau trong “hệ thống”,
bao gồm cả việc gia nhập hay rút khỏi các “phân hệ” khác nhau trong hệ thống. Tất cả
các hoạt động này đều là hoạt động có chủ đích, nhằm: 1- Phát triển quốc gia; 2Khẳng định bản sắc quốc gia; 3- Giành vị thế xứng đáng cho quốc gia trong hệ thống;
4- Tham gia hoàn thiện và phát triển hệ thống...
Cần loại bỏ lối suy nghĩ giản đơn nhưng cũng khá phổ biến hiện nay ở Việt Nam,

rằng “hội nhập quốc tế” là hình thức phát triển cao của “hợp tác quốc tế”. Vấn đề là ở
chỗ “hợp tác quốc tế” và “hội nhập quốc tế” là thuộc các lớp khái niệm khác nhau.
Hợp tác quốc tế chỉ là một trong nhiều phương thức tương tác giữa các nước với
nhau; bên cạnh hợp tác quốc tế cịn có cạnh tranh, đấu tranh, liên minh, liên kết, đối
đầu, chiến tranh... Điểm cơ bản là ở chỗ, khác với khái niệm “hội nhập quốc tế”, khái
niệm “hợp tác quốc tế” không đề cập tới việc cấu thành hệ thống chỉnh thể thế giới.
Để đánh giá thực trạng hội nhập quốc tế của một quốc gia, cần lấy phạm vi, mức độ
tham gia và vị thế của quốc gia đó trong các mặt đời sống của cộng đồng quốc tế,
trong các hệ thống thế giới làm tiêu chí:
Về chiều “rộng - hẹp”, có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập hẹp, khi quốc gia hội
nhập chỉ tham gia một vài lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; hai là, hội nhập
tương đối rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia phần lớn các lĩnh vực trong đời sống
cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia tất cả các
lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế.
Về chiều “nơng - sâu”, cũng có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập nông, khi quốc
gia hội nhập hầu như khơng có vị trí, vai trị trong cộng đồng quốc tế; hai là, hội nhập
tương đối sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trị nhất định trong cộng đồng quốc
tế; ba là, hội nhập sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trị đáng kể trong cộng
đồng quốc tế. Nói theo ngơn ngữ của lý thuyết hệ thống, hội nhập sâu là trường hợp
7


quốc gia hội nhập với tư cách là một bộ phận cấu thành hệ thống, có ảnh hưởng đáng
kể đến việc hình thành và phát triển “tính trồi” (emergent) của cả hệ thống; cịn hội
nhập nơng là trường hợp quốc gia hội nhập hầu như khơng có ảnh hưởng đến việc
hình thành và phát triển “tính trồi” của cả hệ thống.
Với cách tiếp cận trên, có thể thấy, sau hai thập niên chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế từ Đại hội IX của Đảng đến nay, Việt Nam từng bước tham gia tất cả các lĩnh
vực của đời sống chính trị - xã hội quốc tế; trở thành thành viên có trách nhiệm, có vị
trí, vai trị và ảnh hưởng nhất định trong cộng đồng quốc tế, cả về kinh tế, chính trị,

văn hóa - xã hội... Điều đó có nghĩa là Việt Nam tích cực hội nhập vào chỉnh thể thế
giới. Do vậy, để phát triển đất nước trong bối cảnh mới của “tồn cầu hóa” và giai
đoạn mới của “hội nhập quốc tế”, cần quan tâm một số vấn đề lớn sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng về “tồn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” để làm cơ sở cho
việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, cần thấy rõ bước phát triển mới của
tồn cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ
đó, tính tốn sách lược, chiến lược trong tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế.
Thứ hai, Việt Nam hiện tham gia các mặt đời sống chính trị - xã hội quốc tế, tức là đã
hội nhập rộng vào chỉnh thể thế giới, nhưng mới chỉ dừng ở mức độ hội nhập tương
đối sâu với vị trí, vai trò nhất định trong một số lĩnh vực. Tiến trình chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đưa Việt Nam trở thành bộ phận cấu thành của
chỉnh thể thế giới. Tới đây, cần xác định việc giành lấy vị trí, vai trị ngày càng đáng
kể trong nền kinh tế thế giới, nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại là nội
dung chủ yếu của tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Về kinh tế, cần phấn đấu giành chỗ đứng trong các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn
cầu; ưu tiên thúc đẩy phát triển nhanh các ngành kinh tế số và công nghiệp 4.0. Cơ
8


hội đang mở ra cho Việt Nam ở thời hậu dịch bệnh COVID-19, không được bỏ lỡ.
Muốn thế, cần ưu tiên phát triển các mạng kết nối Việt Nam với thế giới, cả “kết nối
cứng” và “kết nối mềm”.
Về chính trị, tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn,
nhất là các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong
ASEAN. Chủ động tham gia xử lý các vấn đề quốc tế và khu vực. Thể hiện vai trò
của Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới”.

Về văn hóa - xã hội, cần đẩy mạnh quảng bá lịch sử, văn hóa, ngơn ngữ Việt Nam với
thế giới; bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản thiên nhiên, công viên địa chất,
công viên sinh thái, di sản văn hóa thế giới, cả vật thể lẫn phi vật thể; khẳng định các
giá trị xã hội và truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, bản sắc Việt Nam; tích cực tham
gia sáng tạo các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, khoa học... có tầm ảnh hưởng quốc tế;
tham gia xử lý các vấn đề nhân đạo trên trường quốc tế; tham gia đấu tranh với các
hiện tượng, hoạt động phi văn hóa, phản văn hóa, chống lại nhân loại... Cần đặc biệt
quan tâm việc nhân thêm và phát huy “sức mạnh mềm” của đất nước, cạnh tranh về
“sức mạnh mềm” trên trường quốc tế. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp
4.0, các phương tiện truyền thông xã hội ngày càng có vai trị lớn trong quảng bá văn
hóa và cả trong “xâm lăng” văn hóa, lan tỏa các giá trị xã hội và cả làm xói mịn các
giá trị xã hội, phát huy “sức mạnh mềm” và cả hạn chế “sức mạnh mềm” của các
quốc gia, phát triển ổn định xã hội và cả gây bất ổn xã hội... Phương tiện truyền thông
xã hội trở thành một hiện tượng văn hóa, một kênh thơng tin, một cơng cụ quản trị.
Bên cạnh việc tăng cường quản lý nhà nước đối với các phương tiện truyền thông xã
hội, một số nước chủ động sử dụng và phát huy vai trò kênh thông tin, công cụ quản
trị của các phương tiện truyền thơng này. Việt Nam cần có cách tiếp cận mới đối với

9


các phương tiện truyền thông xã hội, không chỉ dừng ở chỗ coi chúng là đối tượng
quản lý.
Thứ ba, khi triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh những vấn đề cần
xử lý về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Đơn cử như, trong tiến trình hội nhập quốc tế, cần luôn điều chỉnh, sửa đổi hệ thống
pháp luật trong nước, tuy nhiên, phải có lộ trình, bước đi cẩn trọng, để vừa củng cố
độc lập, tự chủ, vừa hội nhập quốc tế thành công. Hay là vấn đề đối phó với nguy cơ
lệ thuộc vào thị trường bên ngoài, lệ thuộc kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị...;
hoặc vấn đề phải đối phó với sự xâm lăng văn hóa, xử lý hiện tượng giao thoa văn hóa

trong hội nhập quốc tế, những mâu thuẫn trong xây dựng con người Việt Nam dưới
tác động của trào lưu hình thành cơng dân tồn cầu, sự xâm nhập của các giá trị xã hội
không phù hợp đối với nước ta...
Thứ tư, Việt Nam cần chủ động và tích cực tham gia vào việc đổi mới, cải tổ, cải cách
hay thiết lập các định chế toàn cầu và khu vực; đóng góp nhiều hơn vào xây dựng
“luật chơi”, coi đây là lợi ích quan trọng của quốc gia.
Thứ năm, trong q trình hội nhập quốc tế, ln nảy sinh ngày càng nhiều những
tranh chấp. Ngoài những cơ chế quốc tế phổ biến, thế giới cịn có những cơ chế giải
quyết tranh chấp quốc tế mang tính khu biệt, chuyên ngành mà ta chưa có nhiều kinh
nghiệm. Do đó, vấn đề cấp bách trong q trình hội nhập là nâng cao năng lực phòng,
chống, xử lý, giải quyết những tranh chấp quốc tế, gắn với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
chuyên sâu về các lĩnh vực này.

2)Việt nam cần làm gì để hịa nhập mà khơng hịa tan vào kinh tế thế giới.
Mỗi đất nước đều có một sắc văn hóa riêng biệt, đó là giá trị văn hóa q báu mà
chúng ta cần gìn giữ. Thế nhưng trong thời buổi xã hội tồn cầu hóa hiện nay, câu hỏi
làm sao để có thể giữ gìn được bản sắc truyền thống văn hóa dân tộc là một câu hỏi
lớn buộc mọi người phải suy nghĩ. Vậy làm sao để hịa nhập chứ khơng bị hịa tan,
10


làm sao để tiếp thu được nét đẹp trong truyền thống văn hóa các nước khác và truyền
bá văn hóa dân tộc mình với các quốc gia khác trên thế giới? Để trả lời câu hỏi này
sau đây chúng ta sẽ cùng nhau đi tìm hiểu.
Trước hết, chúng ta cần phải hiểu được khái niệm về truyền thống dân tộc, vậy truyền
thống là gì, tại sao chúng ta lại cần phải gìn giữ? Đầu tiên, truyền thống là những nét
đẹp có trong văn hóa của mỗi quốc gia, nó là nét riêng biệt của mỗi dân tộc được hình
thành và khẳng định qua thời gian, được truyền từ đời này sang đời khác. Dân tộc nào
cũng có những truyền thống tốt đẹp và dân tộc Việt Nam của chúng ta cũng không là
ngoại lệ. Chắc hẳn bạn đã nghe câu chuyện kể về cuộc hành trình gian khổ của người

dân Việt Nam để giữ gìn lấy bản sắc dân tộc, ông cha ta đã bỏ ra vô vàn công sức
cùng những cố gắng để khơng bị đồng hóa bởi qn giặc. Ai cũng biết trong chặng
đường lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc đã đã phải đấu tranh và chịu
đựng biết bao đau thương. Cuộc sống của dân ta trở nên khốn cùng bởi sự bóc lột của
quân giặc, chúng không cho dân ta học chữ, bắt dân ta học ngôn ngữ của chúng, bắt
dân ta làm đủ chuyện chỉ để phục vụ mục đích đồng hóa khiến chúng ta mất đi tiếng
nói và bản sắc của mình. Thế nhưng, vượt lên ngàn đau thương, phong ba bão táp ấy
cũng chẳng thể khiến con người ta từ bỏ đi bản sắc của mình, người này truyền cho
người kia và cuối cùng những nỗ lực ấy cũng được báo đáp và dân tộc ta vẫn giữ
được tiếng nói, vẫn giữ được nét đẹp truyền thống vốn có của mình.
Dân tộc Việt có vơ vàn truyền thống q báu trong đó phải kể đến truyền thống uống
nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, truyền thống tôn sư trọng đạo,... Đó là
những truyền thống vơ cùng q báu của con người. Người này vẫn truyền tai người
kia nối tiếp nhau, truyền cho nhau những đạo lý cơ bản để làm người. Chúng ta được
sinh ra và lớn lên, được nuôi dạy trong một môi trường tràn ngập yêu thương, cha mẹ
dạy ta cách sống sao cho đúng, làm sao cho phải, dạy ta biết lễ nghĩa, dạy cách để trở
thành người tốt hơn. Đến lớp ta được giảng dạy về trang sử hào hùng của dân tộc,
nghị lực và nhiệt huyết của họ đã nhắc nhở chúng ta phải cố gắng để gìn giữ truyền
11


thống, bản sắc dân tộc và không ngừng học hỏi để thành tài góp phần xây dựng cho
đất nước.
Thế nhưng không phải ai cũng thiểu được hết giá trị của truyền thống hoặc có người
hiểu nhưng khơng biết q trọng giá trị ấy. Vì chúng ta đang sống trong thời bình,
chúng ta khơng phải đấu tranh và cuộc sống của chúng ta được cha mẹ che chở nên
không biết giá trị của cuộc sống. Nhiều người trong chúng ta chuộng lối sống tây hóa,
thích âu phục, thích phong cách rồi tự biến mình thành những con vẹt bắt chước văn
hóa của nước khác. Dù vơ tình hay khơng cố ý nhưng bằng cách nào đó chúng ta đã
và đang truyền bá văn hóa của nước khác vào nước mình và làm mất thuần phong mỹ

tục của dân tộc. Người con gái Việt Nam xưa cũ là vẻ đẹp trong tà áo dài kín đáo, vẻ
đẹp hiền dịu mặn mà thế nhưng ngày nay người phụ nữ việt Nam lại du nhập lối sống
"thoáng" quá mức của phương Tây. Nhiều bạn trẻ ăn mặc quá mức hở hang rồi lại
không biết cách chọn trang phục phù hợp với hoàn cảnh, cũng chỉ vì vài ba cái mốt
tây hóa mà người việt dần đánh mất đi bản sắc dân tộc của mình.
Khi xưa, người Việt Nam thường tự hào bởi cách ăn nói lịch sự, trang nhã của mình
thì nay cách ăn nói, xử sự của giới trẻ lại làm người ta thực sự thất vọng. Nhiều bạn
trẻ nói tục chửi bậy, chuộng sử dụng tiếng lóng để giao tiếp với mọi người, họ không
biết phép lịch sự nơi công cộng, không biết giúp đỡ người gặp khó khăn mà ngược lại
cịn chê bai, khinh miệt những tấm thân nghèo khó.
Để giữ gìn truyền thống dân tộc thì phải hiểu về lịch sử nước nhà thế nhưng thời điểm
hiện tại có mấy bạn trẻ biết về lịch sử nước nhà. Nhiều bạn chê bai lịch sử khơ khan
và khó học thế sao lịch sử nước khác họ lại am hiểu tường tận đến thế, hằng ngày thay
vì nghiên cứu lịch sử nước nhà để thấm nhuần được sự mất mát và hy sinh của thế hệ
trước thì họ lại đắm chìm trong những bộ phim cổ trang Trung Quốc rồi lại đến những
bộ phim dã sử Hàn Quốc. Họ ăn ngủ với lịch sử nước ngồi nhưng lịch sử việt Nam
thì lại hoàn toàn mù tịt, điều này thật sự đáng buồn.

12


Truyền thống của dân tộc là uống nước nhớ nguồn thế nhưng hiện nay có biết bao bạn
trẻ cãi lại lời bố mẹ, thậm chị có người cịn vơ ơn đuổi cha mẹ già ra khỏi đường. Họ
phủi đi công sức nuôi dạy của đấng sinh thành và ngược đãi cha mẹ, cha mẹ thì bất
lực khơng thể làm được gì với đứa con khó dạy của mình rồi lại ngậm ngùi trong
nước mắt và chỉ tự trách mình là không biết dạy con. Nhưng trong chúng ta ai cũng
biết đây hồn tồn khơng phải lỗi của họ, lỗi lầm chỉ tại những đứa con ham chơi
thiếu hiểu biết đã hịa nhập đồng thời hịa tan ln nhân cách con người mình. 
Trong thời buổi hội nhập ngày nay thì việc làm sao để có thể gìn giữ được truyề thống
là một mối quan tâm hàng đầu của các nhà chức trách và của mọi người, vì vậy chúng

ta cần phải thay đổi phương pháp giảng dạy để giới trẻ hứng thú hơn với lịch sử nước
nhà. Chỉ khi hiểu rõ về lịch sử nước nhà, ta mới biết trân trọng những cố gắng của cha
ông đã không ngừng gây dựng, giữ gìn và giá trị văn hóa của dân tộc. Giáo dục trẻ em
về tầm quan trọng của truyền thống dân tộc và tạo cho trẻ em những trải nghiệm thực
tế để hiểu hơn về những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Với thế hệ trẻ, những người
đã tự nhận thức được vấn đề thì cần cùng nhau tuyên truyền và có những hình thức
mới mẻ để họ hứng thú với những nét đẹp trong truyền thống dân tộc, tạo cho họ đam
mê với những nét đẹp ấy cũng là một giải pháp cho việc giữ gìn truyền thống dân tộc.
Cả dân tộc hãy cùng nhau chung tay để gìn giữ giá trị truyền thống q báu mà cha
ơng ta đã đánh đổi cả mồ hôi, công sức để gìn giữ.
 
Được sinh ra trong thời bình và được hưởng một cuộc sống đầy đủ khiến em cảm thấy
rất biết ơn. Và để đền đáp cơng ơn đó em sẽ cố gắng học tập và rèn luyện thật tốt để
thành tài phục vụ cho đất nước. Khơng chỉ có thế em thấy mình cũng có trách nhiệm
trong việc gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đó là nghĩa vụ của mọi
cơng dân đang sinh sống trên dải đất hình chữ S này.

3)Kết luận
13


Với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam hiện nay ta lên chú ý phát triển đồng
bộ các ngành nghề không lên chỉ chú trọng đầu tư phát triển các ngành trọng tâm mà
bỏ mặc và lãng quên các ngành khác. Mở rộng thị trường ra khắp thế giới đừng để bị
bị phụ thuộc vào thị trường của nước nào cả. Vì khi bị phuộc thuộc nước đó khơng
mở cửa nữa hàng hóa của tao sẽ bị ứ đọng và không thể nào giải quyết được. Hãy tích
cực học hỏi tác phong và cách sống của người nước ngồi . Khơng lên chỉ nghĩ đến
cái lợi trước mắt và cái lợi của cá nhân. Hãy nghĩ đến lợi ích lâu dài. Hãy giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc hòa nhập


14


15



×