Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN GIÁO dục học TÍNH ưu VIỆT của nền GIÁO dục xã hội CHỦ NGHĨA và ý NGHĨA đối với GIÁO dục VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.53 KB, 16 trang )

TÍNH ƯU VIỆT CỦA NỀN GIÁO DỤC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY
Giáo dục là quá trình thống nhất của sự hình thành tinh thần và thể chất của
mỗi các nhân trong xã hội. Giáo dục là một mặt không thể tách rời của cuộc sống
con người, của xã hội, nó là một hiện tượng đặc trưng của xã hội loài người.
Trong q trình tiến hố của nhân loại, giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện
của loài người, khi con người có quan hệ với tự nhiên bằng cơng cụ và phương
tiện lao động thì nhu cầu về sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm của thế hệ
trước cho thế hệ sau mới xuất hiện. Giáo dục như là một phương thức của xã hội
đảm bảo việc kế thừa văn hoá, phát triển nhân cách.
Giáo dục được coi là một hiện tượng xã hội, hiện tượng này nảy sinh, tồn tại,
phát triển và tiến bộ cùng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội lồi người, trong
đó nổi bật lên là việc các thế hệ đi trước truyền thụ lại các kinh nghiệm sống, kinh
nghiệm sản xuất, kinh nghiệm hoạt động xã hội nói chung cho các thế hệ sau. Các
nhà nghiên cứu lịch sử giáo dục học đã chứng minh rằng : Từ thời cổ xưa cho đến
nay, khi nói đến giáo dục là người ta nói đến những tác động làm phát triển con
người cả về thể chất lẫn tâm hồn tức là dạy dỗ, bảo ban, ni nấng, chăm sóc. Xã
hội ngày càng phát triển, nội dung kinh nghiệm ngày càng phong phú và việc
truyền thụ kinh nghiệm ngày càng được chun mơn hố dần. Trong quá trình
lĩnh hội và sử dụng những kinh nghiệm lịch sử xã hội , nhân cách được hình thành
và ngày càng phát triển đầy đủ hơn. Trong quá trình đó các thế hệ sau khơng chỉ
tiếp thu, lưu trữ, giữ gìn mà cịn phát triển gía trị văn hố xã hội, do đó góp phần
phát triển xã hội. Giáo dục nảy sinh là do nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội.
Nhờ có giáo dục, các thế hệ đang lớn mới có thể tiếp tục duy trì và phát triển hoạt
động lao động sản xuất, các hoạt động xã hội khác cũng như các mối quan hệ xã
hội. Nếu khơng có giáo dục sẽ khơng có sự tái sản xuất ra các hoạt động lao động,
các hoạt động xã hội khác cũng như các mối quan hệ xã hội. Như vậy, chính giáo
dục đã tái sản xuất ra xã hội loài người. Các nhà giáo dục học đã xem giáo dục
như là “quá trình xã hội hóa“ liên tục của con người. Đặc trưng của giáo dục được
thể hiện ở chỗ : Được tổ chức và định hướng tỉ mỉ, được tiến hành trong các tổ



2
chức được hình thành vì mục đích giáo dục con người, có những chuẩn mực được
xác định một cách tương đối.
Trong lịch sử lồi người đã có nhiều kiểu giáo dục khác nhau phù hợp với
từng thời kì lịch sử của xã hội lồi người. Ở mỗi trình độ phát triển của một xã hội
nhất định trong một giai đoạn lịch sử cụ thể bao giờ cũng có một nền giáo dục
tương ứng, trong đó mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và hình thức tổ
chức giáo dục đều thể hiện phản ánh tính quy định của các điều kiện lịch sử – xã
hội cụ thể đối với giáo dục. Vì vậy, giáo dục ln mang tính phổ qt, tính nhân
văn, phản ánh những giá trị văn hóa đạo đức thẩm mĩ chung nhất của nhân loại,
nhưng xét một cách sâu sắc cụ thể thì giáo dục ở mỗi nước, mỗi dân tộc luôn chứa
đựng những yếu tố truyền thống, mang bản sắc riêng. Giáo dục luôn biến đổi
không ngừng và bao giờ cũng mang tính lịch sử cụ thể. Tương ứng với mỗi thời
kỳ phát triển của lịch sử xã hội là một nền giáo dục. Nếu tiếp cận theo các hình
thái kinh tế xã hội của K.Mác thì lịch sử sự phát triển của xã hội lồi người đã trải
qua 5 chế độ xã hội khác nhau và đã có 5 nền giáo dục tương ứng: Chế độ cộng
sản nguyên thuỷ có nền giáo dục cộng sản nguyên thuỷ với phương pháp đặc
trưng của giáo dục là phương pháp truyền kinh nghiệm qua thực tiễn tự phát. Chế
độ xã hội chiếm hữu nơ lệ có giáo dục chiếm hữu nô lệ với phương pháp dạy học
chủ yếu là truyền kinh nghiệm bằng lời. Chế độ xã hội phong kiến có nền giáo
dục phong kiến với phương pháp dạy học giáo điều. Chế độ xã hội tư bản (xã hội
tiền cơng nghiệp ) có nền giáo dục tư bản với phương pháp đặc trưng là giải thích
minh hoạ. Chế độ xã hội chủ nghĩa có nền giáo dục xã hội chủ nghĩa với phương
pháp dạy học tích cực.
1. Vài nét cơ bản về giáo dục qua các thời kỳ
Trong thời kỳ cổ đại, giáo dục được xem là một trong những mặt hoạt động
xã hội bình thường, trong cuộc sống hàng ngày gắn với tiến trình phát triển chung
của xã hội. Vào thời kỳ này xuất hiện các nhà tư tưởng giáo dục nổi tiếng như :
Khổng Tử (551 – 479 TCN); Xôcrát (469 – 399 TCN); Arixtôt (384 – 322 TCN);

Platôn (427 – 347 TCN). Trong đời, Xơcơrát là nhà giáo dục thực hành. Ơng có
quan niệm rất nổi tiếng : giáo dục phải giúp con người tìm thấy, tự khẳng định


3
chính bản thân mình, vì thế mang giá trị nhân văn rất cao. Trong hoạt động giáo
dục ông nổi tiếng là nhà sáng tạo. Bao giờ ông cũng nêu câu hỏi để người học suy
nghĩ, tự tìm lời giải đáp. Trong 40 năm hoạt động, ông đã nêu cao tấm gương đức
hạnh của mình, tình u chân lí và sự can đảm trong việc bảo vệ chân lí…Platơn
là học trị của Xơcơrát, ơng đã có cơng ghi lại và xuất bản phần lớn các tác phẩm
của Xôcơrát…Theo ông, việc giáo dục trước hết liên quan với đạo đức, tâm lí
học, xã hội học. Xét theo quan điểm lịch sử giáo dục, hệ thống giáo dục do Platôn
mường tượng ra mang nặng quan điểm bất bình đẳng của xã hội nơ lệ, nhưng ơng
đã khẳng định được vai trị tất yếu của giáo dục trong xã hội, tính quyết định của
chính trị đối với giáo dục…Khổng Tử là nhà giáo vĩ đại của Trung Hoa cổ đại và
của nhân loại. Ông quan niệm giáo dục con người phải nhằm mục đích đào tạo
nên những người nhân nghĩa, có phẩm hạnh. Trong quá trình hoạt động giáo dục,
Khổng Tử đã sáng tạo và vận dụng nhiều phương pháp giáo dục tiến bộ so với
đương thời. Ông đã dùng cách gợi mở, đi từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp
nhưng vẫn địi hỏi người học phải tích cực suy nghĩ để nắm vững vấn đề ; ơng địi
hỏi người phải luyện tập, nề nếp và thói quen trong học tập, theo hướng “ôn cũ để
biết cái mới”. Để gắn nội dung giáo dục với cuộc sống, ơng cịn dùng phương
pháp đối thoại, yêu cầu học sinh liên hệ những điều đã học vào thực tế hàng
ngày…Vào thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng giáo dục đồng thời cũng là nhà khoa
học, triết học, do đó các tư tưởng giáo dục thường phát triển và được trình bày
trong các tác phẩm triết học và khoa học nói chung…
Ở phương Tây, vào thời kỳ trung cổ, vai trị độc tơn của nhà thờ đã có ảnh
hưởng rất rõ nét đối với sự phát triển của nhà trường nói chung và về tư tưởng
giáo dục nói riêng. Giáo dục học chưa xuất hiện với tư cách là một khoa học độc
lập. Thời kỳ trung cổ, triết học cùng giáo dục chủ yếu phục vụ cho thần học. Thời

ấy chỉ có các trường của giáo hội, các nhà tôn giáo chủ trương kết hợp và dung
hịa lý trí, sự phát triển trí tuệ với niềm tin tơn giáo, chính đó là sự thể hiện nguồn
gốc nảy sinh ra triết học kinh viện, nhằm chứng minh rằng niềm tin bao giờ cũng
định hướng và ở vị trí cao hơn trí tuệ, có trước trí tuệ và khoa học. Đây cùng là cơ
sở sâu xa của lối học vẹt. Đến thế kỷ XII – XIII ở Tây âu đã hình thành ba loại
trường : Trường tu viện; trường của nhà thờ và trường dòng. Lúc đầu ở các loại


4
trường này chỉ dạy giáo lý, kinh bổn. Sau đó dạy thêm số học, hình học, thiên văn
và âm nhạc. Bên cạnh trường tơn giáo có hệ thống giáo dục kỵ sĩ, với nội dung
giáo dục “Bẩy đức tính của kỵ sĩ” : Cưỡi ngựa, bơi, dùng giáo, đấu kiếm, đi săn,
đánh cờ, làm thơ. Thực chất giáo dục tôn giáo và giáo dục kị sĩ ở Tây Aâu đều
phục vụ cho chế độ phong kiến thần quyền đương thời.
Đến cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV khi mầm mống của xã hội tư bản xuất
hiện, nhân loại bước vào thời đại phục hưng. Các nhà tư tưởng nhân văn tiên tiến
xuất hiện, tạo nên nhu cầu, động lực mới thúc đẩy giáo dục phát triển với tư tưởng
giáo dục tiến bộ : Vượt ra khỏi khuôn khổ giáo dục kinh viện – tôn giáo, hướng về
chủ nghĩa nhân văn. Các nhà nhân văn chủ nghĩa chủ trương đề cao giá trị con
người, cho rằng con người cần được phát triển tồn diện. Chính bước q độ từ
chế độ phong kiến qua chủ nghĩa tư bản đã làm xuất hiện những hệ thống tri thức
mới ra đời, trong đó có nhiều khoa học tách ra khỏi triết học. Giáo dục học từ đây
cũng tồn tại và phát triển như là một khoa học độc lập do công của nhà giáo dục
học vĩ đại Tiệp Khắc Komenxki (1592 – 1670). Ông là nhà lý luận và là nhà tư
tưởng giáo dục đã đề cao giáo dục phổ cập, việc dạy tiếng mẹ đẻ trong các nhà
trường và nêu ra luận chứng chặt chẽ trong tác phẩm nổi tiếng : “Phép giảng dạy
vĩ đại”. Rất nhiều nguyên tắc dạy học vẫn được sử dụng đến ngày nay như :
Nguyên tắc trực quan, nguyên tắc tính khoa học và tính hệ thống trong dạy học
vv…đã được nêu bật trong tác phẩm ấy. Sau Comenxki, xuất hiện nhiều nhà
nghiên cứu giáo dục học, như Lốccơ (1632 – 1701), Rútxơ (1712 – 1778),…trong

đó phải kể đến Petxtalogi, ông đặc biệt nhấn mạnh tác dụng của việc kết hợp lao
động với học tập, nhấn mạnh tác dụng vai trò của trực quan trong dạy học và giáo
dục và vạch ra một hệ thống các phương pháp giáo dục chung.
Cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội tư bản, kinh tế – xã hội, văn
hóa và khoa học phát triển rất nhanh, giáo dục đã được nâng cao. Tuy vậy, mâu
thuẫn xã hội cũng đã xuất hiện và ngày càng gay gắt, tất cả đều được phản ánh rõ
nét trong hệ tư tưởng, trong đời sống xã hội. Vào nửa đầu thế kỷ XIX cùng với sự
phát triển chung của khoa học, giáo dục học cũng đã phát triển và thể hiện sự đấu
tranh gay gắt giữa các quan điểm lí luận giáo dục của giai cấp tư sản và lợi ích


5
giáo dục của nhân dân. Nhiều nhà giáo dục tiến bộ, như A. Dixtécvéc (1790 –
1866), A. XanhXimông (1760 – 1837)…đã tiếp tục phát triển quan điểm giáo dục
của Petxtalôgi, họ không những kế thưa tư tưởng giáo dục tiến bộ của ơng mà cịn
phát triển, làm phong phú thêm, xây dựng cơ sở cho các quan điểm giáo dục xã
hội chủ nghĩa về sau, nâng cao tầm tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa trong giáo dục.
Cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác vào những năm 40 của thế kỷ
XIX, giáo dục học tiếp tục phát triển với cơ sở phương pháp luận khoa học, làm
cho giáo dục học tiếp thu, kế thừa và phát huy được toàn bộ thành tựu của các tư
tưởng giáo dục tiến bộ của nhân loại, gắn liền với sự phát triển và tiến bộ của giáo
dục với công cuộc đấu trành giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức bóc lột,
mọi tệ nạn xã hội, góp phần tổ chức lại xã hội theo hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng
với sự phát triển những giá trị tinh hoa trong di sản giáo dục của nhân loại, học
thuyết Mác – Lênin về giáo dục đã chứng minh một cách khoa học các vấn đề có
tính quy luật trong giáo dục như : Sự hình thành con người, Tính quy định của
kinh tế - xã hội đối với giáo dục, tính lịch sử của giáo dục trong tiến trình phát
triển của xã hội và vai trò của giáo dục trong điều kiện xã hội có giai cấp.
3. Tính ưu việt của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa
Từ thực tiễn lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng, C.Mác và

Ph.Ăngghen rồi sau này đến V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều khẳng định:
Trong cuộc đấu tranh của nước vô sản, công tác giáo dục giữ một vị trí rất quan
trọng, nó đào tạo ra những con người phục vụ cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản nhằm lật đổ giai cấp tư sản, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định tầm quan trọng của giáo dục
trong việc xây dưng một xã hội mới, đó là: “muốn thay đổi những điều kiện
xã hội phải có một chế độ giáo dục thích hợp” 1.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giáo dục là hệ thống những tri
thức sâu sắc và tồn diện về giáo dục. Khai thác tính ưu việt của nền giáo dục

1 C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin, Bàn về vấn đề giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.25.


6
xã hội chủ nghĩa cần tập trung đi sâu vào phân tích những khía cạnh cụ thể của
chỉnh thể thống nhất ấy, đó là:
Thứ nhất, về mục đích, tính chất và vai trò của giáo dục.
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên đã nghiên cứu giáo dục một
cách khoa học. Ph.Ăngghen khẳng định: “nền cơng nghiệp do tồn xã hội thực
hiện một cách tập thể và có kế hoạch lại càng cần có những con người có năng lực
phát triển tồn diện, đủ sức tinh thơng tồn bộ hệ thống sản xuất”. Như thế, mục
đích của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa là: “làm cho những thành viên trong xã
hội đó có khả năng sử dụng một cách tồn diện năng lực phát triển tồn diện của
mình”. Trên tinh thần đó, các nhà kinh điển mácxít đều khẳng định mục đích của
nền giáo dục xã hội chủ nghĩa là đào tạo nên những con người xã hội chủ nghĩa,
những người lao động mới có ý thức và đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn
hố và khoa học tiên tiến, có kỹ năng lao động cần thiết, có óc thẩm mỹ, có sức
khoẻ tốt – những con người phát triển tồn diện.
Cùng với đó, tính chất giáo dục được quy định bởi các điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội. Tính chất giáo dục bao giờ cũng phù hợp với trình độ phát triển

của lực lượng sản xuất và các quan sản xuất vốn có của hình thái kinh tế - xã hội.
C.Mác, Ph.Ăngghen và sau này V.I.Lênin đều khẳng định tính giai cấp của nền
giáo dục. Trong xã hội có giai cấp, giáo dục trở thành công cụ quan trọng của giai
cấp cầm quyền, phục vụ cho mục đích chính trị của nó: “về giáo dục, chế độ khác
thì giáo dục cũng khác”2. Ngồi ra, giáo dục cịn mang tính phổ biến, vĩnh hằng.
Các ơng cho rằng, giáo dục chỉ có ở xã hội lồi người, nó là một phần khơng thể
tách rời của đời sống xã hội lồi người, giáo dục có ở mọi thời đại, mọi thiết chế
xã hội khác nhau. Do đó, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa phải thể hiện được bản
chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, đó là tính cơng bằng xã hội, dân chủ, tiến bộ và
khoa học trong giáo dục và đồng thời hội nhập nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.
Thông qua mục đích, tính chất của mình, giáo dục thể hiện vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển của xã hội lồi người nói chung và đối với quốc gia
dân tộc nói riêng. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đều thừa nhận rằng giáo dục
2 Sđd, tr.30.


7
có vai trị quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cá nhân, thơng
qua đó giáo dục góp phần quyết định sự vận động và phát triển xã hội. Các ông
đều khẳng định: tri thức là vũ khí kỳ diệu để quần chúng tự giải phóng mình và
phát triển tồn diện mọi khả năng của mình; hơn thế nữa, tương lai của loài người
hoàn toàn phụ thuộc vào nền giáo dục thế hệ công dân đang lớn lên: “Công tác
giáo dục sẽ làm cho những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng
tồn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn, làm cho họ có thể lần lượt chuyển từ
ngành sản xuất này sang ngành sản xuất nọ tuỳ theo nhu cầu của xã hội hoặc tuỳ
theo sở thích của bản thân thân họ. Do đó, cơng tác giáo dục sẽ làm cho họ thốt
khỏi tình trạng một chiều mà sự phân cơng lao động hiện nay đang buộc mỗi một
người phải theo”3.
Thứ hai, về nguyên lý, phương pháp, hình thức và nội dung giáo dục.
Các nhà kinh điển mácxít thống nhất với nhau khi đề ra những nguyên lý,

phương pháp, hình thức và nội dung giáo dục. Theo đó, các ơng đều khẳng định
dạy học phải lấy người học làm trung tâm; dạy học phải phát huy tối đa tính độc
lập, sáng tạo và tích cực của người học; giáo dục phải kết hợp với tự giáo dục; đa
dạng hố các hình thức trong giáo dục; học tập thường xuyên và học tập suốt đời.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, các nhà mácxít chỉ rõ nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa phải đảm bảo học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo
dục gắn liền với lao động, sản xuất. Hơn nữa, nền giáo dục này phải đảm bảo sự
kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc thực hiện các nhiệm vụ
giáo dục.
Trong đó, phương pháp giáo dục phải tổng hợp các phương pháp dạy và học.
Dạy phải đảm bảo đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp; kết hợp giữa học
tập với vui chơi. Và theo đó, phương pháp dạy học trong nền giáo dục xã hội chủ
nghĩa phải linh động cho từng đối tượng của người học dựa theo lứa tuổi, cấp học,
bậc học của từng học sinh. Phương pháp dạy học này hoàn trái ngược với phương
pháp “nhồi sọ” của nền giáo dục phong kiến, nền giáo dục tư bản chủ nghĩa.

3 Sđd, tr.29.


8
Để đạt được những yêu cầu của nền giáo dục mới này, hình thức giáo dục
phải được thay đổi tương xứng. Việc dạy và học phải kết học nhuần nhuyễn cả
hình thức truyền thống lẫn hình thức hiện đại, theo đó dạy và học khơng chỉ diễn
ra ở mọi lúc, mọi nơi: học ở trường, học ở sách vở, học tập lẫn nhau, học tập ở
nhân dân, trong lao động, v.v...
Trên tinh thần đó, nội dung giáo dục phải được bổ sung và hoàn thiện. Các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã đưa ra nội dung của nền giáo dục tồn diện là phải
bao gồm: đức dục, trí dục, thể dục và mỹ dục. Các ông đặc biệt quan tâm đến giáo
dục nghề nghiệp, giáo dục đạo đức cách mạng và giáo dục lý luận chính trị cho
giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.

3. Nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Dưới chế độ phong kiến, mục đích giáo dục Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều
của nho giáo. Mục đích giáo dục thời kỳ này chủ yếu hình thành phẩm chất người
quân tử với những nét phẩm chất: Coi đạo đức là giá trị hàng đầu, sống theo lý
tưởng nhân nghĩa yêu thương người khác; có trách nhiệm đối với gia đình, họ
hàng, làng nước, trung với vua, với nước; có hiếu với cha mẹ, nhân dân; sống
thiết thực chăm chỉ học hành, thường xuyên nâng cao trình độ học vấn; coi trọng
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, tài năng. Nho giáo coi trọng việc giáo dục và nhà
nước nho giáo đặt việc giáo hóa cịn cao hơn cả việc cai trị, nhưng trong thực tế
việc tổ chức giáo dục lại rất sơ sài. Từ nội dung đến tổ chức, trang bị đều có nhiều
thiếu sót. Con người chủ yếu được đào tạo trong gia đình với sự chăm sóc của các
thầy giáo có trách nhiệm và nhà nước chỉ tổ chức thi cử để đánh giá tuyển chọn
nhân tài. Khi nghiên cứu mục đích giáo dục phong kiến Việt Nam, bên cạnh
những bài học thành cơng, cũng có những nhược điểm ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển quốc gia, dân tộc. Đó là mối quan hệ giữa đức và tài, giữa phẩm chất và
năng lực. Nhà trường phong kiến Việt Nam hầu như chỉ chú ý đến dạy đạo lý, thơ
phú… mà không dạy các môn khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, kinh tế, là
những mơn học có ảnh hưởng lớn đến năng lực, tay nghề của thế hệ trẻ. Kết quả
là đất nước không phát triển, khoa học kỹ thuật, kinh tế, quân sự rất lạc hậu. Điều
đó là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm cho nhân dân ta rơi vào


9
vịng nơ lệ và làm cho đất nước lạc hậu đến ngày nay. Ngày xưa, dưới thời phong
kiến, hình thức tổ chức dạy học phổ biến là ông thầy cầm sách giảng giải, còn các
trò ngồi xung quanh lắng nghe, tập đọc, tập viết… với hình thức dạy học đó mẫu
người học trò ra trường sẽ là những người biết trọng đạo lý, tín nghĩa, người giỏi
sẽ có văn hay, chữ tốt; nhưng nói chung họ là những người bạch diện thư sinh, xa
rời lao động…
Sau Cách mạng Tháng 8 thành cơng, nền giáo dục lại có những định hướng

mới, đó là nền giáo dục: “dân tộc - khoa học - đại chúng”; “Học đi đôi với hành”,
“Giáo dục gắn liền với lao động sản xuất”… dù trong từng giai đoạn cách mạng
mục tiêu giáo dục có những điều chỉnh nhỏ, nhưng nói chung mẫu người mà nhà
trường cách mạng đào tạo là những người vừa hồng vừa chuyên; vừa có lịng u
nước, u chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vừa có
trí thức văn hố, khoa học kỹ thuật, chun mơn nghiệp vụ để hồn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, phải thấy rằng trong suốt nửa thế kỷ (1945-1995),
đất nước ta trải qua những giai đoạn lịch sử đặc biệt: Giai đoạn 1945-1954 cả dân
tộc dồn sức cho cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp giành độc lập
dân tộc, giai đoạn 1954-1975 mặc dù miền Bắc đã được giải phóng, nhưng thực
chất cả nước vẫn phải tập trung toàn lực cho nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước, thống
nhất Tổ quốc. Từ năm 1975-1995, đất nước đối mặt với những khó khăn sau
chiến tranh và lâm vào khủng khoảng kinh tế - xã hội. Có thể nói suốt nửa thế kỷ,
nền giáo dục cách mạng đã lập nên những kỳ tích về quy mơ phát triển, nâng cao
dân trí, đào tạo những lớp người đáp ứng những yêu cầu của lịch sử.
Tính ưu việt mà nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thể hiện
trong tư tưởng về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong q trình lãnh đạo
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển các quan
điểm của chủ nghĩa Chủ nghĩa Mác - Lênin về giáo dục vào điều kiện thực tiễn
Việt Nam. Với tinh thần đó, Người khẳng định: “muốn có chủ nghĩa xã hội thì
phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Muốn đạt được mục tiêu này, nội dung giáo
dục phải đảm bảo tính dân tộc, tính quần chúng và tính hiện đại. Trong đó Người
đặc biệt chú trọng đến giáo dục - đào tạo cán bộ trên cả hai mặt “đức” và “tài”,


10
lấy “đức” làm cơ sở vững chắc cho tài năng phát triển. Nắm bắt tinh thần của chủ
nghĩa chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn giáo dục Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã nêu bật tính công bằng, dân chủ và khoa học của nền giáo dục
mới. Theo đó nền giáo dục mới này phải là nền giáo dục của nhân dân, do nhân

dân và vì nhân dân; nền giáo dục mới này phải thật sự khoa học, cách mạng và
triệt để. Hơn nữa, Người khẳng định giáo dục có vai trị to lớn cho sự vận động và
phát triển của các lĩnh vực trọng yếu trong đời sống xã hội, trong quá trình xây
dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa: “Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội … đòi hỏi mỗi đảng viên đều phải cố gắng học tập văn hoá, học tập khoa học
kỹ thuật”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc
truyền thống giáo dục tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,
nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển mới về chất là Chủ nghĩa
Mác- Lênin. Trên cơ sở những tiền đề đó và cùng với q trình hoạt động thực
tiễn cách mạng sinh động, phong phú của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan
điểm sâu sắc về mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục của nền giáo dục
mới.
Thứ nhất, vai trò và mục tiêu của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta hiểu sâu sắc rằng: Hàng ngàn năm dưới
ách áp bức bóc lột của chế độ phong kiến phương Bắc và hơn 80 năm bị chủ
nghĩa thực dân cai trị, tuyệt đại bộ phận nhân dân ta sống trong cảnh nghèo đói
lầm than. Với chính sách “Ngu dân dễ trị”, bọn thực dân phong kiến chỉ “Đào tạo
nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho bọn thực dân Pháp”, những người khơng
đến trường thì bị đầu độc bằng các thói hư tật xấu như rượu chè, cờ bạc.. và
chúng đã để lại hậu quả vô cùng tai hại hơn 90% dân số mù chữ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhận định: “Địch dốt nát giúp địch ngoại xâm. Địch dốt nát tấn công ta
về tinh thần cũng như địch thực dân tấn công ta bằng vũ lực. Địch thực dân dựa
vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân. Địch dốt nát dựa vào địch thực
dân để đưa nhân dân ta vào nơi mù qng” 4. Vì vậy muốn xây dựng thành cơng
CNXH, cách mạng phải quan tâm sự nghiệp giáo dục - Đây vừa là vấn đề mang
4 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.379.



11
tính cấp thiết vừa mang tính chiến lược lâu dài trong tiến trình cách mạng. Nền
giáo dục mới có vai trò to lớn trong việc cải tạo con người cũ, đồng thời phải đào
tạo các thế hệ công dân mới đầy đủ năng lực, bản lĩnh để đưa đất nước ra khỏi
tình trạng đói nghèo, lạc hậu. Bởi lẽ, khơng thể phát triển được lực lượng sản xuất
nếu như không đầu tư thỏa đáng cho nhân tố con người- nhân tố quyết định hàng
đầu của lực lượng xản xuất, không thể xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN nếu
không nâng cao trình độ học vấn, trình độ tổ chức quản lý kinh tế cho cán bộ và
nhân dân. Ngay sau lễ Tuyên bố độc lập, ngày 3 tháng 9 năm 1945. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định nhiệm vụ giáo dục, giáo dục lại nhân dân ta là một cơng
việc cấp bách: “Chúng ta có một nhiệm vụ cấp bách là giáo dục lại nhân dân
chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở thành một dân tộc dũng
cảm, yêu nước, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập” 5. Nền giáo
dục mới phải là nền giáo dục toàn diện nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng đại này, Hồ Chủ tịch và Đảng ta đã
vạch ra chiến lược giáo dục sâu rộng, lâu dài bao gồm những bước đi với nội
dung và mục tiêu cụ thể. Một trong những mục tiêu lớn của chiến lược phát triển
giáo dục của Người và Đảng ta là đưa tri thức đến với các tầng lớp, các giai cấp
trong xã hội, nhất là cơng nơng đồng thời cơng nơng hóa trí thức “Đào tạo trí thức
cơng nơng hóa. Nghĩa là cơng nơng cần học tập văn hóa để nâng cao trình độ tri
thức của mình, cịn trí thức cần gần gũi công nông và học tập tinh thần, nghị lực
sáng kiến và kinh nghiệm của công nông”. Đây là một nội dung rất mới thể hiện
tầm nhìn chiến lược của lãnh tụ vĩ đại trong tiến trình hình thành con người mới
Việt Nam.
Thứ hai, nội dung của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa
Xuất phát từ mục tiêu cao đẹp của nền giáo dục XHCN thì nội dung của nền
giáo dục mới phải khác bản chất của nền giáo dục của bọn thực dân phong kiến.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nội dung cốt lõi của giáo dục phải dựa

5 Sđd, tập 5, tr.456.


12
trên cơ sở lấy con người làm trung tâm, giáo dục tồn diện nhân cách về các mặt:
Đức, trí, thể, mỹ, xây dựng con người vừa hồng vừa chuyên, có đủ đức và tài.
Tài là trình độ chun mơn nghiệp vụ và cách thức, phương pháp vận dụng kiến
thức đó vào hoạt động thực tiễn, làm cho ích nước lợi dân. Tài khơng có nghĩa là
kiến thức hồn chỉnh, tuyệt đối khép kín mà ln được bổ sung phát triển qua
thực tiễn cách mạng sinh động. Đức là đạo đức nhân cách của mỗi con người, là
sự ứng xử của con người trong mối quan hệ với những người xung quanh, mơi
trường, lao động và với chính bản thân mình. Trong mối quan hệ đức – tài, Hồ
Chí Minh coi đức là “cái gốc” của cây, “cái nguồn” của sông, do đó, theo Người:
“Người cách mạng phải có đạo đức, nếu khơng có đạo đức dù tài giỏi đến mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Đạo đức mà Người hướng tới là đạo đức
cách mạng, đạo đức trên lập trường của giai cấp công nhân, thực hiện cần - kiệm liêm – chính- chí cơng - vơ tư. Khi nói về giáo dục đạo đức cho học sinh, Hồ Chí
Minh chỉ rõ “Tơi xem chương trình giáo dục cho đến hết lớp 10, phần giáo dục rất
thiếu sót, chỉ mười dòng” 6. Trong hội nghị tổng kết phong trào thi đua “dạy tốt
học tốt” của ngành giáo dục, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nội dung giáo dục cần chú
trọng hơn nữa về đức dục. Tức là giáo dục đạo đức phải dành ưu tiên nhiều về nội
dung, thời gian, chương trình, kết hợp giáo dục đạo đức với các khoa học khác để
hoàn thiện nhân cách con người XHCN. Hồ Chí Minh cịn lưu ý việc giáo dục đạo
đức cách mạng là một quá trình từ thấp đến cao. Giai đoạn sau phải biết kế thừa
có chọn lọc những phẩm chất đạo đức tốt đẹp đã được hình thành từ giai đoạn
trước, biết tìm cách khắc phục, ngăn chặn những thói hư tật xấu vừa chớm nở.
Giáo dục đạo đức là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, Người chỉ rõ: “Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong”7.
Nền giáo dục mới mang tính dân tộc, tính nhân dân, tính khoa học đảm bảo

đào tạo những cơng dân tương lai có đủ đức đủ tài để hồn thành nhiệm vụ cách
mạng. Tính nhân dân của nền giáo dục mới do mục đích của cách mạng XHCN
6 Sđd, tr.456.
7 Sđd, tập 9, tr.293.


13
qui định. Nền giáo dục mới xoá bỏ mọi sự phân biệt về đẳng cấp, dân tộc, sắc tộc,
tôn giáo giới tính với mục tiêu hướng vào giải phóng tiềm năng sáng tạo của nhân
dân. Tính nhân dân cịn thể hiện ở quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân đối với
sự nghiệp giáo dục, cơ cấu chương trình, nội dung phù hợp với mọi loại đối
tượng.Nền giáo dục mới mang tính dân tộc trong việc tiếp thu có chọn lọc truyền
thống giáo dục của dân tộc mà cốt lõi là chủ nghĩa yêu nước chân chính.Tính dân
tộc của nền giáo dục được thống nhất với tính hiện đại, phát triển theo hướng hiện
đại hóa, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu tiên tiến của nền giáo dục đương
đại. Khi đất nước còn chiến tranh nhưng với tầm nhìn của nhà kiến trúc sư, Bác
đã dự báo: “Tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến đổi, công việc của
chúng ta nhiều và mới, kỹ thuật của thế giới ngày càng tiến bộ, nhưng sự hiểu biết
của chúng ta có hạn. Muốn tiến kịp với sự biến đổi vơ cùng tận thì chúng ta phải
nghiên cứu học tập. Nghiên cứu học tập lý luận và kỹ thuật” 8. Tính dân tộc, tính
nhân dân, tính khoa học có mối quan hệ biện chứng tạo nên nội dung, chương
trình giáo dục vừa phù hợp với bề dày lịch sử truyền thống của dân tộc vừa đảm
bảo yêu cầu của nền giáo dục mới. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường,
Bác viết “Từ giờ phút này trở đi các em bắt đầu được nhận nền giáo dục hoàn
toàn Việt Nam. Một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người cơng dân
hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn tồn những
năng lực sẵn có của các em”9.
Thứ ba, phương pháp giáo dục
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn là bậc thầy về phương pháp giáo dục. Nhờ có
phương pháp giáo dục của Người mà nhiều thế hệ cán bộ của đất nước ta đã

trưởng thành, tiếp thu được những tinh hoa trí tuệ của khoa học hiện đại, vận
dụng sáng tạo vào điều kiện của Việt Nam. Chính vì nhận thức đúng vị trí, vai trị,
tầm quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển bền vững của quốc gia nên
Người coi giáo dục là một khoa học nghĩa là phải có phương pháp và nghệ thuật
giáo dục riêng. Bác nói: ‘Giáo dục nhi đồng là một khoa học” 10 Bác quan niệm
8 Sđd, tập 7, tr.392.
9 Sđd, tập 1, tr.95.
10 Sđd, tập 8, tr.85.


14
học phải đi đôi với hành, kiến thức học được ở nhà trường phải được hiện thực
hóa trong cuộc sống. Lý luận phải gắn liền với thực tiễn và từ thực tiễn tổng kết
nâng lên thành lý luận.
Giáo dục muốn đạt hiệu quả địi hỏi phải có phương pháp giáo dục phù hợp
với từng cấp học, ngành học khác nhau: Đối với bậc đại học: “Cần kết hợp lý luận
khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước
bạn, kết hợp thực tiễn ở nước ta để thiết thực giúp ích cho công việc xây dựng
nước nhà...bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế”. Đối với bậc
trung học: “Cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thơng chắc chắn, thiết
thực thích hợp với nhu cầu tiền đồ xây dựng nước nhà”. Và với tiểu học: “Cần
giáo dục cho các cháu thiếu nhi yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu
khoa học, trọng của cơng. Cách dạy phải nhẹ nhàng, vui vẻ chớ gị ép thiếu nhi
vào khuôn khổ người lớn”11. Bác khuyên các thầy cơ giáo: “Dạy các cháu thì nói
với các cháu chỉ là một phần, cái chính là phải cho các cháu nhìn thấy, cho những
tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì
trước hết các cơ các chú phải là người tốt” Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà giáo
un bác, có phương pháp sư phạm mẫu mực, nghiêm khắc mà vị tha, kỷ luật mà
tự do, học mà chơi, chơi mà là học, lý luận gắn liền với thực tiễn. Theo phương
pháp giáo dục của Bác thì người học kiến thức và người dạy cũng phải tự đào tạo

mình, rèn luyện mình để tự nâng cao trình độ kiến thức đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ. Trong thư gửi cho cán bộ, giáo viên, học sinh nhân dịp đầu năm học mới 1968
bác đã nhấn mạnh: “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách
mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta, do đó các ngành, các cấp đảng và chính
quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm
sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát
triển mới”12 .
4. Sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

11 Sđd, tập 8, tr.82.
12 Sđd, Tập 12, tr. 40.


15
Vận dụng sáng tạo và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc
biệt trong thời kỳ đổi mới Đảng ta đã hết sức coi trọng chiến lược phát triển giáo
dục – đào tạo và phát triển con người, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động
lực của sự phát triển. Trong mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng nước ta,
đường lối, chính sách giáo dục – đào tạo phải được vận dụng và phát triển quan
điểm của các nhà kinh điển mácxít vào hoạt động thực tiễn. Hơn nửa thế kỷ lãnh
đạo sự nghiệp giáo dục Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng khai
thác, vận dụng và phát triển các quan điểm của chủ nghĩa chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Đảng ta khẳng định “cùng với khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” 13, tạo cơ sở vật chất cho nước ta phát triển
nhanh và bền vững. Nhằm đáp ứng yều cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hoá đất nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta chủ trương phát triển
nền giáo dục khoa học, đại chúng, hướng đến xây dựng một xã hội học tập thực
thụ: “tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời” .

Vận dụng quan điểm Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Đảng
Nhà nước ta đã xác định vai trị giáo dục cùng với khoa học cơng nghệ là quốc
sách hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Hơn hai mươi năm đổi
mới, ngành giáo dục đã có những thành tích to lớn đóng góp vào thành tựu chung
của đất nước. Song trong những năm qua, ngành giáo dục vẫn còn những bất cập
như chất lượng giáo dục giáo dục còn nhiều yếu kém, năng lực thực hành, sự chủ
động sáng tạo của học sinh, sinh viên cịn yếu. Chương trình, phương pháp dạy và
học cịn lạc hậu, nặng nề chưa thật phù hợp. Ngoài ra cịn hiện tượng tiêu cực
khác như bệnh thành tích trong giáo dục, thiếu trung thực trong đánh giá kết quả
giáo dục, trong học tập, tuyển sinh, thi cử...Đảng, Nhà nước đã nhiều lần đưa vấn
đề giáo dục- đào tạo lên diễn đàn xã hội nhằm tìm ra giải pháp để chấn hưng nền
giáo dục nước nhà. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đưa ra mục tiêu: “Phấn đấu
xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, bảo đảm cơng bằng về
13 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.17.


16
cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập
suốt đời, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”14. Để thực hiện mục tiêu
trên, Đảng và Nhà nước ta cần tập trung thực hiện những giải pháp sau:
Trước hết đầu tư cho giáo dục cần được ưu tiên hàng đầu. Trong thực tế đầu
tư cho giáo dục còn quá khiêm tốn (15% ngân sách chi thường xuyên năm 2005).
Vì vậy, trong những năm tiếp theo cần có những giải pháp cụ thể để tăng ngân
sách đầu tư cho giáo dục, nhằm đáp ứng đời sống của giáo viên và xây dựng cơ sở
vật chất theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa.
Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo, rà soát sắp xếp lại mạng lưới các
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Đổi mới cơ chế
quản lý nâng cao chất lượng các trường cơng lập, bổ sung chính sách ưu đãi để
phát triển các trường ngồi cơng lập.

Thực hiện kỷ cương, kỷ luật trong trường học, thực hiện hai khơng: “Nói
khơng với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”Nâng cao hơn
nữa trách nhiệm các cấp các ngành và toàn xã hội trong việc thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ của sự nghiệp giáo dục.

14 Sđd, tr.25.



×