Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

So sánh quy trình dệt lụa truyền thống của Việt Nam với Trung Quốc, Thái Lan và Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.85 KB, 12 trang )

Môn: Nghiệp vụ hướng dẫn du lịch

Bài tập 4:
So sánh quy trình dệt lụa truyền thống của Việt Nam
với Trung Quốc, Thái Lan và Nhật Bản
I.

1

SO SÁNH QUY TRÌNH DỆT LỤA CỦA VIỆT NAM VỚI TRUNG QUỐC
I.1.
Quá trình dệt lụa

Việt Nam (Lụa Hà Đông)
Trung Quốc (Lụa Hàng Ch
Nghiên cứu
Nghiên cứu thu thập được 04 giống tằm
sản
xuất
sắn. Bằng phương pháp lai chéo ổ kết hợp với
trứng giống
tằm
nâng cao chất lượng thức ăn đã bồi dục, phục
tráng giống tằm sắn PT1 có khả năng chống chịu
tốt với điều kiện ngoại cảnh bất lợi, năng suất
kén trung bình đạt 15,8-17,6 kg/ hộp 20g trứng
tăng 18-21% so với giống tằm đăng sử dụng
ngoài sản xuất.

2


Canh tác Có 2 giống dâu: dâu bầu và dâu cơm. Dần dần
cây dâu và
nhận thấy dâu bầu thích hợp, năng suất cao (lá
nuôi tằm
(sản xuất lớn, dày) nên người ta đã tập trung cho giống
kén tằm)
này và bỏ dần dâu cơm. Sau tiết Đơng chí, khi

Những con sâu bướm tơ đẻ
trong suốt vịng đời của nó
khi trứng nở, những con s
môt số lượng lá dâu nhất đ
ăn và lớn rất nhanh. Sau
lượng, các con sâu quấn
đất đã im, mưa lớn khơng cịn, người ta tiến thạch trắng giống như chất
Những kén tằm giống nh
hành dọn đất trồng dâu. Đất được dọn sạch cỏ,
trắng
dùng cuốc đánh thành từng luống rồi cắm hom
dâu. Hom dâu, dài chừng 3 tấc, chọn ở những


đoạn thân dâu giống khoẻ, mập mạp, không bị
bệnh. Hầu như người ta khơng bón phân cho cây
dâu, vì đất trồng dâu khá màu mỡ. Bốn tháng sau
khi trồng, nắng xuân ấm áp, dâu đã có thể cho
lứa thu hoạch lá đầu tiên và cứ thế sau 7 ngày lại
là một lần hái lá dâu.
3


4

Ươm tơ

Ngày xưa cũng đơn giản, chỉ cần đắp lị vào nồi Sau tám hoặc chín ngày, n
nước sơi như kiểu lị bánh tráng. Kén được thả bị giết. Kén được hạ xuống
vào nồi, lấy đũa khuấy sơ rồi kéo tơ lên mắc vào nới lỏng các sợi tơ bảo vệ r
“bông sen” đưa lên xa quay. Ươm tơ chỉ cần 2
người: 1 người bắt kén, 1 người quay xa. Xác
kén còn lại, người ta vắt sạch kéo ra thành đũi,
còn gọi là gốc giũ.
Chế biến Trứng tằm được dính chặt trên tấm gương (hoặc
các
loại giấy bổi) mà thương lái đã giao và khi tằm nở,
phế liệu tơ người ta hái những lá dâu non, xắt thật nhỏ,
kén tằm
nhuyễn như thuốc cứa (thuốc lá xắt để quấn giấy
quyến) rải sương lên lớp tằm mới nở để cho tằm
bắt dâu, tức là tằm con biết ăn, nổi đều lên lớp
dâu đã được xét nhuyễn ấy.

5

Xe tơ

Phải mất nhiều thời gian và công sức với nhiều
công đoạn như: chải cửi, xe tơ, chọn tơ, từng sợi
tơ được lựa chọn kỹ lưỡng bởi chỉ một sợi to
hơn cũng sẽ làm tấm lụa khơng cịn mịn màng
nữa.


6

Dệt lụa

Dệt bằng tay
Dệt bằng máy, dệt thủ công
- khâu tơ
- Khâu hồ
- Khâu dệt
+ Nếu dệt lụa trơn thì dùng 2 loại go thẳng và go
vòng. Go thẳng để dệt lụa mỏng, mịn cịn go
vịng dệt lụa có chấm thủng.
+ Dệt hoa có thao tác như dệt trơn nhưng khác ở
chỗ trước khi dệt cần phải vẽ trước kiểu hoa lên


giấy. Thợ dệt đặt mẫu lên bàn khâu hoa rồi một
người dệt, một người cài hoa. Giữ vai trị chính
là người dệt còn người cài hoa chỉ kéo go xà lên.
Dân gian gọi dệt hoa là dệt kép để phân biệt với
cách dệt đơn khi làm hàng lụa trơn.
7

Nhuộm tơ

Nhuộm tơ: Chủ yếu dùng các chất màu và
thuốc nhuộm có trong vỏ và lá của một số loài
cây để nhuộm vải sợi bông, lụa tơ tằm. Những
cách nhuộm màu phổ biến nhất:

1) Nhuộm chàm là cách nhuộm màu xanh
lam của đồng bào miền núi các tỉnh phía bắc và
Miền Trung Việt Nam. Lá chàm được vò và ủ
cho lên men tự nhiên, chiết lấy nước màu để
ngâm vải sợi, sau đó hong ra khơng khí. Chất
màu từ dạng hồ tan sẽ bị oxi hố thành dạng
khơng tan bám chặt vào xơ sợi. Màu chàm rất
bền nhưng chỉ có một màu xanh, thích hợp với
cách nhuộm nhỏ của gia đình.
2) Nhuộm nâu là cách nhuộm rất phổ biến
ở các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ, các
tỉnh Miền Trung.Củ nâu được giã nhỏ, hồ vào
nước để trích nước màu. Vải bông được ngấm
đều bằng nước chiết, vắt bớt nước dư và căng
phẳng, phơi ra nắng (phơi trên sân, trên bãi cỏ).
Thao tác này lặp lại 5 - 10 nắng (30 - 40 lần).
Dưới tác dụng của ánh sáng, mặt phải sẽ có màu
nâu tươi. Vải nhuộm nâu rất bền với vi sinh vật,
tăng thời gian sử dụng nhưng cứng vải. Để
nhuộm màu nâu, nhân dân ta còn dùng nước
chiết từ lá bàng, vỏ sú, vỏ vẹt, vỏ lim... là những
cây có chất chát (tanin).
3) Nhuộm đen (cg. nhuộm thâm): vải sau
khi đã nhuộm nâu, nếu trát bùn ao lên mặt phải
của vải, phơi ra nắng 1 - 2 giờ và giặt sạch bùn
thì màu nâu sẽ chuyển thành màu đen rất đẹp và
bền. Ngồi vải bơng, cách nhuộm này cũng được
dùng để nhuộm lụa, tơ tằm (the) bằng nước chiết
của các loại lá và vỏ thích hợp.
4) Nhuộm mặc nưa là phương pháp của



đồng bào Nam Bộ dùng để nhuộm màu đen. Lụa
nilon đã nhuộm thuốc nhuộm tổng hợp nhưng
chưa có độ đen cao, được ngâm bằng nước chiết
từ quả mặc nưa (một số lần), phơi khơ, sau đó
ngâm vào bùn Sơng Hậu. Trên vải sẽ có màu đen
đẹp, độ bền cao, lụa vẫn mềm mại và hút ẩm tốt.

1.2. Đặc trưng sản phẩm
ST
T
1

2

3

4

II.

Tiêu
Việt Nam
chí
Khổ lụa chính gốc làng Vạn Phúc khổ
lụa nhỏ hơn vì vẫn dệt thủ cơng, chỉ vào
khoảng 90 - 97cm và 1m15
Khi Nếu sau khi đốt, vết cháy biến thành
đốt than và đưa tay lên xoa xoa nhẹ thì

chúng tan ra trở thành muội đen, đưa
lên mũi ngửi thấy mùi khét lẹt giống
như tóc thì đó đúng là lụa tơ tằm
chính hiệu.
Màu lụa Vạn Phúc thuần chất thường chỉ
sắc trắng ngà chứ ít khi có màu trắng
tinh, do dệt từ tơ tằm.
Hoa có hoa dệt và hoa in trên lụa
dệt Hoa văn bao giờ cũng trang trí đối
xứng, đường nét trang trí khơng
rườm rà, phức tạp mà ln mềm mại,
phóng khống, dứt khốt

Trung Quốc
lụa Trung Quốc thường rộng
khổ khoảng trên 1m
nếu dùng lửa mà vải vẫn cháy
đen và dẻo quẹo, khơng tạo
muội than thì đó ắt hẳn là
hàng Tàu
Lụa trắng tinh Trung Quốc
thường do chất liệu pha, màu
đều
có hoa dệt mà khơng có hoa in

SO SÁNH QUY TRÌNH DỆT LỤA CỦA VIỆT NAM VỚI NHẬT BẢN

Tiêu chí
Quy trình sản xuất


Việt nam
1.Nuôi tằm
ấp trứng

Nhật bản
1.Nuôi tằm
ấp trứng


-

cho tằm ăn
đóng kén
ươm tơ
se sợi

2.Dệt lụa:
Cách dệt:
Kiểu dệt
tryền thống của Việt Nam
là phối hợp, pha trộn các
loại sợ dọc và ngang đê
tạo ra những mặt hàng
khác nhau. Người thợ dệt
khi phải dùng tay đưa,
chân dận cùng lúc.
Suốt là ống cuốn chỉ, nằm
trong 1 con thoi để nahr
sợi. Dụng cụ sản xuất căn
bản là khung cửi gỗ “con

cò” dệt ra loại hàng vn
thơ, mỏng chừng 40 hay
60 cm (con cị đặt ở trên
và chính giữa khung dệt
để thẳng sợi làm chuẩn
cho cái go khỏi lệch).
Những vuông lụa mới dệt
xong goi là lụa mộc, chỉ
có màu trắng ngà hay
vàng mỡ gà của tơ và
được đem nhuộm sau
Nhuộm vải: Theo phương
pháp thủ công lụa mộc sẽ
được ngâm trong nước
trà, nước trầu không hay
nhựa cây,… rồi xả,
nhuôm màu, phơi khô,
nhuộm lại lần thứ 2 để ra
đúng màu sắc như ý
muốn. Màu nhuộm được
pha chế với ngun liệu
hồn tồn tự nhiên như:

-

cho tằm ăn
đóng kén
ươm tơ
se sợi


2.
Dệt lụa
Kĩ thuật dệt
: Từ xa xưa kỹ thuật dệt
vải,lụa đã rất phổ
biến,nhưng phải đến thời
đại Nora ( thế kỷ 8) mới
thấy xuất hiện những sản
phẩm dệt với chất lượng
cao với chất liệu chính
trong nghề dệt là sợi gai
dầu và các loại cây khác.
Tơ tằm là loại nguyên
liệu được biết đến từ thế
kỷ 5. Năm 711, dưới triều
hoàng đế Gemmyo các
chuyên gia dệt gọi là
ayashi được sở dệt cử về
hai mươi mốt tỉnh để
truyền bá kỹ huật mới –
dệt vải hoa aya và vải
thêu kim tuyến. Hoàng
chiều cũng chỉ dụ cho hai
mươi mốt tỉnh thành phải
nộp đồ cống hàng năm
bằng vải dệt. có lẽ điều
này giúp nghề dệt phát
riển mạnh mẽ ở nhiều nơi.
Các phương pháp dệt:
Vải thêu nishiki được dệt

sao cho nền và hoa văn
chỉ nổi trên sợi dọc,cịn
sợi ngang khơng trơng
thấy. vải hoa aya thì phần
lớn sợi chéo phủ lên hết


hột rành rành, lá bàng,
than, gạch,..
Màu thông dụng nhất là
màu đen và màu nâu.
Người ta nhuộm nâu bằng
củ nâu. Củ nâu đem về
gọt vỏ, xát mỏng, giã cho
chảy nhựa, đổ thêm nước
mà nhuộm. Nhuộm vài
nước thì được màu nâu
non nhuộm nhiều nước thì
có màu nâu già (nâu
đậm). Các loại lụa nhuộm
cho màu gụ nâu. Nhuộm
bằng củ nâu vừa bền màu
lại vừa chắc sợi . Ngâm
nước bùn để có màu nâu
thâm, màu tam giang là
màu nâu tím, người ta cịn
dùng cánh kiến để nhuộm
màu nâu đỏ, có khi chuội
lụa mộc để lấy màu trắng.
Trong miền Nam dùng

trái mặc nưa để nhuộm
lụa đen Tân Châu
Ngày nay, kĩ thuật nhuộm
hiện đại đem lại cho lụa
tơ tằm những màu sắc rực
rỡ hơn nhưng dù sao
trong sâu thẳm trong tâm
hồn người dân Việt,
những màu sắc mộc mạc
tự nhiên vẫn được ưu ái
quay về tìm kiếm

bề mặt vải, hoặc có khi
hoa văn hiện trên sợi chéo
và sợi chéo trên hoa văn
chạy ngược sợi trên mặt
nền nên dưới ánh sáng
nào hoa văn cũng nổi lên.
Đối với lụa , có 2 loại
lụa : lụa kinu có bề mặt
mịn và lụa thôn ashigiu.
Lụa kinu được sản xuất
phổ biến,đôi khi được
nhuộm màu hoặc in hoa.
Nhuộm:
Về phẩm nhuộm,các loại
thảo mộc,tro củi và dấm
được dung làm chất căn
màu. Có 17 màu khác
nhau được tạo ra,nhưng

những màu chính được sử
dụng là:
đỏ,cam,vàng,tía,đen,nâu
sám
Các phương pháp nhuộm
chính là:
rokechi,kyokechi và
kokechi. Rokechi là
phương pháp nhuộm
sáp,hoa văn trước hết
được phủ sáp lên trên,sau
khi tẩy sáp đi chỉ cịn lại
hình hoa. Nét độc đáo của
kiểu nhuộm này là ở các
vết rạn tự nhiên trong lớp
sáp phủ khi đem
nhuộm,làm cho phần họa
tiết trên nền vải thêm
phần trang nhã.
Còn phương pháp nhuộm
koykechi là kẹp chặt lụa ở
giữa hai tấm ván, ván


được khoét thủng hình nét
họa để bắt màu khi
nhuộm. Người ta có thể
tăng số họa tiết cần
nhuộm đối xứng bằng
cách gấp tấm vải thành

những lần tương ứng.
phương pháp kokechi là
bó chặt tấm lụa bằng sợi
rồi đem nhuộm, nhưng
nếp gấp trong bó lụa cùng
các chỗ khơng bắt màu do
sợi dây thít sẽ tạo ra một
gam sắc độ kỳ thú.
Gấm, vân, lĩnh, đoạn, vóc, nishiki,vải hoa aya,sa,lụa
the, sa, xuyến, băng, cấp, kinu,lụa thơ ashigin, vải
lượt, lương, lụa, là, nhiễu, thêu kim tuyến,….
kì cầu, đũi, sồi, nái, …

Các loại lụa

III.

SO SÁNH QUY TRÌNH DỆT LỤA CỦA VIỆT NAM VỚI THÁI LAN

3.1.Quy trình dệt lụa
Tiêu chí
Việt Nam
Canh tác dâu
Mùa dâu cho lá, cũng là mùa nuôi tằm,
và nuôi tằm
ươm tơ.Trước đây, ở Quảng Ngãi chỉ có
hai giống tằm: tằm mướp, cịn gọi là
tằm bạc mày mướp (loại tằm này to
con, lớn kén, trên lưng có hai sọc, kén
có màu đỏ vàng, nhưng dễ tan); tằm sẻ

thì nhỏ con hơn, song dễ ni và kén ít
tan.
Trứng tằm được dính chặt trên tấm
gương (hoặc giấy bổi) mà thương lái đã
giao và khi tằm nở, người ta hái những

Thái Lan
Quy trình sản xuất sản
phẩm tơ tằm truyền
thống sử dụng nguyên
liệu thô là kén tằm và
bao gồm các cơng đoạn
trồng dâu ni tằm và
ươm tơ. Diện tích trồng
dâu nuôi tằm phải nằm
trong vùng Đông Bắc.
Cây dâu giống phải là
giống bản xứ hay giống
được
khuyến
khích


trồng. Ruộng dâu khơng
được có chất độc hại, có
mơi trường tự nhiên
thích hợp, cây dâu phải
được chăm sóc thường
xun. Chất lượng của lá
dâu phải tốt và thích hợp

cho việc ni tằm trong
Tằm đã bắt dâu, thì sang qua trẹt (như
từng thời kỳ. Lá dâu cần
cái sàng, nhưng đan khít khơng chừa
được bảo quản ở những
lỗ). Lúc này, tằm ngủ để rụng lơng. Qua nơi thống khí và có độ
mỗi giai đoạn trưởng thành, tằm thường ẩm thích hợp
ngủ một ngày một đêm. Mỗi tuần, tằm
ngủ một lần. Sau một lần ngủ, tằm đi từ
thời kỳ rụng lông, đến ăn mốt, ăn hai,
ăn ba còn gọi là thức lớn, hoặc ăn rộ,
tằm bắt đầu tin, đến chộ, đến tróc, tức
tằm chín đều và bắt bỏ lên bủa để làm
kén. Qua từng thời kỳ trưởng thành như
vậy, người ta sang tằm từ trẹt, qua nia,
qua nong, để tằm được trải dàn đều. Tất
cả những vật dụng trên được đặt trên
một cái đũi. Đũi làm bằng tre giống như
cái củi, nhưng chỉ có những cây song
ngang để lọt được các nong. Một cái
đũi, người ta thường đặt 4 đến 5 cái
nong, tuỳ theo ý người ni tằm. Nếu
lứa tằm tốt, thì ngày tin sẽ chín vài ba
con (da con tằm bóng lên và có màu
hồng hồng, gọi là chín), ngày sau chộ sẽ
chín khoảng một bàn tay người lớn,
ngày tiếp theo là tróc, nghĩa là chín đều,
trên 95%. Để cho mí tằm (lứa tằm)
được tốt thì người ta phải đầu tư phần
lớn cơng sức chăm sóc.

lá dâu non, xắt thật nhỏ, nhuyễn như
thuốc cứa (thuốc lá xắt để quấn giấy
quyến) rải sương lên lớp tằm mới nở để
cho tằm bắt dâu, tức là tằm con biết ăn,
nổi đều lên lớp dâu đã được xét nhuyễn
ấy.

Từ lúc tằm ăn hai, mỗi ngày phải thay
phân một lần, nếu không, phân tằm ứ
đọng bốc hơi lên, tằm sẽ bị bệnh. Trên
các đũi phủ màn tránh ruồi, hoặc những


tấm sáo (tre vót nhỏ như tăm hương, rồi
kết dính lại bằng những sợi chỉ), vì ruồi
là một trong những duyên cớ chính làm
tằm mắc bệnh.
Kén

Loại kén được “vầy” trong những ngày Kén tằm để kéo sợi phải
được nuôi ở vùng Đơng
mưa lạnh thì cũng chỉ kéo đũi, bởi kén
Bắc và phải là giống bản
bỏ vào nồi nước sôi cứ chạy tan ra mỗi xứ Thái Lan, sinh sản
quanh năm, có khả năng
nơi một cái khơng chụm vào được để
chống chịu tốt đối với
kéo thành sợi theo ý muốn. Ngày xưa, khí hậu nóng và khơ hạn
của vùng Đơng Bắc Thái.
giới buôn kén thường áp dụng những

Việc nuôi tằm phải ở
mánh lới để ép giá. Chúng múc nước trong vùng Đơng Bắc
Thái Lan. Quy trình ni
mưa vào nấu, hoặc lén bỏ vào nước
tằm cho đến khi được
chút phèn chua thì kén có tốt bao nhiêu kén tằm, nhà ni tằm và
dụng cụ phải sạch sẽ và
cũng tan. Do đó, việc cân kén, thử kén
an toàn. Cho tằm ăn lá
phải là người biết việc, tinh đời.
dâu có kích thước và tuổi
phù hợp với từng thời kỳ.
Chế biến các loại phế liệu tơ kén
Nuôi tằm đúng cách và
tằm : Trứng tằm được dính chặt trên phù hợp với điều kiện
của khu vực. Việc thu
tấm gương (hoặc giấy bổi) mà thương
hoạch kén tằm được thực
lái đã giao và khi tằm nở, người ta hái hiện khi tằm đã chín và
bắt đầu làm kén phải giữ
những lá dâu non, xắt thật nhỏ, nhuyễn
kén tằm ra khỏi né trong
như thuốc cứa (thuốc lá xắt để quấn vịng 3-5 ngày. Nếu thời
tiết nóng có thể thu
giấy quyến) rải sương lên lớp tằm mới
hoạch sớm hơn, thời tiết
nở để cho tằm bắt dâu, tức là tằm con lạnh thì thu hoạch chậm
xuống vì tằm sẽ nhả tơ
biết ăn, nổi đều lên lớp dâu đã được xét
chậm trong thời tiết lạnh.

nhuyễn ấy.
Việc lựa chọn kém tằm
được thực hiện thông qua
việc phân loại kén tốt ra
khỏi kén hỏng để có


được sợi tơ có chất lượng
tốt và đều màu. Trường
hợp mua kén tằm, kén
tằm phải là giống bản xứ
Thái Lan mà được nuôi ở
vùng Đông Bắc và phải
được nuôi trong điều
kiện mơi trường thích
hợp, theo đúng quy trình
trồng dâu ni tằm. Kén
tằm có chất lượng tốt và
sạch sẽ..
Ươm tơ

Ngày xưa cũng đơn giản, chỉ cần Ươm tơ là quy trình kéo
sợi tơ từ kén tằm bằng
đắp lò vào nồi nước sơi như kiểu lị
guồng se tơ (hay máy se
bánh tráng. Kén được thả vào nồi, lấy tơ) loại bản xứ hay
guồng se tơ (máy se tơ)
đũa khuấy sơ rồi kéo tơ lên mắc vào
loại cải tiến (Denchai 1),
“bông sen” đưa lên xa quay. Ươm tơ chỉ quấn sợi tơ rồi kéo tơ

xuống dụng cụ đựng.
cần 2 người: 1 người bắt kén, 1 người
Quy trình bao gồm các
quay xa. Xác kén còn lại, người ta vắt bước: chuẩn bị kén tằm,
luộc kén tằm và kéo sợi.
sạch kéo ra thành đũi, còn gọi là gốc
Sản phẩm phải được bảo
giũ. Tơ là mặt hàng cao cấp, cịn gọi là quản ở nơi có thể tránh
côn trùng và nên kiểm
thao lột. Tuỳ theo tay nghề và dụng cụ,
tra sợi tơ hàng thàng để
nếu sợi tơ lớn gọi là thao càn; sợi tơ khơng khí điều hịa
thường xunQ trình
nhỏ hơn thao càn, lớn hơn thao lột gọi
ươm tơ thủ công của
là thao kiệt.
vùng Isan sẽ tách sợi tơ
lớp ngồi (sợi tơ đầu) có
Xe tơ: Phải mất nhiều thời gian và cơng
kích cỡ lớn, thơ ráp ra
sức với nhiều công đoạn như: chải cửi, khỏi lớp sợi tơ trong (sợi
xe tơ, chọn tơ, từng sợi tơ được lựa tơ nhỏ). Sợi tơ trong có
chọn kỹ lưỡng bởi chỉ một sợi to hơn đặc điểm là sợi nhỏ, đều
cũng sẽ làm tấm lụa khơng cịn mịn nhau, sợi mướt nên khi
dệt thành tấm vải sẽ rất
màng nữa
Quy trình cơng nghệ dệt lụa gồm các mềm mại, khi mặc sẽ có


bước: Ngay từ khâu tơ, người thợ

không chỉ quấn sợi vào ống đơn thuần
mà còn phải chọn sợi, đẽo sợi để đảm
bảo sợi tơ có màu trắng, bóng nhẵn,
khơng sùi lơng, trị số tơ phải đều, sau
đó mắc sợi, lựa chọn riêng sợi dọc, sợi
ngang.
Khâu hồ: Sợi sau khi tơ phải đem hồ.
Việc hồ sợi chỉ thực hiện với loại sợi
dọc và đòi hỏi kỹ thuật rất cao. Người
thợ phải pha thêm sáp ong vào hồ để hồ
sợi đồng thời sử dụng bí quyết riêng
làm cho sợi sau khi hồ vừa dẻo dai, vừa
bóng rồi dùng khung cửi để dệt.
Khâu dệt: Là khâu quan trọng nhất của
nghề dệt lụa thủ cơng. Tùy mỗi sản
phẩm tơ lụa mà có những cách dệt khác
nhau. Nếu dệt lụa trơn thì dùng 2 loại
go thẳng và go vòng. Go thẳng để dệt
lụa mỏng, mịn cịn go vịng dệt lụa có
chấm thủng.
Có loại được nhuộm màu ngay từ khâu
sợi như gấm, vóc nhưng có loại như
lĩnh, the chỉ nhuộm khi đã dệt xong.
Nhuộm tơ: Chủ yếu dùng các chất màu
và thuốc nhuộm có trong vỏ và lá của
một số loài cây để nhuộm vải sợi bơng,
lụa tơ tằm.

cảm giác thống mát dễ
chịu. Sự tinh tế trong

phương pháp dệt lụa tơ
tằm của người Isan làm
cho tấm vải lụa có độ
phẳng đều nhau, đẹp,
mềm, sờ mướt tay, óng ả.
Trải qua nhiều công đoạn
khác nhau, những tấm
lụa tuyệt đẹp được hình
thành, chúng sẽ tiếp tục
được mang đi thêu dệt
những họa tiết hoa văn
tinh sảo để tạo nên
những tấm lụa hồn hảo
nhất. chính những lẽ đó
khi khơng sai người ta
công nhận những người
thợ dệt lụa Thái Lan là
những người sản xuất ra
những loại vải đẹp nhất
thế giới.


HỆ THỐNG TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Đối thoại các nền văn hố-Thái Lan, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

Một vịng quanh các nước: Nhật Bản, NXB Văn hố-Thơng tin, Hà Nội,
2005.
Tìm hiểu Nhật Bản ( Quyển 1+2).
Trung Hoa đất nước.
Trần Vĩnh Bảo (dịch), Một vòng quanh các nước: Thái Lan, NXB Văn
hố-thơng tin, Hà Nội, 2005.

Trang web:
o/to-lua-niem-tu-hao-cua-nguoi-trung-quoc577.html
Youtube:
- Đất nước Thái Lan.



×