Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁCLÊNIN LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC – LÊNIN VỀ HÀNG HOÁ VÀ TÍNH HAI MẶT CỦA SẢN XUẤT HÀNG HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.35 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN

ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HỌC MÁC – LÊNIN VỀ HÀNG HỐ VÀ TÍNH
HAI MẶT CỦA SẢN X́T HÀNG HỐ
Giáo viên hướng dẫn: Bùi Xn Dũng

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 05 năm 2021

1


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
……………………………………………………………………………
………
……………………………………………………………………………
………
……………………………………………………………………………
………
……………………………………………………………………………
………
……………………………………………………………………………
………
……………………………………………………………………………
………
……………………………………………………………………………


………
……………………………………………………………………………
………
……………………………………………………………………………
………
……………………………………………………………………………
………
……………………………………………………………………………
………
……………………………………………………………………………
………
……………………………………………………………………………
………
……………………………………………………………………………
………

2


Điểm: …………………………

KÝ TÊN

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................5
1. Lí do chọn đề tài:................................................................................5
2. Mục tiêu nghiên cứu:..........................................................................5


Nội dung...................................................................................6
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC –
LÊNIN VỀ HÀNG HỐ VÀ TÍNH HAI MẶT CỦA SẢN XUẤT HÀNG
HOÁ. LIÊN HỆ THỰC TIỄN......................................................................6
1.1.

KHÁI NIỆM HÀNG HỐ..............................................................6

1.2.

THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HỐ.................................................6

1.3. LƯỢNG GIÁ TRỊ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
LƯỢNG GIÁ TRỊ CỦA HÀNG HOÁ:..................................................10
1.4.

SẢN XUẤT HÀNG HOÁ:.............................................................11

CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ SỰ TÁC ĐỘNG TRONG
TÍNH 2 MẶT CỦA SẢN XUẤT HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM.................16
1. Thực trạng nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam:................................16
2. Đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở nước ta................................17
3. Phương hướng phát triển sản xuất hàng háo ở nước ta:..................19

KẾT LUẬN...........................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................22

4



MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài:

Trong thời kỳ đầu của xã hội lồi người, sản xuất xã hội mang tính tự
cung tự cấp, nhu cầu của con người bị gói gọn trong một giới hạn nhất định do
sự hạn chế của lực lượng sản xuất. Chỉ đến khi lực lượng sản xuất phát triển và
có những thành tựu nhất định, nhu cầu của con người mới dần được đáp ứng
nhiều hơn. Sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng chính là nhân tố dẫn đến
đến sự thay đổi từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa và
đỉnh cao là nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu về hàng hóa của con người được
đáp ứng, thỏa mãn tối đa với số lượng hàng hóa khổng lồ. Tuy nhiên, nền kinh
tế thị trường vẫn tồn tại các hạn chế nhất định, đặc biệt là trong chế độ xã hội
tư bản chủ nghĩa (TBCN). TBCN xem lợi nhuận là yếu tố quan trọng hàng đầu
dẫn đến quyền bình đẳng trong xã hội bị xem nhẹ và sự phân hóa xã hội sâu
sắc. Điều này đã được Mác-Ăngghen nhận biết trong quá trình nghiên cứu về
hình thái kinh tế xã hội: TBCN chắc chắn sẽ bị thay thế bởi một chế độ xã hội
hồn thiện hơn, nơi mà con người có quyền tự do, bình đẳng, văn minh, xã hội
cơng bằng, nền kinh tế phát triển bền vững - Chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Từ sau khi giải phóng hồn tồn miền Bắc Việt Nam, Đảng ta đã xác
định đưa đất nước đi lên theo con đường CNXH. Đại hội Đảng lần thứ VI được
xem là bước trong sự nghiệp quá độ lên CNXH của nước ta. Theo đó, xây dựng
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN dưới sự quản lý
của nhà nước là chủ chương chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên
CNXH.
Cho đến ngày hôm nay, sau hơn 10 năm thực thực hiện đổi mới, Việt
Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn cịn

tồn tại các mặt hạn chế nhất định. Chính vì vậy, em đã lựa chọn chủ đề “ Lý
luận của kinh tế chính trị học Mác-Lênin về hàng hố và tính hai mặt của
sản xuất hàng hoá” làm đề tài cho bài tiểu luận kinh tế chính trị Mác-Lênin
của mình.”
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu cao nhất của kinh tế chính trị Mác-Lênin là nhằm
phát hiện ra các quy luật chi phối liên quan giữa người và người trong sản xuất
và trao đổi. Từ đó giúp cho các chủ thể trong xã hội vận dụng các quy luật ấy,
5


tạo động lực để khơng ngừng sáng tạo góp phần thúc đẩy văn minh và sự phát
triển của xã hội thơng qua việc giải quyết các quan hệ lợi ích. Vì những vấn đề
ở trên, nhóm em đã chọn đề tài làm tiểu luận là: “ Lý luận của kinh tế chính
trị học Mác-Lênin về hàng hố và tính hai mặt của sản xuất hàng hố” để
có thể tìm hiểu thêm về các tri thức cơ bản về thị trường và cơ chế thị trường.
Đây là sự bổ sung làm rõ lý luận của C.Mác trong bối cảnh ngày nay. Trên cơ
sở hệ thống lý luận này, có thể hiểu biết tri thức lý luận nền tảng cho nghiên
cứu về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC MÁC –
LÊNIN VỀ HÀNG HỐ VÀ TÍNH HAI MẶT CỦA SẢN XUẤT HÀNG
HOÁ. LIÊN HỆ THỰC TIỄN.
1.1. KHÁI NIỆM HÀNG HỐ
Hàng hố là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất
hàng hố, đồng thời sản phẩm lao động mang hình thái hàng hố khi nó là đối

tượng mua bán trên thị trường. Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn
mong muốn, nhu cầu nào đó của con người thơng qua trao đổi hay mua bán.
Karl Marx định nghĩa hàng hoá trước hết là đồ vật mang hình dạng có khả năng
thoả mãn nhu cầu con người nhờ vào các tính chất của nó. Để đồ vật trở thành
hàng Hố cần phải có:
Tính hữu dụng đối với người dùng
Giá trị (kinh tế), nghĩa là được chi phí bởi lao động.
Sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm.
THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HOÁ
Trong những xã hội do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chi phối
thì của cải biểu hiện ra là một “đống hàng hóa khổng lồ”, cị từng hàng hóa
một thì biểu hiện ra là hình thái ngun tố của cải ấy. Vì vậy,cơng cuộc nghiên
cứu của chúng ta bắt đầu bằng việc phân tích hàng hóa.
Hàng hóa trước hết là một vật dụng bên ngồi, là một vật nhờ có những
thuộc tính của nó mà thỏa mãn được một số nhu cầu nào đó của con người. Dù
cho những nhu cầu đó da dạ dày hay do trí tưởng tượng đẻ ra, thì bản chất của
chúng vẫn khơng làm cho vấn đề thay đổi gì cả. Vấn đề cũng kohong phải là ở
chỗ vật đó thỏa mãn nhu cầu của con người thế nào: hoặc giả một cách trực
tiếp, với tư cách là tư liệu sinh hoatm tức là với tư cách là vật phẩm tiêu dùng,
hoặc một cách gián tiếp, với tư cách là tư liệu sản xuất.
Mỗi một vật có ích như sắt, giấy, v.v., đều có thể xét về hai mặt : mặt
chất và mặt lượng, mỗi một vật như thế là một tổng thể của nhiều thuộc tính
và ì vật mà có thể có ích về nhiều mặt khác nhau. Tìm ra các mặt khác nhau
đó, và do đó, tìm ra các công dụng nhiều mặt của các vật, là công việc của lịch
sử. Cũng phải nói như vậy đối với việc tì ra các thước đo xã hội để đo lường
lượng của các vật có ích. Các thước đo hàng hóa sở dĩ khác nhau một phần là
do bản chất khác nhau của chính ngay những vật cần đo lường, một phần là do
chúng mang tính chất quy ước.
Tính có ích của một vật làm cho vật đó trở thành một giá trị sử dụg.
Nhưng tích có ích đó khơng phải lơ lửng trên khơng. TÍnh có ích đo do thuộc





1.2.

7


tính của vật thể hàng hóa quyết định, nó khơng tồn tại được ở bên ngồi vật
thể hàng hóa này. Vì thế, bản thân vật thể hàng hóa đó, như sắt, lúa mì, kim
counw, v.v., là một giá trị sử dụng, hay của cải. Tính chất ấy cảu nó khơng phụ
thuộc vào việc người ta phải mất nhiều hay ít lao động để chiếm láy những
thuộc tính có ích ấy. Khi xét đến các giá trị sử dụng, bao giờ người ta cũng
giải định một số lượng nhất định của các giá trị đó, như một tá đồng hồ, một
vng vải, một tấn sắt, v.v.. Giá trị sử dụng của các hàng háo là đối tượng của
các môn học đặc biệt là môn thương phẩm học. Giá trị sử dụng chỉ được thực
hiện trong việc sử dụng hya tiêu dùng. Giá trị sử dụng cấu thành nội dung vật
chất của của cải, chẳng kể hình thái xã hội của của cải đó là như thế nào.
Trong hình thái xã hội mà chúng ta đang nghiên cứu, giá trị sử dụng đồng thời
cũng là những vật mang giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi trước hết biểu hiện ra như là một quan hệ về số lượng,
là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá
trị sử dụng khác, quan hệ này luôn luôn thay đổi theo thời gian và địa điểm. Vì
vậy, giá tị trao đổi hình như là một cái gì ngẫu nhiên và thuần túy đương đối,
cịmn giá trị trao đổi nội tại, vốn có của bản thân hàng hóa thì hình như là một
thứ khơng một cái gì có thể có giá trị trao đổi nội tại. Chúng ta hãy xét kỹ vấn
đề này hơn nữa
Một hồng hóa tỉnh nào đó ví dụ một chiếc quắc-tơ lúa mì được trao
đổi với x xi giày hay với y lụa hay với z vàng v.v.,nói tóm lại là với nhiều hàng

hóa khác theo những tỉlệ hết sức khác nhau do đó lúa mì khơng phải chỉ có
một giá trị trao đổi duy nhất mà cịn có nhiều giá trị trao đổi nhưng vì x xi
đánh giày cũng như y lụa và z vàng đều là những giá trị trao đổi của quắc-tơ
lúa mì cho nên x đánh giày vàylụa z vàng phải là những giá trị trao đổi có thể
thay thế lẫn nhau hay có tải lượng bằng nhau. Từ đó, có thể kết luận rằng, một
là, các giá trị trao đổi khác nhau của cùng một thứ hàng hóa đều biểu thị một
cái gì đó giống nhau, và hai là, giá trị trao đổi hàng hóa nói chung chỉ có thể là
một phương thức biểu thị, chỉ là một hình thái thể hiện của một nội dung nào
đó khác với nó mà thơi.
Ta hãy lấy hai hàng hóa nữa, như lúa mì và sắt chẳng hạn dù tỉ lệ
trao đổi giữa hai thứ đó như thế nào chăng nữa, thì tỉ lệ ấy bao giờ cũng có thể
biểu thị được bằng một phương trình, trong đó số lượng lúa mì nhất định được
coi là bằng một số lượng sách nào đó ví dụ một quắc-tơ lúa mì bằng a tạ sắt
phương trình ấy nói lên cái gì? Nói lên rằng trong hai vật khác nhau tức là
trong một quắc-tơ lúa mì và a tạ sắt - có một cái gì đó của cùng một đại lượng.
Vậy cả hai vật đó bằng một bậc thứ ba nào đó và thứ ba này bản thân lại
không phải là thứ nhất mà cũng không phải là thứ hai. Như vậy mỗi vật trong
hai vật ấy với tư cách là giá trị trao đổi, có thể quy thành và thứ ba đó.
Cái chung ấy khơng thể là những thuộc tính hình học, vật lí, hóa
học hay những thuộc tính tự nhiên nào khác của hàng hóa. Các thuộc tính vật
theer của hàng hóa nói chung cũng chỉ được xét đến trong chừng mực làm cho
các hàng hóa đó trở nên có ích , tức là trong chừng mực làm cho các hàng hóa
đó biến thành những giá trị sử dụng. Nhưng mặt khác, rõ ràng nét đặc trưng
8


của quan hệ trao đổi hàng hóa chính lại là việc phải tạm gạt giá trị sử dụng của
hàng hóa qua một bên. Trong giới hạn của quan hệ trao đổi hàng hóa, một giá
trị sử dụng này trị giá đúng một giá trị sử dụng khác, miễn là theo một tỷ lệ
thích đáng. Hay nói như ơng già Bác-bơn:

“Một loại hàng hóa này cũng tốt như một loại hàng hóa khác nếu
như giá trị trao đổi của chúng ngang nhau. Giữa những vật mà giá trị trao đổi
ngang nhau thì khơng có một sự khác nhau, một sự phân biệt nào cả”
Là những giá trị sử dụng, các hàng hóa khác nhau trước hết vè vật
chất; là những giá trị trao đổi, các hàng hóa chỉ có thể khác nhau về lượng mà
thơi, do đó chúng khơng chứa đựng một nguyên tử giá trị sử dụng nào cả.
Nếu gạt giá trị sử dụng của vật thể hàng hóa ra một bên, thì vâth
thể hàng hóa chỉ cịn có một thuộc tính mà thơi, cụ thể là: chúng là sản phẩm
của lao động. Nhưng bây giờ, nagy bản thân sản phẩm của lao động cũng mang
một dạng hoàn toàn mới. Qua đó nhận thấy rằng hàng hố có hai thuộc tính cơ
bản là giá trị sử dụng và giá trị. Giữa hai thuộc tính này có mối quan hệ ràng
buộc lẫn nhau, nếu thiếu một trong hai thuộc tính thì khơng phải là hàng hố.
 Giá trị hàng hố:
Giá trị sử dụng của hàng hóa là gì? Giá trị sử dụng là cơng dụng của vật phẩm
có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.
 Nhu cầu trực tiếp như: ăn, mặc, ở, phương tiện đi lại…
 Nhu cầu gián tiếp như: các tư liệu sản xuất…
Bất cứ hàng hố nào cũng có một hay một số cơng dụng nhất định.
Chính cơng dụng (tính có ích) đó làm cho nó có giá trị sử dụng
Ví dụ: Gạo để ăn, áo để mặc, nhà để ở, máy móc để sản xuất,
phương tiện để đi lại…
Giá trị sử dụng của mỗi hàng hố là do những thuộc tính tự nhiên
(vật lý, hố học…) của vật thể hàng hố đó quyết định nên giá trị sử dụng là
phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hay kiểu tổ chức sản
xuất. Tuy nhiên, việc phát hiện ra và vận dụng từng thuộc tính tự nhiên có ích
đó lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội.
C.Mác viết: “giá trị sử dụng cấu thành cái nội dung vật chất của
của cải, chẳng kể hình thái xã hội của của cải đó như thế nào”
Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hố,
nó khơng phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là

giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi – mua bán.
Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao
đổi, giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng nó, khi
chưa tiêu dùng thì giá trị sử dụng chỉ ở trạng thái khả năng. Để giá trị sử dụng
có khả năng biến thành giá trị sử dụng hiện thực thì nó phải được tiêu dùng.

9


Điều này nói lên ý nghĩa quan trọng của tiêu dùng đối với
sản xuất. Đòi hỏi người sản xuất hàng hóa ln ln quan tâm đến nhu cầu của
xã hội, làm cho sản phẩm đáp ứng được nhu cầu xã hội. Sự phát triển của nền
kinh tế thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng, đặc biệt là sau khi Việt
Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp trong nước ngày càng cạnh tranh quyết
liệt.
 Giá trị hàng hoá:
Trong nền sản xuất hàng hoá, giá trị sử dụng đồng thời cũng
là vật mang giá trị trao đổi.
Muốn hiểu giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá
trị trao đổi là quan hệ về lượng, là tỷ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng khác
nhau.
Ví dụ: 1m vải có giá trị trao đổi bằng 10 kg thóc.
Sở dĩ vải và thóc là hai hàng hóa mặc dù có giá trị sử dụng
khác nhau nhưng lại có thể trao đổi với nhau được theo một tỉ lệ nhất định nào
đó là vì giữa chúng có một cơ sở chung là cả vải và thóc đều là sản phẩm của
lao động (thời gian lao động và công sức lao động) do lao động được chứa
đựng trong hàng hố, đó chính là cơ sở giá trị của hàng hoá.
Đây là khái niệm được khẳng định trong các giáo trình kinh
tế chính trị. Nếu xét nó trên quan điểm của trường phái hiệu dụng biên thì vẫn
đạt được lý lẽ hồn chỉnh.

Theo đó, đối tượng chung của nhu cầu có trong các cá nhân
khác nhau vẫn đảm bảo cơ sở cho trao đổi.
 Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hố:
Hai thuộc tính của hàng hố có quan hệ chặt chẽ với nhau,
vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
Thống nhất
Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hoá. Nếu một vật có
giá trị sử dụng (tức có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, xã hội),
nhưng khơng có giá trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh lao
động) như khơng khí tự nhiên thì sẽ khơng phải là hàng hố. Ngược lại, một vật
có giá trị (tức có lao động kết tinh), nhưng khơng có giá trị sử dụng (tức khơng
thể thoả mãn nhu cầu nào của con người, xã hội) cũng không trở thành hàng
hoá.
Đối lập
Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hố khác nhau về
chất (vải mặc, sắt thép, lúa gạo…). Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì
các hàng hố lại đồng nhất về chất, đều là “những cục kết tinh đồng nhất của
lao động mà thôi”, tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được
vật hoá ( vải mặc, sắt thép, lúa gạo… đều do lao động tạo ra, kết tinh lao động
trong đó).

10


Thứ hai, quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách rời nhau
cả về mặt không gian và thời gian.
+ Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông và thực hiện trước.
+ Giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng.
Người sản xuất quan tâm tới giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị
bắt buộc họ cũng phải chú ý đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng

quan tâm tới giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình.
Nhưng muốn có giá trị sử dụng họ phải trả giá trị cho người sản xuất ra
nó. Nếu khơng thực hiện giá trị sẽ khơng có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá
trị sử dụng và giá trị hàng hố cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn
đến khủng hoảng sản xuất thừa.
1.3.

LƯỢNG GIÁ TRỊ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
LƯỢNG GIÁ TRỊ CỦA HÀNG HOÁ:

Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị
của hàng hố cũng là một đại lượng khơng cố định. Sự thay đổi lượng giá trị
của hàng hoá tùy thuộc vào những nhân tố sau:
– Năng suất lao động
+ Khái niệm: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nó được
tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số
lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
+ Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao
động xã hội nhưng chỉ có năng suất lao động xã hội có ảnh hưởng đến giá trị xã
hội của hàng hóa vì trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không phải theo giá
trị cá biệt mà theo giá trị xã hội.
+ Năng suất lao động lại tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ khéo léo
của người lao động, sự phát triển của khoa học – kỹ thuật và trình độ ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư
liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.
+ Ảnh hưởng của năng suất lao động tới lượng giá trị của hàng hóa: năng suất
lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
hàng hoá càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại
năng suất lao động xã hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội cần thiết để
sản xuất ra hàng hoá càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng

nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động
kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng xuất lao động xã hội. Như vậy, muốn giảm giá
trị của mỗi đơn vị hàng hố xuống, thì ta phải tăng năng suất lao lộng xã hội.
* Phân biệt giữa tăng năng suất lao động với tăng tường độ lao động:
+ Khái niệm: Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ khẩn trương, là
sự căng thẳng mệt nhọc của người lao động.

11


+ Ảnh hưởng của cường độ lao động đến lượng giá trị hàng hóa: khi cường độ
lao động tăng lên, thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian
cũng tăng lên và lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng lên tương ứng còn
lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm thì khơng đổi. Xét về bản chất, tăng
cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
– Mức độ phức tạp của lao động
+ Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị
của hàng hố. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành
lao động giản đơn và lao động phức tạp.
+ Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một
người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được. Lao
động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao
động lành nghề. Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động
phức tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn.
+ Trong nền sản xuất hàng hóa, hoạt động trao đổi diễn ra liên tục, phức
tạp. Để thuận tiện cho trao đổi, người ta lấy lao động giản đơn trung bình
làm đơn vị trao đổi và quy tất cả lao động phức tạp thành lao động giản đơn
trung bình.
Như vậy, lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội
cần thiết, giản đơn trung bình.

1.4. SẢN XUẤT HÀNG HOÁ:
Là khái niệm được sử dụng trong kinh tế chính trị Marx – Lenin dùng để
chỉ về kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra không phải là
để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà là để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán
trên thị trường.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế phân biệt với sản xuất tự xung tự
cấp ở thời kì đầu của lịch sử lồi người. Ở thười kì đó, sản phẩm của sự lao
động được tạo ra chỉ để phục vụ trữ tiếp cho nhu cầu của chính người sản xuất
ra chúng. Nhưng do sản xuất ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày
càng tăng cao làm cho sản xuất tự cung tự cấp dần dần bị chuyển hóa thành sản
xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa đã tồn tại từ trong chế độ chiếm hữu nô lệ,
chế độ phong kiến, sau đó là chế độ tư bản chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Sản xuất hàng hóa tồn tại trên cơ sở của sự trao đổi hàng hóa và là nền
tảng cho mọi nền kinh tế.
 Điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch sử, chỉ xuất hiện và tồn tại trong
xã hội khi có những điều kiện nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa
Marx thì sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa phụ thuộc vào 2 điều
kiện cơ bản sau:

12



Phân công xã hội lao động: là sự chuyện môn hóa sản xuất, phân
chia lao động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau của
nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên, bản than con người lại có những nhu cầu khác
nhau, bởi vậy địi hỏi họ phải đi trao đổi sản phẩm của mình để thảo mãn các
nhu cầu đó.

Phân cơng lao động xã hội là cơ sở, tiền đề của sản xuất hàng hóa. Theo
C.Mác: “ sự phân công xã hội là điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hóa,
mặc dầu ngược lại, sản xuất hàng hóa khơng phải là điều kiện tồn tại của sự
phân công lao động xã hội”. Phân cơng lao động xã hội càng phát triển, thì sản
xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.

Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất:
là những người sản xuất trở thành những chủ đề có sự độc lập nhất định với
nhau. Do đó sản phẩm làm ra phụ thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế,
người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thơng
qua trao đổi, mua bán hàng hóa. Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư
hữu tư liệu sản xuất quy định. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư
liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc
quyền sở hữu của họ.
Hai điều kiện trên là điều kiện cần và đủ cho sự ra đời và tồn tại của sản
xuất hàng hóa, nếu thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ khơng có sản xuất hàng
hóa. Chính vì vậy, khi xem xét thực trạng nền sản xuất hàng hóa, cần phải coi
đây là nền tảng cơ sở để tìm hiểu.
 Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa:
 Đặc trưng:
Sản xuất hàng hóa có hai đặc trưng cơ bản sau:
-

Sản xuất hàng hóa là sản xuất hàng hóa để trao đổi, mua bán. Sản xuất
hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế đối lập với sản xuất tự cung tự cấp
trong thời kì đầu của lịch sử lồi người. Cụ thể, trong sản xuất hàng hóa
sản phẩm được tạo ra để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác,
thông qua việc trao đổi, mua bán.

-


Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa
mang tính xã hội. Tính chất tư nhân thể hiện ở việc đặc tính của sản
phẩm được quyết định bởi cá nhân làm ra nó hoặc người trực tiếp sở
hữu tư liệu sản xuất trên danh nghĩa. Tính chất xã hội qua việc sản phẩm
tạo ra đáp ứng cho nhu cầu của những người khác trong xã hội. Tính

13


chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc khơng phù hợp với tính chất xã hội.
Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa.
 Ưu thế:
So với nền kinh tế tự cung tự cấp, nền sản xuất hàng hóa có thể có rất
nhiều ưu thế vượt trội hơn hẳn:
-

Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ
sở cảu phân cơng lao động xã hội, chun mơn hóa sản xuất vì thế, nó
khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng
người, từng cơ sở sản xuất. Bên cạnh đó, sự phát triển của sản xuất hàng
hóa lại tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã
hội, làm cho chun mơn hóa lao động ngày càng tăng.

-

Đẩy mạnh q trình xã hội hóa sản xuất. Sản xuất hàng hóa phá vỡ tính
tự cung tự cấp, bảo thủ, lạc hậu của nền kinh tế tự cung tự cấp. Khai
thác được ưu thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ
sở, từng vùng, từng địa phương, kích thích sự phát triển về kinh tế của

cả quốc gia.

-

Đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội. Xã hội ngày càng phát triển, nhu
cầu của con người ngày càng tăng cả về lượng và chất, sản xuất hàng
hóa giúp cho họ có nhiều sự lựa chọn hơn để đáp ứng nhu cầu của mình.
Góp phần cải thiện đời sống xã hội đồng thời làm tăng khả năng lao
động của xã hội.

1.5.

Tính hai mặt của sản xuất hàng hố:

Hàng hóa có hai thuộc tính khơng phải là do có hai thứ lao động khác nhau
kết tinh trong nó, mà là do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính chất
hai mặt:
+ Vừa mang tính chất cụ thể (lao động cụ thể);
+ Lại vừa mang tính chất trừu tượng (lao động trừu tượng).
C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động.
* Lao động cụ thể
– Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của
những nghề nghiệp chun mơn nhất định.
Ví dụ: Lao động của người thợ may và lao động của người thợ mộc là
hai loại lao động cụ thể khác nhau.

14


– Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động,

đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân
biệt các loại lao động cụ thể khác nhau.
Ví dụ: Lao động của người thợ may có mục đích là làm ra quần áo chứ
khơng phải là bàn ghế. Cịn phương pháp là may chứ khơng phải là bào, cưa;
có công cụ lao động là kim, chỉ, máy may chứ không phải là cái cưa, cái bào…;
và lao động của người thợ may thì tạo ra quần áo để mặc, cịn lao động của
người thợ mộc thì tạo ra ghế để ngồi…
* Đặc trưng của lao động cụ thể:
- Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ
thể càng nhiều loại thì càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau.
- Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng
với sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày
càng đa dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát triển của phân cơng lao
động xã hội.
- Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Giá trị sử dụng là phạm
trù vĩnh viễn, vì vậy lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền
vối vật phẩm, nó là một điều kiện khơng thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế
– xã hội nào.
- Các hình thức phong phú và đa dạng của lao động cụ thể phụ thuộc vào trình
độ phát triển và sự áp dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất, đồng thời cũng
là tấm gương phản chiếu trình độ phát triển kinh tế và khoa học – công nghệ ở
mỗi thời đại.
- Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng do nó
sản giờ cũng do hai nhân tố hợp thành: vật chất và lao động. Lao động cụ thể
của con người chỉ thay đổi hình thức tồn tại của các vật chất, làm cho nó thích
hợp với nhu cầu của con người.

Điều đó có nghĩa là: Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do
có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Nếu phân công lao động xã hội càng

phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của
xã hội. Cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, các hình thức lao động
cụ thể ngày càng đa dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát triển của phân
cơng lao động xã hội. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, là một điều
kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào.
 Lao động trừu tượng

15


– Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã
gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu
hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa
nói chung.
*  Đặc trưng của lao động trừu tượng:
- Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa, làm cơ sở cho sự ngang bằng
trao đổi.
- Giá trị của hàng hóa là một phạm trù lịch sử, do đó lao động trừu tượng tạo ra
giá trị hàng hóa cũng là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền sản xuất
hàng hóa.
Lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may, nếu xét về
mặt lao động cụ thể thì hồn tồn khác nhau, nhưng nếu gạt tất cả những sự
khác nhau ấy sang một bên thì chúng chỉ cịn có một cái chung, đều phải tiêu
phí sức óc, sức bắp thịt và sức thần kinh của con người. Lao động trừu tượng
chính là lao động hao phí đồng chất của con người. Lao động bao giờ cũng là
sự hao phí sức lực của con người xét về mặt sinh lý. Nhưng khơng phải sự hao
phí sức lao động nào về mặt sinh lý cũng là lao động trừu tượng. Lao động trừu
tượng chỉ có trong nền sản xuất hàng hố, do mục đích của sản xuất là để trao
đổi. Vì vậy, xuất hiện sự cần thiết phải quy các lao động cụ thể vốn rất khác
nhau, không thể so sánh được với nhau thành một thứ lao động đồng chất, tức

lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị làm cơ sở cho sự ngang
bằng trong trao đổi. Nếu khơng có sản xuất hàng hố, khơng có trao đổi thì
cũng khơng cần phải quy các lao động cụ thể về lao động trừu tượng. Vì vậy,
lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hố.
Như vậy, có thể nói: Giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của
người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất
của giá trị hàng hóa.
 Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính
chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất
hàng hóa.
Như trên đã chỉ ra, mỗi người sản xuất hàng hố sản xuất cái gì, sản xuất
như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động đó mang tính chất tư nhân,
và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.
Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng hóa là lao động xã hội vì
nó là một bộ phận của tồn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công lao
động xã hội.
Phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những
người sản xuất hàng hóa. Họ làm việc cho nhau, thông qua trao đổi hàng hóa.

16


Việc trao đổi hàng hóa khơng thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải
quy lao động cụ thể về lao động chung đồng nhất – lao động trừu tượng. Do đó,
lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.

Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động của
người sản xuất ra hàng hóa có tính hai mặt. Chính tính hai mặt của lao động
sản xuất hàng hóa quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hóa.
C.Mác là người đầu tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động

sản xuất hàng hóa. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng:
- Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của
những nghề nghiệp chuyên mơn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích
riêng, đối tượng riêng, phương tiện riêng, phương pháp riêng và kết quả riêng.
Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động
cụ thể càng nhiều loại thì càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau. Các
lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự
phát triển của khoa học - kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa
dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát triển của phân cơng lao động xã
hội. Ngồi ra, lao động cụ thể còn tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa mà giá trị
sử dụng là phạm trù vĩnh viễn, vì vậy lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh
viễn tồn tại gắn liền vối vật phẩm, nó là một điều kiện khơng thể thiếu trong bất
kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào.
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ
những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức
lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói
chung.
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ SỰ TÁC ĐỘNG TRONG TÍNH
2 MẶT CỦA SẢN XUẤT HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM.
2.1. Thực trạng nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam:
Trong giai đoạn quá độ lên CNXH, ở nước ta những điều kiện chung
của sản xuất hàng háo vẫn còn bởi vậy nền sản xuất hàng háo tồn tại là một tất
yếu khách quan.
Phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở trao đổi chẳng những
không mất đi, trái lại ngày một phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự
chun mơn hóa và hợp tác hóa lao động đã vượt khỏi biên giới quốc gia và
ngày càng mang tính quốc tê.

17



Phân công lao động xã hội đã phá vỡ các mối quan hệ truyền thống của
nền kinh tế tự nhiên khép kín, tao cơ sở thống nhất, phụ thuộc lẫn nhau giữa
những người sản xuất vào hệ thống của hợp tác lao động. Sự phân công lao
động của ta đã ngày càng chi tiết hơn đến từng ngành, từng cơ sở và ở phạm vi
rộng hơn nữa là toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hiện nay ta đã có hàng loạt các
thị trường được hình thành từ sự phân cơng lao động đó là : Thị trường cơng
nghệ, thị trường các yếu tố sản xuất,.. Tạo đà cho nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần phát triển giúp ta nhanh chóng hịa nhập được với kinh tế trong khu
vực và thế giới.
Trong nền kinh tế đã và đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau
và tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể của
những người sản xuất hàng háo nhỏ, sử hữu tư nhân TBCN, sở hữu hồn hợp,
đồng sử hữu,.. Chế độ xã hội hóa sản xuất giữa các ngành, các xí nghiệp trong
cùng một hình thức sử hữu vẫn chưa đều nhau. Sở dĩ như vậy là do cơ cấu kinh
tế của ta giờ là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, sự tồn tại cảu các thành phần
kinh tế là một tất yếu khác quan.
Sản xuất hàng háo là để trao đổi đáp ứng nhu cầu của xã hội nên người
sản xuất có điều kiện để chun mơn hóa cao. Trình độ tay nghề được
nâng lên do tích lũy kinh nghiệm, tiếp thu được tri thức mới. Công cụ
chuyên dùng được cải tiến, kỹ thuật mới được áp dụng do đó cạnh tranh
ngày càng gay gắt khiến cho năng suất lao động được nâng lên, chất
lượng sản phẩm ngày càng được cải thiện và tốt hơn. Hiệu quả kinh tế
được trú trọng làm mục tiêu đánh giá sự hoạt động của các thành phần
kinh tế. Việc trao đổi hàng háo dựa trên nguyên tắc ngang giá khiến cho
người sản xuất ln tìm cách tiết kiệm giảm đến mước tối đa những chi
phí cá biệt, giảm giá trị hàng hóa cá biệt để có lợi nhuận khi trao đổi,
Trên cơ sở phân công lao đọng, sản xuất hàng hóa phát triển. Khi sản
xuất hàng háo phát triễn sẽ làm phân công lao động ngày càng cao hơn,
sâu hơn. Quan hệ hàng hóa, tiền tệ quan hệ thị trường ngày càng được

chủ thế sản xuất hàng hóa vận dụng có hiệu quả hơn và từ đó ngồi các
quan hệ kinh tế phát triển mà các quan hệ pháp lý xã hội, tập quán ác
phng cũng thay đổi.
Chính từ ưu việt rất riêng, rất có lợi (tuy bên cạnh đó vẫn cịn có
những khuyết tật) của sản xuất hàng hóa mà tại đại hội VII Đảng ta đã
xác định phương hướng: phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng XHCN vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước.

2.2 Đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở nước ta
Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu,
lược lượng sản xuất chưa phát triển, lại bỏ qua giai đoạn TBCN nên nền

18


sản xuất hàng hóa của ta khơng giống với nền sản xuất hàng hóa của các
nước khác trên thế giới với những đặc trưng tiêu biểu :
Thứ nhất : Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến
từ một nền kinh tế hàng hóa kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc
sang một nền kinh tế hàng hóa phát triển từ thấp đến cao. Xuất phát từ
thực trạng có thể nói là rất tiêu biểu của nền kinh tế nước ta : Kết cấu hạ
tầng vật chất và xã họi kếm, tình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong
các doanh nghiệp lạc hậu, khả năng cạnh tranh gần hư khơng có
Thứ hai : Nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều
thành phần. Từ thực trạng nền kinh tế hàng kém phát triển do nhiều
nhân tố song nhân tố gây hậu quả nặng nề nhất là sự nhận thức không
đúng đắn dẫn đến nơn nóng xóa bỏ các thành phần kinh tế, thực chất là
xóa bỏ điều kiện tồn tại và phát triển kinh tế hàng hóa, làm mất khả
năng cạnh tranh và tác dụng tích cực của nền kinh tế hàng hóa. Nền kinh

tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả
năng đa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém. Cơ cấu ngành theo
hướng phát triển kinh tế dịch vụ đang dần chiếm ưu thế cao trong nèn
kinh tế hàng hóa thu hút một só lượng lớn lao động. Từ đó cơ cấu cơngnơng nghiệp và dịch vụ sớm hình thành theo định hướng chuyển dịch
kinh tế mà Đại hội Đảng VIII đã đề ra, nó đảm bảo cho mọi người, mọi
doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế đều được tự do kinh doanh theo
pháp luật và được pháp luật bảo hộ quyền sử hữu và quyền thu nhập hợp
pháp. Nó cịn làm cho các chủ thể kinh tế được hoạt động theo cơ chế tự
chủ, hợp tác cạnh tranh và bình đẳng trước pháp luật.
Thứ ba : Nền kinh tế hàng hóa theo cơ cấu kinh tế “mở” giữa
nước ta với các nước trên thế giới. Trước kia với cơ cấu kinh tế “khép
kín”, với tình trạng “bế quan tọa cảng”, luẩn quẩn sau lũy tre làng nên
kinh tế nước ta lâm vào ế tắc, kém phát triển có thể nói là lạc hậu nhất
thế giới. Vì vậy sự ra đời của nền kinh tế hàng háo TBCN đã làm cho thị
trường dân tộc hoạt động trong sự gắn bó với thị trường thế giới. Do sự
phân bố phát triển không đều về tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và
thế mạnh giữa các nước từ quy luật phân công và hợp tác lao động quốc
tế, đời sống mang tính quốc tế hóa... dẫn đến nhu cầu khác quan là mở
cửa nền kinh tế hàng háo để đạt được hiẹu quả cao và phát triển với tốc
độ nhanh nền kinh tế.
Thứ tư: Phát triển kinh tế hàng hóa theo định hướng XHCN với
vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mơ của
nhà nước. Trong các thành phần kinh tế thì kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo do bản chất vốn có và lại nắm giữ các ngành, lĩnh vực hen chốt
và trọng yếu, nên đảm bảo cho các thành phần kinh tế khác phát triển
theo định hướng XHCN. Tuy nhiên vai trị của nó chỉ được khẳng định
khi nó phát huy được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế
19



khác, nó sớm chuyển đổi cơ chế quản lý theo hướng năng suất, chất
lượng và hiệu quả để đứng vững à chiến thắng trong môi trường hợp tác
và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế. Nền kinh tế hàng hóa bên
cạnh mặt tích cực là làm thảy oddoi bộ mặt của đất nước không trành
khỏi những khuyết tật nhất định về mặt xã hội như : phá sản, khủng
hoảng, áp bức bất cơng, tàn phá mơi trường, phân hóa giàu nghèo..
Chính vì vậy cần phải có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Nước ta do chịu ảnh hưởng lâu dài của cơ chế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu, bao cấp nên những công cụ để Nhà nước điều hành vĩ
mơ nền kinh tế hóa như: hệ thống ngân hàng, tính dụng.. cịn thấp kém.
Chưa quen với việc chấp hành luật pháp trong kinh doanh. Trình độ hiểu
biết của nhà nước về cơ chế thị trường còn nhiều hạn chế, thiếu tính
khoa hoc, thực tế cịn lúng túng trong quản lý kinh tế vĩ mơ. Trong điều
kiện đó xu hướng vận động khác quan cảu nước ta trước mắt và lâu dài
là phấn đấu nâng cao năng lực và tăng cường các cơng cụ và do đó nâng
cao trình đọ quản lý vĩ mơ của nhà nước. Từ định hướng đó đảng và va
kiên định chiến lược phát triển nền kinh tế hàng háo hiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN. Mà nhà nước là của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh
đạo của đảng là nhân tố quết định nhất đảm bảo tính định hướng XHCN.
2.3. Phương hướng phát triển sản xuất hàng hóa ở nước ta:
Trong giai đoạn hiện nay khi mà chiến lược ổn định về kinh tế,
chính trị xã hội đã được xách định rõ, kết cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng
xã hội được xây dừng ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng, hệ thống pháp luật và bộ máy nhà nước được củng cố và trong
sạch hóa, số lượng các nhà quản lý, nhà kinh doanh giỏi thích nghi với
cơ chế thị trường ngày càng đông đảo, tay nghề khá cao. Đảng đã xác
định hướng đi của nền kinh tế cho phù hợp với các điều kiện tiền đề
hiện có :
Trước hết phải thực hiện nhất quá và lâu dài chính sách kinht ế

nhiều thành phần theo định hướng XHCN với các hình thức sở hữu đa
dạng : sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp,..
Thứ hai : Cần sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước theo hướng
nắm khâu mặt hàng trọng yếu chuyẻn dần sang hạch toán kinh doanh, tự
chủ về mọi mặt đủ sức đứng vững và giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Thứ ba : sử dụng rộng rãi các hình thức kinh tế của kinh tế tư bản
nhà nước để phát huy sức mạnh hỡn hợp của tư bản trong và ngoài
nucows với nhà nước về các mặt vốn, công nghệ và tài năng quản lý.
Thứ tư : đẩy mạnh pahan công lao động và hợp tác lao động theo
hướng chun mơn hóa kết hợp da dạng hóa sản xuất kinh daonh, tăng
cườn và phát triển ngành sản xuất phi vật chất, coi trọng lao động trí tuệ.
20


Thứ năm là đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện địa hóa
coi trọng viêc ứng dụng các thành tựu khoa học và cơng nghệ của lồi
người. Dẫn đến đẩy mạnh kinh tế hàng háo phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu và làm tăng khả năng cạnh tranh hàng hóa của nước ta trên
thị trường khu vực và quốc tế.
Thứ sáu là xây dựng và phá triển thị trường hướng ngoại nưng
phải lấy thị trường trong nước làm cơ sở, phải có mặt hàng mũi nhọn có
khả năng cạnh tranh dựa trên cơ sở thế mạnh và lợi thế so sánh. Bởi vì
người ta chỉ nhập khẩu những gì là thế ếu của mình và là thế mạnh của
người khác tức là bán hay xuất cái mà thị trường cần chứ khơng phải cái
mình có.
Thứ bảy là thực hiện chính sách đối ngoại có lơi cho sự phát triển
của kinh tế hàng hóa. Mở rộng quan hệ theo hướng đa dạng hóa về hình
thức, đa phương hóa về nguồn và hai bên cùng có lợi, khơng can thiệp
vào viẹc nội bộ của nhau và không phân biết chế độ chính trị.


21


KẾT LUẬN
Trên đây chúng ta đã nghiên cứu và các thuộc tính của hàng hóa và tính
hai mặt của hàng hóa và những thách thức ta phải đối mặt khi đề cập đến 2 tính
chất của hàng hóa
Điều quan trọng là ta phải nâng cao chất lượng hàng hóa lẫn trình độ lao
động, mức độ lành nghề của cơng nhân nước ta để sản xuất đạt hiệu quả, năng
suất cao.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. LêNin Toàn tập – Tập 23 (NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2005)
2. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 1996-2000 ( )

23



×