Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN PHẬT GIÁO sự liên hệ giữa kinh a hàm và tập dị môn luận qua hình thức trình bày

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.18 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Chúng ta đã bước qua hơn hai thập niên đầu của thế kỷ 21. Trong thời đại cuộc
cách mạng cơng nghiệp 4.0 với sự phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ và
nền giáo dục hiện đại, dưới tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng, và
hạ tầng thơng tin liên lạc hiện đại, khó có thể mập mờ hay giấu giếm được điều gì
dưới ánh sáng của khoa học. Và từ đây, nếu như một tơn giáo chỉ dựa vào những điều
mê tín dị đoan để lơi kéo con người đến với mình thì khơng sớm hay muộn cũng sẽ bị
lụi tàn. Ngay cả đạo Phật của chúng ta cũng vậy, chúng ta cần nghiên cứu một cách
trong sáng, tỷ mỷ những lời dạy thực tế và khoa học của đức Phật, nếu không chúng
ta sẽ bị lạc lõng bởi thế giới văn minh này.
Việc tu học cũng như nghiên cứu Phật pháp không chỉ đơn thuần là chúng ta
đọc thuộc làu làu kinh sách một cách say mê, quan trọng nhất là hiểu và luận giải
những lời Phật dạy một cách sâu sắc và áp dụng hiệu quả trong đời sống tu tập của
mỗi con người, có như vậy thì thân và tâm mới vững vàng trong an lạc. Có thể nói,
việc nghiên cứu sự liên hệ giữa kinh A Hàm và "tập dị mơn luận" qua hình thức trình
bày là cơ sở để mỗi người chúng ta hiểu rõ nguồn gốc của Phật giáo, có cái nhìn
khách quan, đa dạng hơn về đời sống tu tập, và cũng là cơ sở để mỗi đệ tử của đức
Thế Tôn luôn hoan hỉ phấn khởi trên con đường đi đến miền cực lạc mà mình đã
chọn.

NỘI DUNG
I. Bối cảnh ra đời và nội dung kinh A Hàm
Sau khi Đức Phật đáng kính của chúng ta nhập diệt, Vào thế kỷ thứ III trước
công nguyên, vào triều đại Khổng Tước, Phật giáo được Vua A Dục (Asoka) tín


nhiệm và hoằng dương, đạo Phật đã trở thành quốc giáo. Từ đó tạo nên một bước
ngoại to lớn cho Phật giáo, mở đầu cho sự chuyển biến rõ nét cả về hình thức sinh
hoạt lẫn nội dung tư tưởng. Đối với mặt hình thức, đạo Phật trước thời Asoka chỉ là
một đoàn thể xuất gia, cuộc sống chủ yếu trong rừng sâu, thiên về xu hướng thực
nghiệm tâm linh và chuyên tu tập , chưa có nhiều sinh hoạt mang tính tơn giáo rõ nét.


Các tăng đồn thời đo lấy việc khất thực để sinh sống. Tuy nhiên AsoKa là một vị
minh quân sớm giác ngộ Phật pháp đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi để chuyển hóa
Phật giáo vào trong đời sống tâm linh của dân chúng và cuộc sống ẩn cư của những
người tu hành cũng đã thay đổi từ hình thức vơ gia cư sang cuộc sống ổn định, các
hoạt động truyền bá Phật pháp được tiến hành bài bản hơn, mang màu sắc tín ngưỡng
tôn giáo rõ nét. Trong công tác hoằng dương Phật pháp, Asoka đã cho xây dựng hơn
84.000 ngôi Tháp, thờ cúng Xá Lợi Phật.
Cũng sau khi đức Phật nhập diệt, tại thành Vương xá (Ràjagrha) trong mùa
mùa An cư của năm thứ nhất. Một cuộc tập kết thánh điển đầu tiên được tiến hành bởi
cá vị đệ tử của đức Thế Tôn. Lần kết tập này quy tụ hơn 500 vị Tỳ Kheo tham gia do
ngài Đại Ca Diếp (Màhakassapa) làm chủ tọa. Đại hội đề cử Ngài A Nan (Ananda)
tụng Kinh tạng , Ngài Ưu Ba Ly (Upàli) tụng Luật Tạng( 1). Quan điểm này được căn
cứ hiện lưu truyền những Kinh Luật trong các Bộ phái, không những vê nội dung có
nhiều điểm bất tương đồng mà cịn có sự khác nhau về phương pháp kết cấu. Vấn đề
ở chỗ, mọi Bộ phái điều tự cho rằng, những kinh và luật đang lưu hành của Tơng phái
mình là những Kinh Luật được kết tập lần thứ nhất.
Theo "Nguyên thủy Phật giáo Thánh điển Chi tập thành", tác giả Hòa thượng
Ấn Thuận đã nhận định: "Sau khi Đức Phật nhập diệt, mãi cho đến thời gian mà Phật
giáo chưa có sự đối lập giữa các Bộ phái, gọi thời kỳ này là Phật giáo nguyên thủy.
Đối với việc nghiên cứu Phật pháp, Phật giáo nguyên thủy là chủ đề trọng yếu nhất”.
1Thăng Gia Khẩu Thai, Ấn Độ Phật giáo Sử Khái Luận, NXB Hạ Đán đại học, 1993,

trang 25


Thánh điển được kết tập trong thời kỳ đầu của sự phát triển Phật giáo được
phân làm hai bộ phận cơ bản: Kinh (Tu-đa-la) là 4 bộ A Hàm và Luật (Tỳ nại da) - là
những bộ phận trọng yếu trong Luật tạng. Những kinh và luật mà các Bộ phái thừa
nhận, là những Kinh Luật được kết tập trong thời đại Phật giáo nguyên thủy, nó đại
biểu cho "Phật giáo nguyên thủy"(2)

Ngoài ra nhiều kết quả nghiên cứu của các học giả khắp thế giớ như những học
giả Âu Mỹ và Nhật Bản, mặc dù có sự bất đồng về quan điểm và phương pháp nghiên
cứu, nhưng kết luận chung đều cho rằng: “4 Bộ A Hàm của Bắc truyền hoặc 5 Bộ
Nikàya là những văn hiến kết tập thành văn sớm nhất trong thánh điển Phật giáo”.
2. Sự ra đời và những nội dung của "tập dị môn luận"
Tập dị môn và Pháp luận là hai luận thư căn bản trong sáu luận chân
(pādaśāstra, túc luận), điểm lập cước, của bộ phái Thuyết nhất thiết hữu
(Sarvāstivāda). Phỏng định của hai bộ luận này liên hệ mật thiết với lịch sử phát triển
của văn học Abhidharma, không chỉ giới hạn trong bối cảnh phát triển của Hữu bộ
với văn hệ Sanskrit Phật giáo, mà còn liên hệ mật thiết đến lịch sử hình thành và phát
triển của văn học Abhidhamma-Pāli của Nam phương Thượng tọa bộ. Nghiên cứu
lịch sử phát triển của hai hệ văn hiến Phật giáo Nam-Bắc này đã lôi cuốn rất nhiều
học giả Đông-Tây trong các ngôn ngữ hiện đại Anh, Pháp, Đức, Nhật và Hoa. Kết
quả của các cơng trình nghiên cứu này đã được tóm tắt một phần trong phần Tổng
luận cho bản dịch Việt của Pháp uẩn túc luận(*). Tuy vậy, những điểm riêng biệt
của Tập dị môn, đặc biệt là quan hệ đến Chúng tập kinh, và các Kinh cùng chủng
loại.
Trong sự phát triển của Phật pháp, A Tỳ Đàm còn được gọi là Luận Tạng, một
trong ba Tạng căn của Phật Giáo. Nội dung của A Tỳ Đạt Ma là giải thích, hệ thống
hóa những lời đức Phật dạy được ghi chép trong A Hàm, chính vì vậy, bộ kinh được
xếp vào Luận Tạng.
2HT.Ấn Thuận, "Nguyên thủy Phật giáo thánh Điển chi tập thành" NXB chánh, Trung

Hoa dân quốc năm 83, trang 1-2.


Sau khi đức Phật nhập diệt, nhiệm vụ của Tăng già, ngồi việc tự thân tu tập,
tìm cầu giải thốt, cịn có nhiệm vụ hoằng dương Phật pháp. Do vậy: “sau khi kết tập
Thánh điển Pàli hoặc Kinh Tạng A hàm xong, Tăng già tiếp tục công tác chỉnh lý,
luận cứu, hệ thống hóa những lời đức Phật dạy, đây là lý do hình thành A Tỳ Đạt Ma

Luận. Những nhân vật tiến hành công tác lý giải biên soạn này, gọi là Luận sư, như
ngài Xá Lợi Phất (Sàriputra) Đại Mục Kiền Liên (Mahàmaudglyàyana), Đại Câu Si
La (Mahàkausthila), Đại Ca Chiên Diên (Mahàkàtyàyana), Phú Lâu Na (Punamaitra
Yanìputra), A Nan (Ànanda)”(3.)..
Những nội dung cơ bản của Tập dị môn luận chính là giải thích những gì mà
đức Phật giác ngộ, được ghi chép trong A Hàm, và cũng từ sự tự chứng ngộ này, sau
đó Ngài phát nguyện hóa độ chúng sinh. “Trong 49 năm Thế tôn thuyết Pháp độ sinh,
những gì mà được Ngài tuyên thuyết, về sau được gọi là nguồn gốc của tất cả Pháp.
Điểm chủ yếu trong lời dạy của Ngài là vấn đề tu tập và giải thốt. Để đạt đến mục
đích này, đầu tiên đức Phật phân tích những vấn đề như: Ngũ Uẩn, Thập Nhị Xứ,
Thập Bát Giới nhằm giới thiệu cho mọi người hiểu rằng, thật tướng của vũ trụ nhân
sinh là khổ, khơng, vơ thường, và vơ ngã”. Để thốt ly những thống khổ phiền não
này, bằng con đường tu tập, tức là những phương pháp huấn luyện thân và tâm như :
“Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh
đạo những giáo lý này được ghi chép trong Tạp A Hàm hay Tương Ưng là bộ Kinh
xuất hiện sớm nhất trong văn hiến Phật giáo”.
Tạp A Hàm là những bài Kinh rất ngắn gọn, chúng ta thấy rất dễ ghi nhớ,
nhưng ln đầy đủ ý nghĩa, nó tương tự như đề cương của một bài làm văn, thời đại
mà đức Phật cũng như những hàng đệ tử của Ngài chưa dùng chữ viết để lưu truyền
vì vậy những bài kinh phải được kết cấu ngắn gọn, dễ ghi nhớ, phù hợp bởi lẽ phải
dùng đến bộ nhớ con người.
3HT.Ấn Thuận, Thuyết nhứt thiết hữu bộ vi chủ luận thư dưo luận sư chi nghiên cứu,

NXB Chánh văn, dân quốc năm 81, trang 56


Do vậy, chúng ta có thể nhận định rằng Tạp A Hàm hay kinh Tương Ưng là bộ
kinh có khả năng kết tập thứ nhất, tuy rằng kết tập lần thứ nhất này, chỉ là hình thức
tụng đọc chưa biên chép thành văn tự, nhưng nội dung kiết tập đã được xác định
những cương yếu mà Thế Tôn đã giảng dạy lúc cịn tại thế, “những bài kinh mang

tính cương yếu này, tiếng Phạn gọi là Màtrka, Trung Văn dịch là Bổn mẫu. Về sau,
các Luận Sư của A Tỳ Đạt Ma đã vận dụng Tạp A Hàm tiếp tục biên tập, giải thích và
hệ thống hóa thành A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma)”.
3. Sự liên hệ giữa kinh A Hàm và "Tập dị mơn luận" qua hình thức trình
bày
Có thể nói, A Tỳ Đạt Ma chính là là một bộ luận chuyên luận giải “Kinh Tạp A
hàm”, bởi lẽ, A Hàm là bản Kinh căn bản của Thiết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Nếu như
chúng ta đem "A Tỳ Đạt Ma" và "Tạp A Hàm" so sánh đối chiếu, phát hiện chúng có
nội dung giống nhau. Thơng thường phương pháp luận giải của các luận sư A Tỳ Đạt
Ma, đem mỗi một Phẩm trong “A Tỳ Đạt Ma” được phân tối thiểu hai phần trở lên.
Phần thứ nhất là Khế Kinh (Sùtra), phần này được Lữ Trưng gọi là Bổn mẫu (Màtrka)
tức là trích dẫn một đoạn kinh trong “Kinh Tạp A hàm”, làm điểm tựa, đề mục chính
cho việc sớ giải. Phần thứ hai là "Kinh Phân Biệt" (Vibhanga) là phần sớ giải, bình
luận của các luận sư, lẽ dĩ nhiên các luận sư căn cứ vào Khế kinh (Sùtra) giải thích
theo kiến giải của từng luận sư. Phần thứ ba và thứ tư là những phần phân biệt của
phân biệt, tức là phần tiếp tục giải thích của phần chú giải chưa được rõ ràng. Có thể
lấy ví dụ về “Phẩm Niệm Trú” trong "Pháp Uẩn Túc Luận" để minh chứng rõ phương
pháp luận giải của Abhidharma, đồng thời, qua đó nó cho chúng ta thấy rằng, A Tỳ
Đạt Ma vốn là một bộ luận chuyên luận giải “Kinh Tạp A hàm”
"Một thời, đức Bạt Già Phạm ở thành Thất La Phiệt, rừng Thệ Đa, vườn ông
Cấp cô Độc. Lúc bấy giờ, Thế Tôn dạy các vị Tỳ kheo rằng Nay ta vì các ơng lược
nói về pháp tu tập Tứ niệm trú, nghĩa là Tỳ kheo đối với nội thân cần có chánh cần,
chánh tri và chánh niệm quan sát thân này, nhờ quán như vậy, vị ấy từ bỏ tham lam và
ưu phiền của thế gian. Đối với ngoài thân (thân thể của người khác), cũng cần có


chánh cần, chánh tri, chánh niệm quán chiếu thân thể của người, nhờ quán như vậy
mà vị ấy đoạn trừ được những than lam và ưu phiền ở đời. Đối với nội thân, ngoài
thân, và nội ngoại thân cũng cần có chánh cần, chánh tri, chánh niệm quán chiếu nội
thân, ngoại thân và nội ngoại thân, nhờ quán chiến như vậy mà vị ấy trừ được tham

lam ưu phiền ở đời. Đối với Thọ, Tâm, Pháp cũng quán như vậy (Đây là phần Khế
Kinh, tức là đoạn này được trích từ kinh Tạp A hàm). Đối với quá khứ, vị lai Tỳ kheo
cũng nên tu tập pháp môn Tứ niệm trụ như vậy. Thế nào gọi là Tỳ kheo đối với nội
thân quan sát một cách chân chánh? (từ đoạn này trở về sau được gọi là kinh Phân
biệt -Vibhanga)".
Đoạn Kinh vừa nêu trên từ "Một thời Thọ, Tâm, Pháp cũng lại như vậy là
phần Khế kinh (Sùtra) còn từ Thế nào gọi là Tỳ kheo đối với nội thân hết là phần
Kinh phân biệt (Vibhanga), tức là phần luận giải. Chúng ta có thể đem đoạn Kinh này
so sánh với bài Kinh thứ 6 của phần Niệm xứ tương ưng trong Tạp A Hàm Kinh Luận
Hội Biên”(4)
Qua sự so sánh, chúng ta nhận thấy rằng, nội dung của hai đoạn Kinh văn trên
gần như tương đồng với nhau, nhưng nếu suy xét cho kỹ ta vẫn thấy có sư xuất hiện
một vài điểm khác biệt cần chú ý.
Thứ nhất: “địa điểm mà đức Phật nói Kinh giữa hai bản không giống nhau”
Thứ hai: “Phẩm niệm Trú trong A Tỳ Đạt Ma Pháp Uẩn Túc Luận lại thêm hai
thời quá khứ và vị lai của pháp tu tập Tứ niệm trú”
Căn cứ vào hai điểm khác biệt này, chúng ta có thể suy đốn: “hải chăng địa
điểm mà bộ phái Thiết Nhứt Thiết Hữu hoạt động là thành Thất La Phiệt, khác với địa
điểm mà đức Phật nói Kinh Tạp A Hàm là nước Xá Vệ. Cùng với đó, việc hình thành
hai thời quá khứ và vị lai trong Luận A Tỳ Đạt Ma là để hình thành, luận chứng cho
quan điểm Tam thế thật hữu, pháp thể hằng tồn của các luận sư thuộc bộ phái Thiết
Nhứt Thiết Hữu”. Qua hai đoạn Kinh vừa so sánh được nêu trên, minh chứng Tạp A
Hàm là nguồn gốc, là điểm tựa của Luận A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma).
4Đại Tạng 1, Trung A Hàm, trang 723-724.


Như vậy, từ sự so sánh cho chúng ta nhận định: về mặt hình thức trình bày, các
nhà luận giải “A Tỳ Đạt Ma Pháp Uẩn Túc Luận” vận dụng, đem “so sánh đối chiếu
với kinh Tạp A hàm có thể nói nội dung hồn tồn giống nhau, chỉ có một vài điểm dị
biệt giữa hai bản Kinh, như đã được nêu trên. Qua đó, minh chứng rằng, quan điểm

của từng bộ phái khơng đồng nhất, đồng thời có thể là mỗi Bộ phái hoạt động mỗi
khu vực khác nhau, cho nên trong Kinh văn địa điểm đức Phật nói Kinh không đồng
nhất, tuy là nội dung của bài pháp hoàn toàn giống nhau”.
Ngoài ra, nội dung của “Phẩm Đa Giới” trong “Pháp Uẩn Túc Luận” rất giống
với “Kinh Đa Giới” trong “Kinh Trung A hàm”. Sự giống nhau này, phải chăng
“phẩm Đa Giới” trong “Pháp Uẩn Túc Luận” là luận giải, chú thích “Kinh Đa Giới”
trong “Kinh Trung A hàm”. Từ sự trùng hợp này có thể minh chức Kinh Trung A hàm
cũng là một bộ Kinh thuộc phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu.
4. Ý nghĩa của việc tu tập từ sự so sánh
Việc so sánh nội dung Kinh A Hàm và Tập dị mơn luận có vai trị hết sức quan
trọng đối với việc tu tập của chúng sinh. Bởi lẽ khi bước vào cửa phật, việc đầu tiên
ta phải biết đọc kinh và hiểu kih Phật. Đôi khi chúng ta tự hỏi, cạo tóc, cạo râu rồi
khốc lên minh áo Cà sa đã phải người tu hành hay chưa. Bởi lẽ, nhân dân thường có
câu: “chiếc áo khơng làm nên thầy tu”. Có nhiều cách quan niệm khác nhau về người
tu hành, nhưng đơn giản nhất để mỗi người có thể tự khẳng định ta khơng lừa dối
mình cũng khơng lừa dối đời mình là người đi tu thì phải biết, hiểu và dạy được Phật
pháp. Khơng biết Phật pháp ma đi dạy Phật pháp cho người là vừa tự dối mình lại cịn
them lừa dối ngời, đố chỉ lành cái danh hão của người tự coi mình là kẻ xuất gia.
Hiện nay trong giáo hội Phật giáo của chúng ta cũng như toàn cục phát triển
của Phật giáo Việt Nam, chúng ta nhận thấy, khơng ít người có nhận thức lệch lạc về
việc tu học. Học rất tùy tiện, thấy gì học đó, thích gì học đó nên thiếu tinh thần giáo
dục, và dẫn tới tình trạng người muốn tu học Phật không biết phải tu ở đâu và tu như
thế nào, đâu là chánh pháp, đâu là tà pháp, đâu là thiện, đâu là bất thiện. Và đương
nhiên trong cuộc sống hàng ngày, người theo con đường học Phật không đủ sức quyết


định những vấn đề của đời song thực tại, lại phải nhờ cậy hết điều này đến điều khác,
như cây trùm gửi giữa thế giới tinh thần mênh mang.
Phật giáo khuyên những Tăng Ni và Phật tử tu hành cần phải có tri thức và
hiểu đúng những tri thức về phật pháp. Nghĩa là phải văn tư và tu. Văn chính là lý

thuyết, là học tập theo lời phật dạy, và tư đó chính là phải tư duy, suy ngẫm và ngộ ra
được lời dạy của phật. Ta phải khuyên người khác nên học bởi lẽ đạo Phật là sự giác
ngộ trí tuệ, trí tuệ ấy khơng phải từ trên trời rơi xuống mà được thấm dần trong từng
nếp nghĩ của mỗi con người khi hiểu được, chiêm nghiệm được từng lời trong kinh
phật dạy. Nói tóm lại nội dung nao liên quan đến vấn đề giác ngộ và giải thốt chính
là chúng ta học Phật. Đó là lý do tại sao trong “Kinh Hoa Nghiêm” xuất hiện nhân vật
Thiện Tài đồng tử đi cầu đạo. Và rõ ràng, từ những lời kinh Phật dạy chúng ta phải
chiêm nghiệm và suy luận ra làm sao cho đúng, cho đủ và cho phù hợp với chính bản
thân mình để tìm được sự an lạc ngay tại cõi trần.
Trong “Kinh Trung Bộ” tập 1, đức thế tôn đã huấn thị các quan điểm và mục
đích giáo dục của Ngài cụ thể rằng: "Này các Tỳ kheo, ta giảng sự diệt tận các lậu
hoặc cho người thấy, người biết, không phải cho người không thấy không biết".
Cũng nội dung này, trong “Kinh Pháp Hoa” của Phật giáo Đại thừa, Ngài xác định
quan điểm và mục đích ra đời của đạo Phật đó chính là: “Khai thị ngộ nhập Phật chi
tri kiến”. Điều này hiểu đơn giản có ngày là Đức Thế tơn xuất hiện trên cõn đời nhằm
huấn thị, chỉ dạy cho chúng sinh chứng kiến và thấy được tri kiến Phật. Qua lời dạy
của các hệ kinh điển cho chúng ta thấy, cả hai đều nhấn mạnh đến vai trò hiểu biết.
Và như vậy, chúng ta nhận thức rằng, chỉ có hiểu biết hay tri kiến mới có thể thành
Phật, vì Phật là người đã giác ngộ.
Nếu như Phật là bậc giác ngộ sáng suốt thì khơng có lý do gì chúng ta không
học Phật. Nếu như chúng ta không hiểu Phật, khơng tu theo Phật thì sẽ khơng bao giờ
chúng ta được giác ngộ và giải thoát. Giác ngộ hay Tri kiến không phải là việc cứ
quét chùa, nấu cơm mà được. Vấn đề quan trọng bậc nhất của việc tu học khơng phải
là ta làm những gì, nấu cơm, qt chùa hay tạo nên danh xưng hão huyền, mà vấn đề


cốt lõi là phải giác ngộ chân lý, có như vậy mới đi huấn thị, mới giáo hóa được chúng
sịnh. Chúng ta phải xác định được vị trí của mình, đã giác ngộ hay còn chưa giacs
ngộ, đừ tố căn cứ vào việc tự nhận thức được bản thân, nếu chưa giác ngộ thì ta phải
đi tìm giác ngộ, việc đầu tiên chúng ta phải học rồi sau đó mới phải tu. Cũng như từ

việc chúng ta phải đọc kinh phật trước rồi mới luận giải ý tứ để thấm vào trong tiềm
thức. Ta đi Tu mà không học Phật pháp, khơng hiểu Phật pháp thì làm sao biết tu,
nếu có tu đi chăng nữa cũng chỉ là “người dị kim đáy biển, việc thành tựu giác ngộ
và giải thoát rất khó. Muốn thành đạt giác ngộ và giải thốt không học tập Phật pháp
là những kinh điển để lại, ngang qua đó chúng ta mới hiểu được chân lý đó là gì và
nó ở đâu? khơng thể bỏ qua kinh điển mà đi tìm chân lý. Như vậy, tìm hiểu học tập
Phật pháp là bước đầu tiên của tiến trình giác ngộ và giải thốt, bước đầu tiên này
khơng thực hiện thì khơng có các bước sau đó, đây là nguyên tắc”.
Có thể thấy, đối tượng mà đức Thế Tơn giảng dạy ở đâu chính là con người,
nởi le mục đích giáo dục của đức Phật đó chính là giác ngộ và giải thốt đó cũng
chính là đạo đức nhà Phật. Thời đại hiện nay, theo nhu cầu của cuộc sống thế tục,
hoạt động của Phật gióa có sự thiên về hoạt động tín ngưỡng, một phần đâu đó ẩn
chứa ý nghĩa thần bí, nói chung điều này khơng còn phù hợp với bối cảnh xã hội hiện
tại, nhất là ở các nước mà điều kiện kinh tế, xã hội và khoa học kỹ thuật phát triển ở
trình độ bậc cao như các nước phương Tây, Mỹ….Những hoạt động tín ngưỡng, tâm
linh khơng phải là phương pháp tu tập tốt, ở góc độ nào đó, nó chỉ làm xoa dịu, trấn
an nỗi bất an của chúng sinh, bởi lẽ theo Phật giáo, nguồn gốc của mọi khổ đau chính
là do cái “vơ minh” của con người, chính cái vơ minh này mà chúng ta khơng nhìn
thấy chân tướng của các Pháp nên đã làm cho cái Tâm sân si, sanh long khát ái và
luẩn cuổn khơng lối thốt trước đời sống trần tục. Chính vì điều này: “trong lộ trình
tu tập đức Phật khun mọi người cần có chánh kiến, là chi rất quan trọng được xếp
hàng đầu trong Bát chánh đạo. Chánh kiến là sự thấy đúng, nhờ nó mà con người mới


quan sát, lựa chọn những vấn đề đúng sai, phải quấy xảy ra chung quanh cuộc sống
chúng ta”.
Theo quan điểm Phật giáo, những hành động nào liên hệ với vô minh thì hành
động ấy khơng thể xem là thiện, “đạo Phật khuyên chúng ta cần phải có chánh kiến
trong cuộc sống, cần có thái độ lựa chọn giữa thiện và ác, giữa hạnh phúc và khổ đau,
để hướng tới cuộc sống giác ngộ và giải thoát. Như vậy, những hành động mà chúng

ta cho là thiện là tốt ấy, lẽ ra phải được hưởng quả lành, thế nhưng kết quả khơng như
ý muốn, vì những hành động ấy vắng bóng của chánh kiến, hay nói cách khác là thiếu
trí tuệ, cho nên sự lựa chọn rơi vào sai lầm, dẫn đến kết quả khổ đau”.
Đứng trên phương diện tu tập cũng vậy, chúng ta thống nhất nhận thức rằng,
chánh kiến là cái phân định giữa chánh pháp và tà pháp, giữa điều thật và giả dối.
Trạch pháp chính là cái giúp cho người tu hành lựa chọn pháp môn tu tập thích hợp,
đồng thời Pháp mơn ấy có khả năng dẫn đến giác ngộ và giải thốt. “Trong Phật giáo
có vô lượng pháp môn tu tập, đáp ứng cho mọi căn cơ và trình độ, nhưng trên cơ bản
pháp mơn nào cũng lấy tiến trình giới định tuệ làm cơ bản. Giới là những qui định
cần thiết cho người tu tập trong Phật pháp, bao gồm những yếu tố, là những điều kiện
cho sự phát triển tâm linh, bảo vệ sự hòa hợp của Tăng già, bảo vệ sức khỏe, và bảo
vệ môi sinh, môi trường”…. “Định là những phương pháp giúp cho tâm được yên
tịnh, khiến không bị tán loạn, làm nền tảng cho trí tuệ sinh trưởng. Tuệ là sự thấy và
biết đúng, như thật, không phải là sự tưởng tượng, Tuệ có chức năng chặt đứt vơ
minh, đoạn trừ tất cả phiền não”.
Trong thời kỳ A Hàm hoặc Nikaya (trừ Kinh Tiểu Bộ),vai trò của người xuất
gia rất được chú trọng. Một người muốn thành thánh quả A la hán, tức là đã giác ngộ
và giải thoát, người đó phải bỏ mọi ham muốn của đời sống trần tục, từ bỏ gia đình,
sống vơ gia cư khổ hạnh bởi lẽ người đang có gia đình thì vướng bận vợ con, cơng
việc, them vào đó, Đức Phật và chúng Tăng đều sống ở ẩn trong rừng rậm không tiếp
xúc cận kề chúng sinh và cũng khơng có các công cụ, phương tiện để hoằng pháp. Do
vậy, người muốn tu học rất có ít điều kiện để lãnh hội phật pháp. Tuy nhiên, đến thời


A Tỳ Đàm, vai trị của người xuất gia khơng cịn quan trọng như trước bởi việc tu tập
giải thốt khơng cịn ràng buộc vào việc đã xuất gia hay không xuất gia, điều quan
trọng là trong tâm thức của con người có tu tập hay khơng tu tập, vì vậy, cho nên
trong “Pháp Uẩn Túc Luận" các luận sư Tập dị mơn luận đã phân tích như sau:(5)
* Thân xuất gia nhưng tâm không xuất gia
Đây là hạng người đầu tiên trong bốn hạng người xuất gia. Đó là "Có một loại

người đối với những dục cảnh, thân người ấy tuy đã xa lìa những dục cảnh, nhưng
tâm vẫn cịn đắm trước. Như có người cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, chánh tín xuất
gia. Người này, tuy thân tướng là xuất gia, nhưng tâm vẫn còn tham luyến nhớ nghĩ
về những dục cảnh mà người ấy đã được cảm thọ trước đây. Những người này, gọi là
thân xuất gia mà tâm chưa xuất gia".
Đối với hạng người nay, thân thể của họ tuy mang hình tướng của người xuất
gia, đã cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, nhưng tâm tánh của người ấy chưa xuất gia,
nhưng trong tâm thức họ vẫn còn mang tham ái ngũ dục, mưu tìm lợi dưỡng. Hạng
người này, nếu đứng trên tinh thần xuất gia tu học trong Phật giáo thì rõ ràng đây
không phải là hạng người xuất gia chân chính mà đó là hạng người lợi dụng Phật
pháp, ta theo hạng người này khơng những chẳng có lợi ích cho bản thân mình mà
cịn làm hại cho Phật Pháp, có nghĩa là chỉ đọc kinh phật bằng miệng mà trong tâm trí
khơng ngộ ra được điều gì, chỉ có đọc mà không biết luận. Trong xã hội từ khi Phật
giáo mới hình thành cho đến xã hội hiện đại ngày nay đều tồn tại hạng người này.
Chính vì vậy, trong quá trình thuyết pháp, đức Phật đã giảng “Kinh Thừa Tự Pháp”
trong “Kinh Trung Bộ”. Ngài luôn nhắc nhở Tăng đồn của mình rằng: “Nếu trong
Phật pháp hạng người này q nhiều thì đó là ngun nhân làm Phật pháp suy đồi”
* Tâm xuất gia nhưng thân chưa xuất gia
Đây là hạng ngươi thứ hai trong bốn hạng người tu hành, hạng người này dược
nhắc đến ở “Phẩm Tịnh Lự” trong "Pháp Uẩn Túc Luận" được đề cập cụ thể là: "Có
một hạng người, đối các những dục cảnh, tâm tuy đã xa lìa mà thân vẫn chưa xa lìa.
5Đại Tạng 1, Cầu Pháp Kinh, trang 570


Như có người, tuy có vợ con, ruộng vườn, nhà cửa, trang sức châu báu, xoa ướp
hương thơm, ăn uống những thứ thượng diệu, có người hầu hạ v.v.. nhưng người ấy
đối với các dục cảnh, tâm không sanh nhiễm trước, tham ái. Người ấy, thân tuy là tại
gia nhưng tâm đã xuất gia, người này gọi là tâm xuất gia mà thân chưa xuất gia".
Hạng người này thường là các cư sĩ sống ở nhà, với chính gia đình của mình.
Họ cũng có vợ con, nhà cửa ruộng vườn, của cải, cũng hưởng thụ những khoái lạc

của cuộc sống trần tục như bao người khác. Nhưng trong Tâm của học khơng đắm
đuỗi, khơng bị nhiễm đục trước những khối lạc ấy. Hạng người này về mặt hình
tướng đời thườn tuy chưa cạo râu, cắt tóc, mặc áo cà sa nhưng tâm họ đã Quy y cửa
phật trước thân, tâm họ đã an lạc và giải thoát. Và như vậy,đây là điểm đặc thù trong
quá trình hình thành và phát triển Phật giáo. “trong các bộ Kinh A Hàm và Nikaya,
đức Phật ln ln nhấn mạnh, đề cao vai trị người xuất gia, khơng một người tại gia
nào có thể chứng quả A la hán, chỉ chứng được A na hàm là cao nhất. Đến thời kỳ
Kinh Tiểu Bộ đã manh nha tư tưởng đề cao vai trò người cư sĩ, đến Luận Tạng đã
cơng khai đề cao vai trị người tại gia cư sĩ. Người cư sĩ không cần phải xuất gia, vẫn
sống ở gia đình, nhưng vẫn được giác ngộ giải thốt. Có thể nói đây là q trình phát
triển của Phật giáo, để dần dần hình thành nhân vật Duy Ma Cật của Phật giáo Đại
thừa, hoàn tồn mang hình thức là người cư sĩ, nhưng tư cách và quả vị còn cao hơn
cả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên”
* Thân và tâm đều xuất gia
Thân và tâm đều xuất gia chính là hạng người cao quý nhất trong hàng ngũ đệ
tử Phật. Hạng người này được mơ tả như sau: "Có hạng người đối với những dục
cảnh. Như có người, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, chánh tín xuất gia. Người ấy đối
với những dục cảnh tâm không tưởng nhớ luyến ái những dục cảnh trước đây đã thọ
dụng, tâm vị ấy thường ăn năn sám hối những lỗi lầm, sống trong chánh niệm. Người
ấy được gọi là thân và tâm điều xuất gia".
Đây chính là những tiêu chuẩn mẫu mưc trong Phật giáo. Thực tế, vấn đề độ
sinh, nếu với tư cách là người xuất gia thì việc giáo hóa chúng sinh sẽ gặp rất nhiều


thuận tiện, và đương nhiên, với hình tướng bên ngồi là cư sĩ Phật pháp giỏi giang
cùng với việc giáo hóa chúng sinh khơng gặp gì trở ngại do thân đã xuất gia. Thì có
thể nói đây chính là hạng người hoàn thiện nhất trong bốn hạng người tu tập.
* Thân và tâm khơng xuất gia
Hạng người này chính là hạng người cần được giáo hóa, giúp đỡ nhiều hơn, họ
được giới thiệu tổng quá như sau: "Có một hạng người, đối với các dục cảnh. Như

người có vợ con, ruộng vườn, nhà cửa, châu báu, trang sức vàng ngọc, xoa ướp
hương thơm, ăn uống thượng diệu, có người hầu hạ v.v đối với các dục cảnh, người
ấy sanh tâm tham luyến. Người này được gọi là thân và tâm khơng xuất gia".
Ở đây, đức Phật đang nói đến những người thế tục, họ không biết và không
hiểu được Phật pháp. Nếu như đứng trên quan điểm Phật pháp mà nhận định, họ là
những người đáng được chê trách nhất.
Theo quan điểm Phật giáo, đức Phật chỉ đề cao khen ngợi hạng người thứ ba là
"Thân xuất gia và tâm xuất gia" và hạng người thứ hai là "Tâm xuất gia mà thân chưa
xuất gia". Bởi lẽ, vì hai hạng người này, “tâm của họ đã thật sự khơng cịn tham ái đối
với ngũ dục, do vì khơng cịn tham luyến đối với ngũ dục, cho nên tất cả những sầu,
bi, khổ, não khơng cịn nữa, như vậy là tâm của vị đã được giác ngộ và giải thoát”.
Hai hạng người này đại diện cho những đệ tử chân chính nhất của đức phật.
Như vậy, muốn được giải thoát hay khơng giải thốt, ta phải trả lời câu hỏi trước tiên
là Tâm đã được giải thoát hay chưa. “Hai hạng người này là đệ tử chân chính của đức
Phật, một đại diện cho người xuất gia và một đại diện cho người tại gia, là hai hạng
người đến với đức Phật với mục đích mong cầu giải thốt, khơng phải vì lợi dưỡng
hay địa vị”.
Qua nội dung và ý nghĩa của hạng người thứ hai ta nhận thấy rằng, giác ngộ và
giải thốt khơng tùy thuộc vào những hình thức bên ngồi. “Hình thức bên ngồi chỉ
có giá trị, khi bên trong của nó chứa đựng bản chất chân thật của nó, nếu bản chất của
nó khơng cịn thì đó là sự ngụy trang giả dối”. Trường hơp người tu tập theo hạng
người thứ nhất là một ví dụ điển hinh. Ở đây họ đã quy y cửa phật, đã làm thầy, thậm
chí đã đi giảng đạo cho người ta mà tâm vẫn cịn bị vẩn đục. Đây chính là điểm mà


người làm thầy, làm người lãnh đạo Phật giáo cần phải suy nghĩ. “Hai hạng người còn
lại là hạng người thứ nhất và thứ tư là hạng người đáng chê trách, vì cuộc sống của họ
khơng hướng đến mục đích tối thượng là sự giải thoát. Hạng người thứ nhất tuy thân
đã xuất gia nhưng tâm vẫn còn tham đắm năm thứ dục lạc là: 1. tiền tài, 2. sắc đẹp, 3.
địa vị, 4. ăn uống, 5. ngủ nghỉ. Vì theo Phật giáo năm thứ này là những thứ làm

chướng ngại con đường giác ngộ giải thốt, do đó Phật khuyên mọi người nhất là
người xuất gia cần tránh xa ngũ dục”. Do vậy, đối với hạng người tuy đã cạo bỏ râu
tóc, mặc áo ca sa xuất gia, nhưng tâm vẫn chưa rời ngũ dục, người ấy tự mình khơng
thành đạt mục đích của người xuất gia, cịn ảnh hưởng không tốt cho Phật pháp, như
người vào rừng để tìm lõi cây, sau khi vào rừng, người ấy đã bỏ qua giác cây lõi cây,
chỉ mang về cành lá mà thôi. Sự thật, hạng người thứ nhất này, ở xã hội ngày xưa
cũng như nay vẫn tồn tại trong hàng ngũ Tăng già, đó là sự thật, khó tránh khỏi,
nhưng làm thế nào để hạn chế những hạng người này khơng phải chỉ có bổn phận của
người xuất gia mà cịn cả người Phật tử tại gia, vì tiền tài vật chất là nhân tố để hình
thành hạng người này, do đó người Phật tử cũng phải có bổn phận và trách nhiệm.

KẾT LUẬN


Đức Phật chứng ngộ giáo lý của Ngài dưới cây Bồ Đề chính là Dun khởi, vơ
thường và vơ ngã. Chân lý đó đã giúp cho đức Phật phát hiện và nhận biết được cuộc
sống của chúng sinh vốn là khổ và nguyên nhân dẫn đễ cái khổ đó là do vơ minh hay
lịng khát ái vơ tận của con người. Để giải thốt được nỗi khổ đó, con người phải có
trí huệ, phải có phẩm hạnh, phải hiểu được kinh và luận được kinh Phật thì mới có
cuộc sống an nhiên tự tại ngay giữa cõi đời thường và muôn kiếp về sau.
Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt: “các đệ tử của Ngài ghi nhớ và biên tập những
lời giảng dạy của Ngài được gọi là Agama (A hàm) hay Nikaya. Nếu tiếp tục phát
triển theo hình thức này, người về sau không biết đâu là lời Phật dạy, đâu là ý kiến
của người hậu thế. Từ đó độc lập tách thành Luận tạng, tức là Abhidhamma, Hán dịch
là A tỳ Đạt Ma hay A tỳ đàm, là những bản luận sớ giải kinh. Trong đó Pháp Uẩn Túc
Luận là bộ luận của phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ, chuyên sớ giải về Kinh Tạp A
hàm mà chúng ta vừa tìm hiểu mối liên hệ và so sánh ở phương thức trình bày”.
Qua sự so sánh chúng ta thấy nội dung và ý nghĩa giữa Kinh và luận đại bộ
phận giống nhau. Tất nhiên có một vài điểm khác biệt, hay nói đúng hơn là ở luận
tạng có sự phát triển rõ rệt. Qua ý nghĩa và nội dung của "Phẩm niệm trú” trong

“Pháp Uẩn Túc Luận” cho thấy. trong Phật pháp hay nói đúng hơn là A tỳ đàm, định
nghĩa khái niệm tu tập trong Phật giáo rất rõ ràng, không mông lung trườu tượng. Tu
tập là sửa đổi những sai lầm từ thân và từ tâm của hành giả, biết phân biệt rõ ràng
giữa sai và đúng, giữa thiện và bất thiện. Phạm phải điều gì sai lầm phải đối mặt và
thừa nhận, không che giấu bưng bít, sau đó lấy cái đúng tức là chánh pháp để sửa đổi
lỗi lầm Đồng thời, những hành vi tâm niệm tốt thiện nào của thân của tâm cũng phải
quán sát biết như vậy, sau khi biết nếu nó là hành vi tốt, là tâm thiện thì tiếp tục phát
triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Đại tạng 26, “A Tỳ Đạt Ma Pháp Uẩn Túc Luận”
2. Đại Tạng 1, Cầu Pháp Kinh
3. HT.Ấn Thuận, "Nguyên thủy Phật giáo thánh Điển chi tập thành" NXB
chánh, Trung Hoa dân quốc năm 1983
4. HT.Ấn Thuận, “Thiết Nhứt Thiết Hữu Bộ Vi Chủ Luận Thư Dữ Luận Sư
ChiNghiên Cứu”, NXB Chánh Văn, dân quốc năm 81
5. Lữ Trưng, “Ấn Độ Phật học Tư tưởng Khái luận”, NXB Thiên Hoa, tr 57.
6. HT. Ấn Thuận biên soạn, “Tạp A Hàm Kinh LuậnHội Biên”, NXB Chánh
Văn
7. HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1, Viện Nghiên cứu Phật
họcViệt Nam ấn hành, 1992



×