Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.08 KB, 34 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
………………………………

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI VÀ ĐẶC
ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

Giảng viên: Vũ Thị Thu Hương
Nhóm : 3
Lớp học phần: Kinh tế chính trị Mác Lênin
Mã lớp học phần: 2128RLCP1211


Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC
QUYỀN NHÀ NƯỚC...........................................................................2
1. Nguyên nhân ra đời và phát triển của độc quyền nhà
nước trong chủ nghĩa tư bản......................................................2
2. Bản chất độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản.....3
3. Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước........................................................................................4
4. Vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản.....................................6
5. Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền
Nhà nước........................................................................................9
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN
CỨU CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA
.........................................................................................................15
1. Sự cần thiết của chủ nghĩa tư bản độc quyền ở nước ta. 15


2. Thực tiễn vận dụng chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
ở nước ta......................................................................................16
3. Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở nước ta.........................20
TỔNG KẾT.......................................................................................26



LỜI MỞ ĐẦU
Đầu thế kỉ XX, V.I Lênin đã chỉ rõ “Chủ nghĩa tư bản độc quyền
chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là khuynh
hướng tất yếu. “Cở sở cho sự chuyển biến này chính là sự dung hợp
giữa tư bản độc quyền với Nhà nước. Trong chủ nghĩa tư bản hiện
đại, nhiều chủ thể tham gia vào q trình sản xuất do đó sự tương
quan lợi ích giữa nhà tư bản và người lao động là cơ bản và chủ yếu
để thực hiện bản chất xã hội của phương thức tư bản chủ nghĩa. Tuy
nhiên, trong lòng chủ nghĩa tư bản vẫn chứa đựng những xung đột
lợi ích gay gắt, địi hỏi Nhà nước phải trực tham gia vào q trình
phân phối lợi ích. Chính vì vậy, vai trò của Nhà nước chuyển từ các
yếu tố bên ngồi, yếu tố tạo mơi trường, thành yếu tố bên trong của
quá trình tái xuất tư bản chủ nghĩa và trở thành một trong các yếu
tố quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ở
Việt Nam hiện nay, trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, sự
điều tiết nền kinh tế của Nhà nuocs càng có vai trị quan trọng. Nhà
nước quản lý kinh tế bằng pháp luật chính sách và các cơng cụ khác
nhằm mục đích phát huy vai trị tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực
của nền kinh tế thị trường.
Với những vấn đề cơ bản nêu trên, nhóm chúng tơi đã phân tích
đề tài ngun nhân ra đời và đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc
quyền Nhà nước nhóm chúng tơi sẽ phân tích chi tiết hơn trong từng

phần cụ thể. Nội dung bao gồm:
- Bản chất và những biểu hiện chủ yếu cả chủ nghĩa tư bản dộc
quyền Nhà nước
- Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu chủ nghĩa tư
bản độc quyền Nhà nước hiện nay.

1


Thơng qua đó làm rõ được tầm quan trọng của Nhà nước trong
việc điều hành kinh tế. Sự vận dụng cũng như ý nghĩa của vấn đề
trên ở Việt Nam

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC
1. Nguyên nhân ra đời và phát triển của độc quyền nhà
nước trong chủ nghĩa tư bản.
Theo Lê Nin, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền, đến
mức độ nhất định, tất yếu dẫn tới sự hình thành của chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước. Đó là khuynh hướng tất yếu. Tuy nhiên, chỉ
đến những năm giữa thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước mới trở thành một thực thể rõ ràng và là một đặc trưng cơ bản
của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thể hiện một trình độ
phát triển mới của chủ nghĩa tư bản. Trong đó về mặt kinh tế, độc
quyền phát triển lên trình độ cao hơn - độc quyền nhà nước.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản ra đời do những
nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Một là, tích tụ và tập trung vốn càng lớn thì tích tụ và tập trung
sản xuất càng cao, sinh ra những cơ cấu kinh tế to lớn địi hỏi phải

có một sự điều tiết từ một trung tâm đối với sản xuất và phân phối.
Sự phát triển của trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất đã dẫn
đến yêu cầu khách quan là nhà nước với tư cách là đại biểu cho toàn
2


bộ xã hội phải quản lý nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa, sản xuất càng phát triển thì lực lượng sản xuất xã hội
hố ngày càng cao, nhưng quan hệ sản xuất lại dựa trên chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, do đó tất
yếu địi hỏi phải có một hình thức mới của quan hệ sản xuất để mở
đường cho lực lượng sản xuất có thể tiếp tục phát triển.Hình thức
mới của quan hệ sản xuất đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước.
- Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất
hiện một số ngành mới có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
xã hội, nhưng các tổ chức độc quyền tư nhân không thể hoặc không
muốn đầu tư, do vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận,
nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông
vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản,...Vì vậy, nhà nước
phải đứng ra đảm nhận phát triển các ngành đó, tạo điều kiện cho
các tổ chức độc quyền tuệ nhân kinh doanh các ngành khác có lợi
hơn.
- Ba là, sự thống trị của độc quyền đã làm gia tăng sự phân hoá
giàu nghèo, làm sâu sắc thêm sự mâu thuẫn giai cấp trong xã hội.
Trong điều kiện như vậy, đòi hỏi nhà nước phải có những chính sách
xã hội để xoa dịu những mâu thuẫn đó, như các chính sách trợ cấp
thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã
hội,...
- Bốn là, cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự

bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những
hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích đối với các đối thủ trên
thị trường thế giới. Tình hình đó địi hỏi phải có sự điều tiết các quan
hệ chính trị và kinh tế quốc tế, trong đó khơng thể thiếu vai trị của
nhà nước.

3


Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới và tác động của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại cũng đòi hỏi sự can
thiệp của nhà nước vào đời sống kinh tế.
2. Bản chất độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản hình thành nhằm
phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền tư nhân và tiếp tục duy trì,
phát triển chủ nghĩa tư bản.
Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa xã hội tư bản là sự thống
nhất của ba q trình gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của
các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh
tế, kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà
nước trong một cơ chế thống nhất và làm cho bộ máy nhà nước
ngày càng phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.
Trong cơ cấu của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản,
nhà nước đã trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nhà nước cũng
là chủ sở hữu những doanh nghiệp, là nhà tư bản tập thể, và nhà
nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó
bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bấy
nhiêu.
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trị kinh tế nhất định đối với xã
hội mà nó thống trị, xong ở mỗi chế độ xã hội, vai trị kinh tế của

nhà nước có sự biến đổi thích hợp đối với xã hội đó. Ngày nay vai trị
của nhà nước tư sản đã có sự biến đổi, khơng can thiệp vào nền sản
xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà cịn có vai trị tổ chức và quản
lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các
đòn bẩy kinh tế và tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất là sản
xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng.

4


Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản là hình thức vận
động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất
của tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn còn những sự phù hợp nhất định
với trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, làm cho chủ nghĩa
tư bản vẫn thích nghi với điều kiện lịch sử mới và do đó vẫn tiếp tục
phát triển.
3. Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
3.1. Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước
Sự kết hợp về nhân sự thực hiện thông qua các đảng phái tư sản. Chính các đảng
phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện thống trị và
trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước.
Cùng với các đảng phái tư sản, sự kết hợp về nhân sự cịn được thực hiện thơng
qua các hội chủ xí nghiệp mang những tên khác nhau, thí dụ: Liên đồn công nghiệp
Italia, Tổ chức liên hợp công nghiệp Đức, Liên đồn cơng thương Anh…
Các hội chủ xí nghiệp này trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là chỗ dựa
cho chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Các hội chủ này hoạt động như là các cơ
quan tham mưu cho nhà nước, chi phối đường lối kinh tế, đường lối chính trị của nhà
nước tư sản nhằm “lái” hoạt động của nhà nước theo hướng có lợi cho tầng lớp lư bản
độc quyền. Vai trò của các hội lớn đến mức mà dư luận thế giới đã gọi chúng là những
chính phủ đằng sau chính phủ, một quyền lực thực tế đằng sau quyền lực của chính

quyền. Thông qua các hội chủ, một mặt các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham
gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau: mặt khác, các quan chức và
nhân viên chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền, giữ
những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự, hoặc trở thành những người đỡ
đầu các tổ chức độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này (còn gọi là sự kết hợp) đã tạo
ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà
nước từ trung ương đến địa phương.
3.2. Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước

5


Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản độc quyền có
nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của
chủ nghĩa tư bản. Nó biểu hiện khơng những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên mà còn ở
sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân, hai
loại sở hữu này đan kết với nhau trong q trình tuần hồn của tổng tư bản xã hội.
Sở hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cần cho
hoạt động của bộ máy nhà nước, mà gồm cả những xí nghiệp nhà nước trong cơng
nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội như: giao thông vận tải,
giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội… trong đó ngân sách nhà nước là bộ phận quan trọng
nhất.
Sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: xây dựng xí
nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách: quốc hữu hố các xí nghiệp tư nhân bằng
cách mua lại: nhà nước mua cổ phần của các xí nghiệp tư nhân; mở rộng xí nghiệp
nhà nước bằng vốn tích luỹ của các xí nghiệp tư nhân…
Sở hữu nhà nước thực hiện các chức năng quan trọng sau:
- Một là, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản. Điều này liên quan dến những ngành sản xuất cũ
không đứng vững được trong cạnh tranh và có nguy cơ thua lỗ, cũng như các ngành

cơng nghiệp mới nhất địi hỏi vốn đầu tư lớn và trình độ nghiên cứu khoa học, thiết
kế và thử nghiệm cao được nhà nước đầu tư phát triển.
- Hai là, giải phóng tư bản của tổ chức dộc quyền từ những ngành ít lãi để dưa
vào những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn.
- Ba là, làm chỗ dựa về kinh tế cho nhà nước để nhà nước điều tiết một số quá
trình kinh tế phục vụ lợi ích của tầng lớp tư bản độc quyền.
3.3. Sự điều tiết kỉnh tế của nhà nước tư sản
Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước là sự tham gia của nhà nước tư sản vào việc điều tiết quá trình kinh tế. Hệ
thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản là một tổng thể những thiết chế và thể chế
kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính sách, cơng

6


cụ có khả năng điều tiết sự vận động của tồn bộ nền kinh tế quốc dân, tồn bộ q
trình tái sản xuất xã hội theo hướng có lợi cho tầng lớp tư bản độc quyền.
Các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản là sự thể hiện rõ nét nhất sự điều tiết
kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Chúng bao
gồm nhiều lĩnh vực như: chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát;
chính sách tăng trưởng kinh tế, chính sách xã hội, chính sách kinh tế đối ngoại.
Các công cụ chủ yếu của nhà nước tư sản dùng để điều tiết kinh tế và thực hiện
các chính sách kinh tế là: ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ - tín dụng, các doanh
nghiệp nhà nước, kế hoạch hố hay chương trình hố kinh tế và các cơng cụ hành
chính - pháp lý.
4. Vai trị lịch sử của chủ nghĩa tư bản
4.1. Vai trị tích cực của chủ nghĩa tư bản
Trong quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản có nhiều mặt tích
cực đối với sự phát triển của xã hội.
- Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng

Q trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng
sản xuất phát triển mạnh mẽ với trình độ kĩ thuật và cơng nghệ
ngày càng cao. Chuyển từ kĩ thuật lao động thủ công lên kỹ thuật cơ
khí, sang tự động hố tin học hố,… Cùng với sự phát triển của kỹ
thuật và công nghệ là q trình giải phóng sức lao động nâng cao
hiệu quả khám phá và chinh phục tự nhiên của con người. chủ nghĩa
tư bản có cơng lớn trong phát triển các cuộc cách mạng công nghiệp
và hiện nay là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 xuất hiện vào đầu
thế kỉ XXI, chuyển nền kinh tế của nhân loại bước vào thời đại mới.
- Chuyển nền kinh tế sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn hiện
đại
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã đoạn tuyệt với nền kinh tế tự
nhiên, chuyển kinh tế hàng hoá đơn giản lên kinh tế hàng hoá tư bản
7


chủ nghĩa phát triển, chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất
tập trung quy mô lớn, hiện đại, năng suất cao. Dưới tác động của
quy luật giá trị thặng dư và các quy luật của nền kinh tế thị trường
chủ nghĩa tư bản đã cải tiến kĩ thuật tăng năng suất lao động tạo ra
khối lượng sản phẩm hàng hoá khổng lồ.
- Thực hiện xã hội hoá sản xuất.
Chủ nghĩa tư bản thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển
mạnh mẽ và đạt tới mức kinh điển nhất trong lịch sử, cùng với nó là
q trình xã hội hoá sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu. Đó là sự
phát triển của phân cơng lao động xã hội sản xuất tập trung với quy
mô lớn, hợp lý, chun mơn hố sản xuất và hợp tác lao động sâu
sắc. Đây cũng là một trong những điều kiện kinh tế thuận lợi thúc
đẩy nền sản xuất xã hội phát triển cao hơn.
4.2. Những hạn chế của chủ nghĩa tư bản.

- Mục đích của nền sản xuất tư bản trước hết tập trung chủ yếu
vì lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản, khơng phải vì lợi ích của đại đa
số quần chúng nhân dân lao động một cách tự giác.
Cơ sở của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là dựa trên chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, trong đó giai cấp
cơng nhân là những người lao động khơng có tư liệu sản xuất, học
phải bán sức lao đông cho các nhà tư bản và bị bóc lột giá trị thặng
dư. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, tư liệu sản xuất vẫn nằm trong
tay các nhà tư bản, đặc biệt là nằm trong tay các tập đoàn tư bản
đọc quyền, do đó họ là người chi phối việc phân phối sản phẩm xã
hội sản xuất ra vì lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản, một nhóm nhỏ
tư bản độc quyền. Do vậy tư bản độc quyền đã ít nhiều làm kìm hãm
cơ hội có thể phát triển tốt hơn cho nhân loại, mặc dù nền kinh tế
của các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn phát triển ở những mức
độ nhất định.

8


- Chủ nghĩa tư bản là một trong những nguyên nhân châm ngòi
của hầu hết các cuộc chiến tranh trên thế giới
Vì sự tồn tại, phát triển, các cường quốc tư bản ra sức chiếm
lĩnh thuộc địa, chiếm lĩnh thị trường, các cường quốc tư bản đã tiến
hành phân chia lãnh thổ, thị trường trên thế giới.Nhưng do sự phân
chia lãnh thổ và thị trường thế giới dựa vào sức mạnh của các cường
quốc tư bản, hơn nữa do sự phát triển khơng đều về kinh tế và chính
trị của các nước tư bản, tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi phân
chia lại thị trường thế giới sau khi đã chia xong. Đó chính là ngun
nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ
hai cùng với hàng trăm các cuộc chiến tranh khác trên thế giới và là

nguyên nhân của các cuộc chạy đua vũ trang, chiến tranh lạnh đã
kéo thụt lùi kinh tế thế giới hàng chục năm.
Sang đầu thế kỷ XXI chiến tranh lạnh đã tạm thời kết thúc
nhưng cũng có thể quay lại bất cứ lúc nào; nguy cơ chiến tranh thế
giới cũng đã được đẩy lùi, nhưng điều đó khơng có nghĩa là chiến
tranh đã bị loại trừ hồn toàn.Hiện nay trên thế giới hàng chục các
cuộc chiến tranh cục bộ, chiến tranh khu vực, chiến tranh sắc tộc và
chiến tranh thương mại vẫn liên tiếp xảy ra, trong đó đứng bên trong
hay đằng sau, hoặc trực tiếp hay gián tiếp, hoặc ngấm ngầm hay
cơng khai đều có ‘bàn tay’ của các cường quốc tư bản.
- Sự phân hoá giàu nghèo ở chính ngay trong lịng các nước tư
bản và có xu hướng ngày càng sâu sắc
Mục đích giá trị thặng dư, mục đích làm giàu và thống trị thế
giới, trước đây các tập đoàn tư bản độc quyền và các cường quốc tư
bản đã không ngừng tăng cường xâm chiếm thuộc địa. Nhưng đến
nửa cuối thế kỷ XX, hệ thống thuộc địa kiều cũ tan rã làm cho chủ
nghĩa thực dân cũ đổ hoàn toàn. Các cường quốc từ bản chuyển
sang thi hành chính sách thực dân mới, mà nội dung chủ yếu của nó

9


là dùng viện trợ kinh tế kỹ thuật,quân sự, thực hiện " chiến lược
biên giới mềm ", để duy trì sự lệ thuộc của các nước đang phát triển.
Đây chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho sự
phân cực giàu - nghèo giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng cao.
Một nhóm nhỏ các cường quốc tư bản ngày càng giàu lên nhanh
chóng, cịn đại bộ phận các quốc gia còn lại, nhất là các nước chậm
phát triển thì vẫn chìm sâu trong nạn đói nghèo và bệnh tật của
hàng trăm triệu người .

4.3. Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản:
Trong chủ nghĩa tư bản vì mục đích lợi nhuận các nhà tư bản bỏ
ra giúp ứng dụng công nghệ hiện đại những phương pháp sản xuất
tiên tiến hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động để hạ giá trị
cá biệt của hàng hố. Do đó, chủ nghĩa tư bản càng phát triển, trình
độ xã hội hố của lực lượng sản xuất ngày càng cao. `90. Điều này
cho thấy những sự điều chỉnh quan hệ sở hữu có những phù hợp
nhất định với trình độ xã hội hố ngày càng cao. Nền sản xuất của
các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn có những sự thích ứng và
phát triển.
5. Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền
Nhà nước
Xét về phương diện lịch sử, chủ nghĩa tư bản vào những thập kỷ
cuối thế kỷ XX trở lại đây đã có những biến đổi sâu sắc, có thể coi
như một bước phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước.
5.1. Những biểu hiện mới trong năm đặc điểm của chủ nghĩa tư
bản độc quyền
5.1.1. Sự tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc
quyền:
Sự xuất hiện ngày càng nhiều những công ty độc quyền xuyên
quốc gia bên cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ

10


Hiện tượng liên kết đa dạng tiếp tục phát triển, sức mạnh của
các consơn và cônglômêrát ngày càng được tăng cường. Cách mạng
khoa học và công nghệ dường như biểu lộ thành hai xu hướng đối
lập nhau nhưng thực ra là thống nhất với nhau: xu hướng tập trung

và xu hướng phi tập trung hóa.
Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ là do:
- Thứ nhất.
Việc ứng dụng các thành tựu cách mạng khoa học và công nghệ
cho phép tiêu chuẩn hóa và chun mơn hóa sản xuất ngày càng
sâu rộng, dẫn tới hình thành hệ thống gia cơng, nhất là trong những
ngành sản xuất ô tô, máy bay, đồ điện, cơ khí, dệt, may mặc, đồ
trang sức, xây dựng nhà ở.
Nhìn bề ngồi, dường như đó là hiện tượng “phi tập trung hóa”,
nhưng thực chất đó chỉ là một biểu hiện mới của sự tập trung sản
xuất, trong đó các hãng vừa và nhỏ lệ thuộc và chịu sự chi phối của
các chủ hãng lớn về công nghệ, vốn, thị trường, v.v..
- Thứ hai.
Những ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cơ chế thị
trường. Những doanh nghiệp vừa và nhỏ nhạy cảm với thay đổi
trong sản xuất, linh hoạt ứng phó với tình hình biến động của thị
trường, mạnh dạn trong việc đầu tư vào những ngành mới đòi hỏi sự
mạo hiểm, kể cả những ngành lúc đầu ít lợi nhuận và những ngành
sản phẩm đáp ứng nhu cầu cá biệt. Các doanh nghiệp nhỏ dễ dàng
đổi mới trang bị kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí bổ sung.
5.1.2. Sự thay đổi trong các hình thức tổ chức và cơ chế thống
trị của tư bản tài chính
Thích ứng với sự biến đổi mới, hình thức tổ chức và cơ chế thống
trị của tư bản tài chính đã thay đổi. Sự thay đổi diễn ra ngay
11


trong quá trình liên kết và thâm nhập vào nhau giữa tư bản
ngân hàng và tư bản công nghiệp.
Ngày nay, phạm vi liên kết được mở rộng ra nhiều ngành, do đó

các tập đồn tài chính thường tồn tại dưới hình thức những tổ hợp
đa dạng kiểu cơng – nơng – thương – tín – dịch vụ hay cơng nghiệp –
quân sự – dịch vụ quốc phòng. Nội dung của sự liên kết cũng đa
dạng hơn, tinh vi hơn, phức tạp hơn.
Vai trị kinh tế và chính trị của tư bản tài chính ngày càng lớn,
khơng chỉ trong khn khổ quốc gia mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ
tới các nước khác trên thế giới.
Trùm tài chính khơng chỉ tăng cường địa vị thống trị về kinh tế
mà còn tăng cường sự khống chế và lợi dụng chính quyền nhà nước.
Trong chính phủ, họ có nhiều người đại diện hơn, hơn nữa, việc tự
mình đảm nhiệm các chức vụ quan trọng trong chính phủ ngày càng
phổ biến.
Để bành trướng ra thế giới và thích ứng với q trình quốc tế
hố đời sống kinh tế, các tập đồn tư bản tài chính đã thành lập các
ngân hàng đa quốc gia và xuyên quốc gia, tạo điều kiện cho các
công ty xuyên quốc gia thâm nhập vào các nước khác, đặc biệt là
Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).
Hoạt động của các tập đồn tài chính quốc tế đã dẫn đến sự ra
đời các trung tâm tài chính của thế giới như: Nhật Bản, Mỹ, Cộng
hoà Liên bang Đức, Hồng Kông, Singapo…
5.1.3. Xuất khẩu tư bản vẫn là cơ sở của tư bản độc quyền
nhưng quy mô, chiều hướng và kết cấu của việc xuất khẩu tư bản đã
có bước phát triển mới
Có sự tăng trưởng rất nhanh của việc xuất khẩu tư bản của các
nước tư bản phát triển. Nguyên nhân của quy mô xuất khẩu tư bản

12


ngày càng lớn, một mặt, là do cuộc cách mạng khoa học và công

nghệ mới đã thúc đẩy sự phát triển của việc phân cơng quốc tế, việc
quốc tế hố sản xuất và việc tăng nhanh tư bản “dư thừa” trong các
nước; mặt khác là do sự tan rã của hệ thống thuộc địa cũ
sau chiến tranh.
Chiều hướng xuất khẩu tư bản cũng có những thay đổi rõ rệt.
Trước kia, luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển sang các nước kém phát triển (khoảng 70%). Nhưng
từ sau những năm 70 của thế kỷ XX, 3/4 tư bản xuất khẩu được đầu
tư vào các nước phát triển, mở đầu bằng việc tư bản quay trở lại Tây
Âu.
Từ những năm 70, của thế kỷ XX đại bộ phận dòng tư bản lại
chảy qua chảy lại giữa các nước tư bản chủ nghĩa phát triển với
nhau. Nguyên nhân chủ yếu của sự chuyển hướng đầu tư nói trên là:
- Về phía các nước đang phát triển, phần lớn những nước này ở
trong tình hình chính trị thiếu ổn định. Thiếu mơi trường đầu tư an
tồn và thuận lợi; thiếu đội ngũ chuyên gia, cán bộ khoa học – kỹ
thuật, cơng nhân lành nghề; trình độ dân trí thấp và tích luỹ từ nội
bộ nền kinh tế quốc dân ít, khơng đủ mức cần thiết để tiếp nhận đầu
tư nước ngồi.
- Về phía các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất và dịch
vụ mới, nhất là những ngành có hàm lượng khoa học cao, đòi hỏi
lượng vốn lớn để đầu tư vào nghiên cứu khoa học – kỹ thuật và sản
xuất. Có một sự di chuyển vốn trong nội bộ các công ty độc quyền
xuyên quốc gia.
Các công ty này cắm chi nhánh ở nhiều nước, nhưng phần lớn
chi nhánh của chúng đặt ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Để
vượt qua những hàng rào bảo hộ mậu dịch và khắc phục những trở

13



ngại do việc hình thành các khối liên kết như EU, NAFTA… các công
ty xuyên quốc gia đã đưa tư bản vào trong các khối đó để phát triển
sản xuất.
Tuy nhiên, một loạt công ty ở các nước Anh, Pháp, Hà Lan… đã
vượt qua cả lệnh cấm vận của Mỹ để đầu tư vào các nước đang phát
triển. Chẳng hạn họ đầu tư thăm dị và khai thác dầu khí ở Việt Nam
– đó là bằng chứng rõ rệt chứng minh cho xu hướng trên.
Sở dĩ như vậy là vì tình trạng thiếu dầu khí và những kim loại
q hiếm vẫn đang là “gót chân Asin” của nền kinh tế các nước tư
bản chủ nghĩa phát triển, trong khi đó các nước đang phát triển giàu
tài nguyên lại thiếu vốn và kỹ thuật để khai thác, và nguồn lợi cao từ
lĩnh vực này đối với cả hai phía.
5.1.4. Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của chủ nghĩa tư
bản:
Xu hướng quốc tế hố, tồn cầu hố ngày càng tăng bên cạnh
xu hướng khu vực hóa nền kinh tế
Sức mạnh và phạm vi bành trướng của các công ty độc quyền
xuyên quốc gia tăng lên càng thúc đẩy xu hướng quốc tế hoá đời
sống kinh tế và sự phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa chúng với
nhau, đồng thời thúc đẩy việc hình thành chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước quốc tế.
Cùng với xu hướng quốc tế hoá, tồn cầu hố đời sống kinh tế
lại diễn ra hiện tượng khu vực hóa, hình thành ngày càng nhiều liên
minh kinh tế khu vực như: Liên hợp châu Âu (EU), Hiệp hội các nước
Đông Nam á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu á – Thái Bình
Dương (APEC)…
Ngày càng có nhiều nước tham gia vào các Liên minh Mậu dịch
tự do (FTA) hoặc các Liên minh Thuế quan (CU). FTA là khu vực trong


14


đó các nước thành viên cam kết xố bỏ hàng rào thuế quan đối với
hàng hóa của nhau. CU là liên minh trong đó các nước thành viên có
mức thuế chung đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước ngoài khối.
Các liên minh kinh tế khu vực hấp dẫn nhiều chính phủ vì chúng có
nhiều ưu thế hơn so với tiến trình tự do hố thương mại tồn cầu.
5.1.5. Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục
dưới những hình thức cạnh tranh và thống trị mới
Tuy chủ nghĩa thực dân cũ đã hoàn toàn sụp đổ và chủ nghĩa
thực dân mới đã suy yếu, nhưng các cường quốc tư bản chủ nghĩa,
khi ngấm ngầm, lúc công khai, vẫn tranh giành nhau phạm vi ảnh
hưởng bằng cách thực hiện “Chiến lược biên giới mềm”, ra sức bành
trướng “biên giới kinh tế” rộng hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi
phối các nước kém phát triển từ sự lệ thuộc về vốn, công nghệ đi
đến sự lệ thuộc về chính trị vào các cường quốc.
Chiến tranh lạnh kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy
lùi, nhưng lại được thay thế bằng những cuộc chiến tranh khu
vực, chiến tranh thương mại, những cuộc chiến tranh sắc tộc, tôn
giáo mà đứng trong hoặc núp sau các cuộc đụng độ đó là các cường
quốc đế quốc.
Những cuộc tấn công của Mỹ và đồng minh vào ápganixtan,
Irắc… chứng tỏ chủ nghĩa đế quốc vẫn là một đặc điểm trong giai
đoạn phát triển hiện nay của chủ nghĩa tư bản.
Tóm lại, dù có những biểu hiện mới, chủ nghĩa tư bản trong giai
đoạn hiện nay vẫn là chủ nghĩa tư bản độc quyền. Những biểu hiện
mới đó chỉ là sự phát triển của năm đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa
tư bản độc quyền mà thôi.

5.2. Những biểu hiện mới trong cơ chế điều tiết kinh tế của chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

15


Trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
có những biểu hiện mới sau đây:
- Hạn chế sự quan liêu của nhà nước, xác định lại sự trợ cấp của
nhà nước, thực hiện tư nhân hóa khu vực kinh tế nhà nước với quy
mô lớn ở nhiều nước. Điều đó là do nhu cầu tăng khả năng cạnh
tranh của các doanh ngiệp trong nền kinh tế quốc dân, do tình trạnh
nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn không hiệu quả. Tuy nhiên chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ngày nay khơng chủ trương xóa bỏ
khu vực kinh tế nhà nước mà chỉ thu hẹp, duy trì doanh nghiệp nhà
nước ở mức độ thích hợp để quản lý kinh tế vĩ mơ…
- Các hình thức của kinh tế thuộc nhà nước trong nền kinh tế
quốc dân ngày càng

trở nên đa dạng,

nó vừa bao gồm các xí

nghiệp thuộc nhà nước trong các ngành sản xuất vật chất, vừa
bao gồm các tổ chức tài chính thuộc ngân hàng, ngành kinh tế thứ
ba (dịch vụ), cùng những cơng trình cơ sở hạ tầng xã hội mới xây
dựng do nhà nước tư bản chủ nghĩa đầu tư.
- Kinh tế thuộc nhà nước và tư nhân kết hợp tăng lên mạnh mẽ.
Năm 1979, trong 40 công ty công nghiệp lớn nhất của Tây Âu có 7
cơng ty hỗn hợp vốn giữa nhà nước và tư nhân, trong đó vốn nhà

nước chiếm khoảng một nửa. Trong công ty dầu lửa của Mỹ, cổ
phần do Chính phủ nắm là 46%. ở Cộng hồ Liên bang Đức đã
có 1.000 xí nghiệp thuộc Nhà nước và tư nhân kết hợp.
- Chi tiêu tài chính của các nhà nước tư bản phát triển dùng để
điều tiết quá trình tái sản xuất xã hội tăng lên nhiều. Trước
Chiến tranh thế giới thứ nhất, khoản chi này chiếm khoảng
10% tỷ trọng tổng giá trị sản phẩm quốc dân, thì đến đầu
những năm 1980, khoản chi này đã chiếm hơn 30%, cá biệt có nước
vượt quá 50%.
- Phương thức điều tiết của nhà nước linh hoạt, mềm dẻo hơn với
phạm vi rộng hơn. Phương thức điều tiết của nhà nước cũng thay đổi
một cách linh hoạt, mềm dẻo hơn, kết hợp điều tiết tình thế với điều

16


tiết dài hạn. Các công cụ và phạm vi điều tiết của nhà nước cũng đa
dạng và mở rộng hơn:
 Điều tiết bằng chương trình và kế hoạch
 Điều tiết thị trường tài chính, tiền tệ, chống lạm phát, điều tiết
giá cả…
 Điều tiết quan hệ kinh tế đối, hệ thống tài chính tính dụng quốc
tế

CHƯƠNG II: Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA
VIỆC NGHIÊN CỨU CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC
QUYỀN NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA
1. Sự cần thiết của chủ nghĩa tư bản độc quyền ở nước ta
Đầu thế kỉ XX, V.I Lênin đã chỉ rõ “ Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành
chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là khuynh hướng tất yếu”. Cơ sở cho sự chuyển

biến này chính là sự dung hợp giữa tư bản độc quyền với Nhà nước. Trong chủ nghĩa
tư bản hiện đại, nhiều chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất do đó sự tương quan lợi
ích giữa nhà tư bản và người lao động là cơ bản và chủ yếu để thực hiện bản chất xã
hội của phương thức tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong lòng chủ nghĩa tư bản vẫn
chứa đựng những xung đột lợi ích gay gắt, đòi hỏi Nhà nước phải trực tiếp tham gia
vào q trình phân phối lợi ích.
Chính vì vậy, vai trò của Nhà nước chuyển từ các yếu tố bên ngồi, yếu tố tạo
mơi trường, thành yếu tố bên trong của quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa và trở
thành một trong các yếu tố quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã
hội.
Ở Việt Nam hiện nay, trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, sự điều tiết nền
kinh tế của Nhà nước càng có vai trị quan trọng. Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp

17


luật chính sách và các cơng cụ khác nhằm mục đích phát huy vai trị tích cực, hạn chế
các mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Một số yếu tố bất hợp lý của mơ hình kinh tế
trước đây vẫn cịn tồn tại và địi hỏi cần phải có những giải pháp cụ thể để giải quyết
trong thời gian tới. Một trong những vấn đề cần giải quyết là tình trạng độc quyền của
các doanh nghiệp nhà nước. Sự tồn tại quá nhiều doanh nghiệp nhà nước (rất nhiều
trong số đó kinh doanh khơng hiệu quả) và việc độc quyền của doanh nghiệp nhà
nước trong nhiều lĩnh vực là một trong những lý do được các luật sư Mỹ sử dụng để
khẳng định Việt Nam khơng có nền kinh tế thị trường trong vụ kiện cá da trơn của
Việt Nam.
Để hội nhập kinh tế thế giới trong thời gian tới và tránh thua thiệt trong thương
mại quốc tế, vấn đề này cần phải được hoàn thiện để quy định một mức độ hợp lý cho
sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa
đảm bảo thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Nhà nước ta phải đổi mới tăng
cường để không chỉ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đơn thuần như mọi Nhà

nước khác mà vươn lên trở thành Nhà nước thiết kế xây dựng thể chế kinh tế và xã hội
. Vấn đề hiệu lực quản lý Nhà nước luôn là vấn đề cần quan tâm trong mọi thời kì ở
các nước nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Nước ta đang đẩy mạnh kinh tế thị
trường. mở cửa hội nhập với các nước bên ngoài. Thực tế cho thấy, nền kinh tế hàng
hoá và kinh tế thị trường đòi hỏi phải tăng cường vai trò quản lí của Nhà nước, bất
luận là Nhà nước tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, chúng ta xây dựng
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và áp dụng cơ chế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc tế, khơng phân biệt chế độ chính trị, do đó
càng địi hỏi sự quản lý của Nhà nước và xem trọng mối quan hệ giữa cải cách bộ máy
Nhà nước và cải cách kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, quản lý Nhà nước về kinh tế là một yêu cầu khách quan và phải tuân thủ những
nguyên tắc chung về quản lý Nhà nước.
2. Thực tiễn vận dụng chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở nước ta
2.1. Vận dụng
Kể từ khi Lênin khởi xướng chính sách kinh tế mới (NEP),trong đó có việc sử
dụng các hình thức kinh tế quá độ của CNTBNN đến nay đã trải qua biết bao biến

18


động chính trị phức tạp của nước Nga và cả thế giới. Liên hệ với thực tiễn xây dựng
CNXH ở Việt Nam, ta thấy những năm trước 1975, một phần do bối cảnh lịch sử khi
đó phải tập trung sức người sức của cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và nhất là
chống Mỹ cứu nước, mặt khác có phần chủ yếu là do nhận thức về những nhiệm vụ
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở nước ta khi đó cịn chưa
đúng đắn, mang nặng tính chủ quan, tư duy ý chí nên đã “ nóng vội” muốn “ đốt cháy
giai đoạn” tiến thẳng lên CNXH, không trải qua thời kỳ quá độ. Thực tế là chúng ta đã
tiến hành cải tạo XHCN nhằm làm “trong sạch” ngay nền kinh tế một cách vội vã theo
hướng chỉ có tồn tại hai thành phần quốc doanh, tập thể với loại hình sở hữu nhà nước
và tập thể, còn sở hữu tư nhân gắn với thành phần kinh tế tư nhân bị coi thường,

không cho phát triển, thậm chí có lúc nóng vội địi xố bỏ ngay. Tình hình này tiếp tục
tái diễn sau ngày 30/4/1975, ở miền Nam nước ta sau khi được giải phóng, cả nước
thống nhất năm 1976. Chính vì thế việc vận dụng những tư tưởng chỉ đạo của Lênin
về chính sách kinh tế mới cũng như việc sử dụng các hình thức kinh tế quá độ của
CNTBNN ở miền Bắc trước 1975, ở miền Nam sau 1975 đến trước 1986 hầu như rất
xem nhẹ, nếu như khơng muốn nói là chúng ta không quan tâm cho phát triển.
Hậu quả là cùng với nhiều nguyên nhân khác nữa, kinh tế - xã hội Việt Nam khi
đó khơng thể phát triển được do lâm vào khủng hoảng và lạm phát kéo dài vì nền sản
xuất xã hội đình trệ trên tất cả các lĩnh vực khác nhau.
Chỉ đến những năm sau đổi mới, kể từ Đại hội VI của Đảng ta (tháng 12/1986)
cho đến nay, kinh tế nước ta mới thực sự khởi sắc dần với những kết quả, thành tựu
phát triển vượt bậc. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự phát triển này, song chắc chắn
phải kể đến một nguyên nhân quan trọng là chúng ta đã nhận thức lại đúng đắn hơn về
những nhiệm vụ, biện pháp, bước đi thích hợp cần phải tiến hành mà trước hết về tư
duy kinh tế là phải thừa nhận sự tồn tại khách quan những đặc điểm vốn có của một
nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Điều đó có nghĩa phải thừa
nhận về mặt biện pháp, chính sách kinh tế là phải vận dụng một cách đúng đắn, sáng
tạo những tư tưởng chỉ đạo của Lênin về “NEP”, về CNTBNN mà trước hết là thừa
nhận sự tồn tại khách quan của một nền kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh các thành
phần XHCN cịn có cả các thành phần phi XHCN, hay như cách nói của Lênin là có

19


cả “những mẩu, những mảnh của CNTB, của nền sản xuất nhỏ…”. Từ Đại hội VI và
lần lượt trải qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX và Đại hội X (tháng 4/2006), theo tiến
trình đổi mới hơn 20 năm qua, giờ đây nhìn lại tuy có những điểm khác biệt do thời
đại ngày nay đã khác thời đại Lênin thực thi “NEP” những năm 1920 ở nước Nga,
song nếu xem xét kỹ lại những tư tưởng chỉ đạo của Lênin trước đây, ta thấy có nhiều
điểm về cơ bản vẫn là ta đã và đang vận dụng “NEP’, sử dụng các hình thức kinh tế

quá độ của CNTBNN. Thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
- Chúng ta đã thực hiện phát triển mạnh một nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN, có nghĩa là tơn trọng quy luật giá trị,
tôn trọng các quy luật vận động khách quan khác của các quan hệ
sản xuất và trao đổi hàng hoá - tiền tệ trong nền kinh tế thị trường,
kể cả trong các lĩnh vực kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại, nhưng
cần tuân thủ sự phát triển bền vững theo định hướng XHCN do Đảng
và Nhà nước ta đề ra.
- Thừa nhận sự tồn tại và phát triển khách quan của một nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần với sự tồn tại đan xen nhiều loại hình sở hữu khác nhau. Tại Đại hội
VI, chúng ta mới thừa nhận CNTBNN là các hình thức kinh tế quá độ. Đến Đại hội
VII, trở đi CNTBNN đã được coi là một thành phần kinh tế. Không chỉ thế, kể cả tư
bản tư nhân cũng từ Đại hội VII ta đã thừa nhận đó là một thành phần kinh tế. Xét
riêng về các loại hình liên quan đến thành phần kinh tế tư bản nhà nước đang tồn tại ở
nước ta hiện nay có thể kể ra một số hình thức khác nhau mà ngay thời Lênin đã có
như:
-Tơ nhượng trước đây mà nay là cơng ty đầu tư có vốn nước ngồi 100%
- Liên doanh đầu tư giữa nhà nước với tư bản nước ngoài hoặc giữa nhà nước với
tư bản trong nước mà thời Lênin gọi chung là hợp doanh, liên doanh giữa nhà nước
với tư bản tư nhân thông qua một số loại hình cơng ty tư nhân, cơng ty cổ phần, cơng
ty trách nhiệm hữu hạn…
- Liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước qua
việc thành lập các công ty liên doanh, công ty cổ phần.

20


Tuy nhiên theo như cách phân định của Đảng ta tại Đại hội X thì đã có sự đổi
khác. Tư bản nhà nước vẫn được khẳng định là một thành phần kinh tế, nhưng nét mới
khác với thời Lênin trước đây là khơng bao gồm cả các loại hình kinh tế có vốn đầu tư

nước ngồi. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã được Đảng ta phân định là một
thành phần kinh tế riêng biệt. Như vậy là ở nước ta hiện nay theo như sự phân định
của Đại hội X, có 5 thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân ), kinh tế tư bản nhà nước, và kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài. Cả 5 thành phần kinh tế này đều được tự do phát triển, bình đẳng trước
pháp luật.
- Từng bước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng xoá bỏ sự tập trung quan
liêu bao cấp của Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế và mở rộng quyền tự chủ của
các đơn vị kinh tế, quan tâm đến động lực lợi ích cá nhân, khuyến khích tự do phát
triển sản xuất, tự do bn bán, tự do làm giàu chính đáng, đúng pháp luật…
Qua việc vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước vào kinh doanh, những thành tựu
thu được như: Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều năng lực sản xuất
mới góp phần làm cân bằng cán cân ngoại thương.
Đóng góp tích cực vào ngân sách nhà nước và giải quyết công ăn việc làm.
Kinh tế tư bản chủ nghĩa đã góp phần cấu trúc lại nền kinh tế theo hương cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thúc đẩy cơng cuộc cải cách kinh tế, hành chính và luật pháp ở nước ta lên tầm
vĩ mô. Nâng cao vị thế của việt nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó cịn một số tồn tại hạn chế cần khắc phục : Còn thiếu một hệ thống
chính sách ưu đãi và quy hoạch cụ thể để hướng kinh tế tư bản nhà nước phát triển
vào những khu vực rất cần được đầu tư phát triển như nông nghiệp, các vùng núi,
vùng sâu vùng xa. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết với tư bản tư nhân trong
nước chưa được coi trọng. Việc triển khai chậm và ít thành cơng đối với hình thức khu
chế xuất. Chưa có kinh nghiệm trong việc tăng cường kiểm kê, kiểm soát để chủ động
khắc phục những vụ việc mà đối tác nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam. Mâu
thuẫn căng thẳng giữa người lao động Việt Nam với chủ tư bản nước ngồi khơng
21


được giải quyết một cách thỏa đáng nên đã dẫn đến những cuộc bãi cơng, đình cơng

của người lao động Việt Nam ở một số doanh nghiệp tư bản nhà nước.
2.2. Những vấn đề đặt ra:
- Nước ta chuyển sang cơ chế thị trường và sử dụng KTTBCN trong điều kiện thị
trường cịn sơ khai, chưa hồn chỉnh và đồng bộ.
- Hệ thống khung luật pháp chưa đầy đủ và chặt chẽ.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội còn yếu kém và lạc hậu.
- Nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế thị trường, kinh
tế tư bản nhà nước.
- Vai trò quản lý vĩ mơ của nhà nước cịn bng lỏng trong việc phát triển và sử
dụng kinh tế tư bản nhà nước.
3. Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước ở nước ta
3.1. Định hướng
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Một số yếu tố bất hợp lý của mơ hình
kinh tế trước đây vẫn còn tồn tại và đòi hỏi cần phải có những giải pháp cụ thể để giải
quyết trong thời gian tới. Một trong những vấn đề cần giải quyết là tình trạng độc
quyền của các doanh nghiệp nhà nước. Sự tồn tại quá nhiều doanh nghiệp nhà nước
(rất nhiều trong số đó kinh doanh khơng hiệu quả) và việc độc quyền của doanh
nghiệp nhà nước trong nhiều lĩnh vực là một trong những lý do được các luật sư Mỹ
sử dụng để khẳng định Việt Nam khơng có nền kinh tế thị trường trong vụ kiện cá da
trơn của Việt Nam . Để 4 hội nhập kinh tế thế giới cũng như đảm bảo các điều kiện gia
nhập WTO trong thời gian tới và tránh thua thiệt trong thương mại quốc tế, vấn đề này
cần phải được hoàn thiện để quy định một mức độ hợp lý cho sự độc quyền của các
doanh nghiệp nhà nước, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo thúc đẩy sản
xuất trong nước phát triển.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay có hai loại hình độc quyền sau:

22



×