Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Chất hài trong bút ký và tạp văn di li

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 110 trang )

MỤC LỤC
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 7
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 8
5. Đóng góp của luận văn ............................................................................... 9
6. Cấu trúc luận văn........................................................................................ 9
CHƯƠNG 1: CHẤT HÀI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO VĂN
CHƯƠNG CỦA DI LI ............................................................................... 10
1.1. Chất hài trong văn chương ................................................................. 10
1.1.1. Chất hài và cái hài...................................................................... 10
1.1.2. Vị trí của chất hài trong sáng tác của Di Li ................................ 14
1.2. Di Li – một hiện tượng trong nguồn mạch văn chương Việt Nam ..... 16
1.2.1. Nhà văn Di Li ............................................................................. 16
1.2.2. Di Li – hiện tượng lạ trong làng văn........................................... 18
1.3. Cảm quan hiện thực hài hước trong các sáng tác của Di Li ................ 21
CHƯƠNG 2: CHẤT HÀI TRONG BÚT KÍ VÀ TẠP VĂN DI LI NHÌN
TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ............................................................. 30
2.1. Chất hài thể hiện qua hệ thống đề tài ................................................. 30
2.1.1. Đề tài hoài ức, kỉ niệm ................................................................ 30
2.1.2. Đề tài văn hóa - xã hội ............................................................... 35
2.1.3. Đề tài du lịch qua những vùng đất mới ....................................... 44
2. Chất hài thể hiện qua hình tượng nhân vật ............................................ 49


2.2.1. Nhân vật trải nghiệm .................................................................. 50
2.2.2. Nhân vật cô đơn.......................................................................... 54


2.2.3. Nhân vật cá tính, “góc cạnh” ..................................................... 58
2.3. Chất hài thể hiện qua cảm quan nghệ thuật ........................................ 62
2.3.1. Chất hài thể hiện qua cảm quan nhân văn .................................. 62
2.3.2. Chất hài thể hiện qua cảm quan triết luận .................................. 64
CHƯƠNG 3: CHẤT HÀI TRONG BÚT KÍ VÀ TẠP VĂN DI LI NHÌN
TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ....................................................... 68
3.1. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện ............................................. 68
3.3.1. Những tình huống bi hài ............................................................. 68
3.1.2. Những tình huống nghịch dị........................................................ 71
3.2. Nghệ thuật xây dựng motip, biểu tượng ............................................. 74
3.2.1. Nghệ thuật xây dựng motip ......................................................... 75
3.2.2. Nghệ thuật xây dựng biểu tượng ................................................. 84
3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu.......................................... 88
3.3.1.Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ...................................................... 88
3.3.2. Nghệ thuật sử dụng giọng điệu ................................................... 94
KẾT LUẬN ............................................................................................... 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (Bản sao)


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cái hài là một hiện tượng thẩm mỹ quan trọng của cuộc sống con
người. Mỗi nền nghệ thuật của mỗi quốc gia có cách khám phá sâu sắc về cái
hài của dân tộc mình. Cái hài xuất hiện trong văn học Việt Nam ngay từ buổi
sơ khai, được thể hiện qua nhiều dạng thức. Tùy hoàn cảnh xã hội mà cái hài
xuất hiện nhiều hay ít trong văn chương. Sau năm 1986, trong hoàn cảnh kinh
tế hội nhập toàn cầu, cái hài dường như phát triển mạnh trong nhiều thể loại
văn học. Đây là một hiện tượng đáng quan tâm, tìm hiểu.

1.2. Di Li là một trong những nhà văn trẻ đầy tiềm năng của văn học
hiện đại Việt Nam. Chị bước vào nghiệp văn chương từ năm 2000 với truyện
ngắn đầu tay Hoa mộc trắng. Đến năm 2006 tác giả được dư luận chú ý vì hai
truyện ngắn được giải là Cocktail và Ma học trị, vài năm sau cơ nổi tiếng với
Trại hoa đỏ đỏ (đoạt Giải Ba cuộc thi viết tiểu thuyết, truyện và ký 20072010 do Bộ Công an phối hợp cùng Hội Nhà văn tổ chức). Cơ góp thêm cho
văn đàn một giọng văn lạ, hiện đại với chất ma mị. Nhưng từ khi dạo bước
chân đầu tiên trên văn đàn đến nay, Di Li luôn ra tác phẩm đều đặn chứng tỏ
sức viết dồi dào. Bây giờ, Di Li đã có một “gia tài” đáng kể phong phú về thể
loại và bước đầu những sáng tác ấy đã gây ấn tượng mạnh trong lòng độc giả.
1.3. Tạp văn, bút kí là loại văn xi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình,
nghị luận, tự sự, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật. Tạp văn thể hiện
đời sống thường chấm phá, khơng nhất thiết địi hỏi có cốt truyện phức tạp,
nhân vật hồn chỉnh nhưng thường có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu và
mang dấu ấn cá nhân. Điều quan trọng của tạp văn chính là cách bộc lộ
quan điểm, tình cảm ý nghĩ mang đậm bản sắc cá tính tác giả. Chất hài
trong tạp văn và bút kí của Di Li là một đề tài thú vị nhưng chưa có nhiều
thành tựu nghiên cứu thỏa đáng. Với tạp văn, bút kí của Di Li, chất hài trở


2
thành một nội dung phản ánh chứa đựng nhiều tầng sâu tư tưởng và cũng là
một phương thức sáng tạo thể hiện tài năng của nhà văn. Nghiên cứu Chất
hài trong bút kí và tạp văn của Di Li chính là để phát hiện bí quyết tạo nên
sự hấp dẫn bạn đọc ở cây bút trẻ này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm gần đây có rất nhiều các bài viết in trên các tạp chí,
báo và internet về các sáng tác của Di Li. Xét trên phương diện nội dung và
nghệ thuật, những sáng tác của chị khá đặc sắc. Nhưng nhìn chung các bài
viết mới dừng lại ở đánh giá, nhận xét về một số tác phẩm tiêu biểu thuộc thể
loại truyện ngắn, tiểu thuyết trinh thám – kinh dị hoặc bàn bạc về một số tạp

văn mà chưa có cái nhìn bao qt về chất hài trong tạp văn và bút kí Di Li. Để
hình dung cụ thể trong phần lịch sử nghiên cứu vấn đề chúng tơi phân chia ra
các nhóm ý kiến dưới đây:
2.1. Hướng tiếp cận về nội dung
Di Li đến với nghề văn như một cái duyên tiền định, chị là người đẹp
viết văn đẹp, là nhà văn nữ với sức viết dồi dào. Những sáng tác của chị khi
mới xuất hiện trên làng văn đã để lại ấn tượng mạnh trong lòng độc giả bởi
chất văn ma mị, huyền hoặc và chứa đầy những bí ẩn. Điều này được nói rõ
trong bài “Khi Di Li xuất hiện” của tác giả Bùi Việt Thắng:
Tơi cho rằng Di Li có thể viết nhiều thể loại, nhưng có lẽ
truyện ngắn là hợp với sở trường sở đoản của Di Li hơn cả…Vậy
truyện ngắn Di Li có gì đặc sắc? Nếu theo quan niệm thơng thường
thì ta sẽ thấy truyện ngắn của cây bút trẻ này khơng gắn gì với cái
gọi là hiện thực - cái hiện thực có thể nhìn thấy, có thể kiểm tra, đối
chiếu, so sánh theo nguyên tắc phản ánh đời sống như bản thân nó
vốn có của chủ nghĩa hiện thực. Dường như khi viết Di Li chỉ tuân
thủ một nguyên tắc duy nhất - bịa đặt. Đọc truyện ngắn Di Li sẽ


3
thấy cây bút trẻ này có một sức tưởng tượng hết sức phong phú,
mãnh liệt. Những câu chuyện được Di Li kể nhiều khi mang màu sắc
ma mị, huyễn hoặc, thường là li kì rắc rối. Nhiều người cho rằng Di Li
giỏi bịa đặt, bản thân tác giả cũng tự nhận là mình khơng thích viết về
những chuyện có thực. Tác giả trẻ này tạo ra một cách viết rất riêng theo cách nói của các nhà lí luận khơng nệ thực [69].
Sau này có rất nhiều những đánh giá, nhận xét về sáng tác của Di Li khi
chị ra mắt tác phẩm. Nhưng nói đến những đánh giá tin cậy có tính quy mơ ta
phải nhắc đến buổi hội thảo ngày 26/6/2009 do Hội Nhà văn tổ chức. Buổi hội
thảo đã ghi nhận nhiều ý kiến giá trị của các nhà văn, nhà phê bình. Nhà phê
bình Văn Giá có ý kiến về tập truyện 7 ngày trên sa mạc, ông cho rằng:

Mối quan tâm lớn nhất của Di Li là hiện thực về một thế giới
thượng lưu thời hiện đại. Đọc Di Li có cảm giác người viết am
tường đời sống, phải có một số ưu thế nhất định nào đó mới có thể
xơng vào vùng hiện thực này được” và ơng cịn cho rằng: “Ở Việt
Nam trước đây và hiện nay chưa có một nhà văn nào lại dành tâm
huyết để quan tâm tới vùng hiện thực này. Di Li là người đầu tiên
cơng phá vào nó... Tơi cho rằng Di Li là người có cơng khai phá
một vùng gần như bỏ trắng trong văn học hiện nay [14].
Cũng chính trong hội thảo này, nhà văn Phạm Ngọc Tiến cho rằng Di Li
là một hiện tượng, bởi văn của chị lạ, đặc biệt là chị biết cách làm mới mình
và lao động nghệ thuật nghiêm túc.
Sau khi ra mắt liên tiếp các tác phẩm ở thể loại truyện ngắn và trinh thám
thì Di Li ra mắt các tác phẩm thuộc thể loại tạp văn, hồi kí và cũng nhận được
nhiều đánh giá, nhận xét tích cực. Với cuốn Chuyện làng văn và Đảo thiên
đường cũng có một số ý kiến khen ngợi. Sau buổi họp báo ra mắt tác phẩm
Chuyện làng văn của nhà văn Di Li diễn ra chiều 27/6/2013 nhà báo Hà An


4
đánh giá: “Viết chân dung khó, viết cho ra chân dung càng là điều chưa bao
giờ dễ. Ấy thế mà, qua hàng chục bài ký và phỏng vấn trong cuốn Chuyện
làng văn, Di Li đã gẩy ra được cái thần và khẩu khí của hơn 50 nhân vật
thuộc giới văn chương” [1]. Cũng nhà báo Hà Linh trong bài “Đảo thiên
đường, những chuyến đi để mang về của Di Li” nhận xét:
Những chuyến đi trong Đảo thiên đường, dù ngắn ngày, tác
giả vẫn có thể mang đến cho người đọc một thiên bút ký tỉ mỉ, chi
tiết và rất giàu thông tin… Không quá tài hoa, nhưng với tầm tri
thức về văn hóa, lịch sử, mỹ thuật, âm nhạc của một người ham
hiểu biết, Di Li đã nắm bắt được những nét gần như đặc sắc nhất
của những miền đất xa lạ [38].

Ngoài ra trên báo Thể thao & Văn hóa ngày 8/3/2013 có giới thiệu cuốn
tạp văn của Di Li Adam & Eva luận bàn về đàn ông, đàn bà, trong đó có trích
một số ý kiến đạo diễn Lê Hoàng, MC Thảo Vân, họa sĩ Thiết Cương, nhà
văn Phan Hồn Nhiên... MC Thảo Vân cho rằng thấy mình trong các câu
chuyện mà Di Li kể và thấy xót thương cho những người có hồn cảnh giống
mình: “Tơi nhìn thấy tôi trong những câu chuyện ấy, và tôi thương cho cả
những người (mà tơi biết là rất nhiều) có hồn cảnh giống tơi. Di Li đã nói
những chuyện mà chúng ta ai cũng thấy, cũng biết, cũng hiểu, nhưng khơng
nói ra như cơ được”. Nhà văn Phan Hồn Nhiên thì đánh giá: “Kiến thức rộng,
vốn sống dày dặn và cái nhìn tinh nhạy đặt trong những trang viết lúc nghiêm
trang, lúc lại tươi trẻ, hóm hỉnh - thế mạnh riêng có của Di Li - hẳn đã hiện
lên trọn vẹn trong tập sách này” [54]. Nhìn chung mọi đánh giá đều cho rằng
tác phẩm của Di Li ln có sự nhạy bén, tinh tế và mang dấu ấn mạnh mẽ của
tác giả.
Hay trong trang bìa của cuốn Nhật kí mùa hạ, nhà văn Đoàn Thạch
Biền, Nguyễn Nhật Ánh cũng có những nhận định xác đáng về văn của Di Li.


5
Nhà văn Đồn Thạch Biền cho rằng: “Nhật kí mùa hạ như một đóa hoa loa
kèn trắng muốt. Hương thơm của hoa sẽ dẫn dắt bạn trở về và sống lại thời
thơ ấu, thuở thanh xuân của bạn. Và bạn chợt nhận ra đấy chính là “mùa hè”
đẹp nhất một đời người”. Còn nhà văn Nguyễn Nhật Ánh khẳng định Nhật kí
mùa hạ của Di li khiến nhà văn “bồi hồi đặt chân vào miền cỏ hoa của tâm
tưởng – một vương quốc xa xăm thoang thoảng mùi long não ủ trong ngăn
kéo của kí ức, lại vừa gần kề như những sớm mai” [29].
Bên cạnh các ý kiến phê bình trong nước, cịn có những nhận xét của
một số nhà nghiên cứu nước ngoài. Nhận xét về The Black Diamond (tập hợp
một số truyện ngắn của Di Li dịch sang tiếng Anh), nhà văn Walter Mason
(Australia), tác giả của best-seller Destination Saigon nói rằng:

Những câu chuyện của Di Li đã phản ánh hình ảnh một Việt
Nam chưa từng được biết đến trong hình dung của người phương
Tây. Thế giới hư cấu của cô cân bằng giữa vẻ tinh tế, gợi cảm,
quyến rũ của sự hiện đại và cả những bóng ma, những nỗi ám ảnh
ln gợi lên trong người đọc một đời sống đương đại đầy khắc
nghiệt. Tôi đã bị mê hoặc bởi những câu chuyện về tình yêu, cuộc
sống và cho rằng bất cứ người nào muốn tìm hiểu về một Việt Nam
ở thế kỷ 21 đều nên đọc Di Li [80].
Còn Charles Waugh, nhà văn Mỹ và đồng thời là giáo sư văn học của
trường Đại học Utah bình luận:
Di Li đã bắt mạch được xã hội Việt Nam. Với một nhận thức
sắc bén về những truyền thống xưa cũ, các câu chuyện của cô đã
phản ánh một cách tỉ mỉ những gì đang diễn ra ở một thế giới hiện
tại bằng phong cách viết điềm tĩnh, lạnh lùng, châm biếm và không
kém phần hồi hộp [80].


6
2.2. Hướng tiếp cận về nghệ thuật
Phương diện được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và có ý kiến thống
nhất đó là thể loại. Các tác giả đều thừa nhận tiểu thuyết trinh thám – kinh dị
chính là sở trường của Di Li cho dù nhà văn đã chạm bút đến nhiều thể loại
khác nhau. Trên Văn nghệ Công an, trong bài Di Li: Người đẹp viết đẹp, tác
giả Nguyễn Văn Thọ cho rằng Di Li là người đầu tiên làm sống dậy thể tài
trinh thám, kinh dị với không khí mới, hiện đại. Hay ở Tạp chí Văn học nghệ
thuật tháng 8 năm 2010 có đăng cuộc phỏng vấn giữa nhà báo Mặc Lâm
(phóng viên đài RFA) trong đó có nhận xét ở phần “giới thiệu”: “Di Li chọn
cho mình một hướng đi khá xa với những cây viết đồng trang lứa. Di Li thử
sức trên mảnh đất ít người dám đặt bút vào, đó là truyện trinh thám và kinh
dị” [28]. Rồi nhà văn Võ Thị Xuân Hà cũng nhận định rằng Di Li là người

khai mở đề tài trinh thám – kinh dị sau nhiều năm đề tài này bị lãng quên.
Ngôn ngữ vốn là một phương tiện rất quan trọng trong việc tìm hiểu một tác
phẩm văn học. Khi tiếp xúc với tác phẩm của Di Li, hầu hết mọi người đều thấy
ngôn ngữ của chị chuyển biến linh hoạt. Ở từng thể loại, tác phẩm của Di Li lại
mang dấu ấn ngôn ngữ khác nhau. Trong bài viết: Di Li từ Tầng thứ nhất đến
Điệu Valse địa ngục, nhà báo quân đội Nguyễn Đình Xuân đã cho rằng:
Di Li viết sâu sắc và tự làm chủ ngịi bút của mình khi khơng
sa vào những chi tiết, mơ tả sự giết chóc hãi hùng. Những truyện có
hơi hướng kinh dị là những truyện đẹp bởi hình ảnh, khung cảnh và
cả nhân vật được Di Li miêu tả bằng những đoạn văn rất hình ảnh
và trau chuốt [79].
Đúng vậy, ngôn ngữ trong các sáng tác của Di Li đầy ma lực, ln thu hút
được độc giả. Chính thứ ngôn ngữ ấy tạo nên một hiện tượng lạ mang tên Di Li.
Về giọng điệu, hầu hết các nhà văn dều cho rằng Di Li có ngịi bút sắc
lạnh, nhưng đâu đó vẫn cịn chút hóm hỉnh, hài hước. Nhà văn Phạm Ngọc


7
Tiến chia sẻ: “Di Li viết rất lạnh, câu chữ khơng có chút rưng rưng nào cả.
Nhưng bản thân câu chuyện rất hấp dẫn” [37] trong hội thảo ngày 26/6/2009.
Hay cái nhìn của nhà thơ Lê Minh Quốc về tác phẩm của Di Li:
Sự khôn ngoan của Di Li là chọn cách viết như cà rỡn, như tếu
táo, như bông lơn nhưng không kém phần nghiêm túc để dẫn dắt
câu chuyện về tâm lý của âm và dương, của nắng và mưa, của nam
và nữ, của Adam và Eva từ chủ đề này sang chủ đề khác, từ chuyện
nọ xọ chuyện kia một cách nhộn nhạo, thân mật để thỉnh thoảng
phá lên những tiếng cười vui vẻ [51].
Bên cạnh những lời khen, các tác giả còn chỉ ra những hạn chế mà Di Li
mắc phải. Nhà văn Trần Thị Trường nhận xét: “Di Li kể nhiều quá, kể nhiều hơn
tả. Điều này khiến độc giả đôi lúc cảm thấy mệt mỏi, đôi lúc không được thư

giãn” [37].
Như vậy, qua các bài nghiên cứu, phê bình nêu trên, chúng tơi nhận thấy
các tác giả đã có những đóng góp nhất định trong việc phát hiện ra một số đặc
sắc trong các sáng tác của Di Li. Nhưng nhìn chung các bài viết mới đi vào tìm
hiểu từng văn bản, từng tập truyện ngắn hoặc tiểu thuyết hoặc chỉ dừng lại ở
một khía cạnh, một mặt nào đó trong sáng tác mà chưa có cơng trình cụ thể nào
đi sâu nghiên cứu chất hài trong tạp văn, bút kí của Di Li. Trên cơ sở tiếp thu
những ý kiến của các tác giả đi trước, chúng tôi mạnh dạn bắt tay vào nghiên
cứu vấn đề này để góp thêm một tiếng nói về vẻ đẹp văn chương Di Li…
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu chất hài trong bút kí và tạp văn của Di Li
qua việc khảo sát các tập bút kí và tạp văn tiêu biểu của tác giả.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi quan tâm đến tất cả các sáng tác của Di Li, nhưng do yêu cầu
của đề tài nên luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu chủ yếu là tạp văn và


8
bút kí của Di Li:
Bút ký:
- Nhật ký mùa hạ, NXB Văn học – 2011
- Cocktail thị thành, NXB Phụ nữ - 2011.
- Đảo thiên đường, NXB Văn học – 2012.
- Nụ hơn Thành Rome, NXB Dân Trí – 2015.
- Và tuyết đã rơi ngoài của sổ, NXB Hội Nhà văn – 2017.
Tạp văn:
- Cocktail thị thành, NXB Phụ nữ - 2011.
- Adam & Eva, NXB Phụ nữ - 2013.
- Thị thành kí, NXB Thế giới – 2015.

- Đàn ơng cũng có điểm G, NXB Phụ nữ - 2017.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tác gia văn học
Phương pháp này chủ yếu giúp chúng ta có một cái nhìn bao qt về đời tư, cá
tính, quan điểm của sáng tác… của nhà văn để từ đó soi chiếu vào trong tác phẩm.
Phương pháp hệ thống - cấu trúc
Chúng tơi quan niệm tạp văn và bút kí của Di Li là một chỉnh thể nghệ
thuật trọn vẹn và mang tính hệ thống. Vì thế khi nghiên cứu tơi đặt nó trong
một hệ thống chung theo một hệ thống chung theo một trật tự nhất định.
Phương pháp phân tích – tổng hợp
Phương pháp này được vận dụng để phận tích các câu văn, đoạn văn, bài văn
có tính chất tiêu biểu và điển hình để minh họa cho các luận điểm của luận văn.
Phương pháp so sánh
Việc sử dụng phương pháp so sánh là để khẳng định nét độc đáo, đặc sắc
của tạp văn và bút kí Di Li trong mối tương quan so sánh với tác giả, tác
phẩm khác. Sử dụng phương pháp này chúng tơi có cơ sở để tìm hiểu, lí giải,


9
xác định rõ những giá trị cũng như đóng góp của tạp văn, bút kí Di Li.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần tìm ra những giá trị của cái hài trong nội dung và
nghệ thuật ở tạp văn và bút kí Di Li, hy vọng khẳng định vẻ đẹp văn chương
Di Li trong trào lưu văn học hiện đại, nhất là sự tiếp nối của cô về mạch ngầm
tạp văn và bút kí hiện nay.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung nghiên
cứu của đề tài được triển khai thành 3 chương như sau:
Chương 1: Chất hài và hành trình sáng tạo văn chương của Di Li.
Chương 2: Chất hài trong bút kí và tạp văn của Di Li nhìn từ phương

diện nội dung.
Chương 3: Chất hài trong bút kí và tạp văn của Di Li nhìn từ phương
thức biểu hiện.


10
Chương 1
CHẤT HÀI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO
VĂN CHƯƠNG CỦA DI LI
1.1. Chất hài trong văn chương
1.1.1. Chất hài và cái hài
Trong văn chương cũng như trong cuộc sống thường ngày, người ta hay
dùng những khái niệm “cái hài”, “chất hài”. Thế nào là cái hài và chất hài?
Chúng là một nghĩa, đồng nghĩa, hay khác nghĩa?
Trước hết ta nói về cái hài. Cái hài là một phạm trù vốn có của đời sống, nó
xuất hiện ở khắp mọi nơi với mn hình vạn trạng khác nhau trong mọi lĩnh vực
của xã hội. Đây là một hiện tượng xã hội được nhiều học giả chú ý và lí giải.
Từ các nhà mỹ học cổ đại Hi Lạp, các nhà triết học cổ điển Đức đến các
nhà văn, nhà tư tưởng Nga cũng tham gia lí giải hiện tượng này. Theo Platon
thì “thiếu hài hước khơng nhận định được cái nghiêm túc…Cái đối lập được
nhận thức nhờ cái đối lập” [25, tr.170]. Ông thừa nhận cái hài xuất phát từ cái
đối lập giữa hai mặt của một sự việc. Còn nhà văn, tư tưởng Nga,
Tsernyshevsky lại cho rằng: “Cái hài là sự trống rỗng và vô nghĩa bên trong
được che đậy bằng một cái vỏ huênh hoang tự cho rằng có nội dung và ý
nghĩa thực sự”. Hầu hết các nhận định trên đều thống nhất rằng: cái hài được
sinh ra từ các mặt đối lập.
Từ điển thuật ngữ văn học khẳng định:
Cái hài là phạm trù mỹ học phản ánh một hiện tượng phổ biến
của thực tế đời sống vốn có khả năng tạo ra tiếng cười ở những cung
bậc và sắc thái khác nhau. Đó là sự mâu thuẫn sự khơng tương xứng

mà người ta có thể cảm nhận được về phương diện xã hội - thẩm mỹ
(chẳng hạn giữa hình thức với nội dung, hành động với tình huống,
mục đích và phương tiện, bản chất và biểu hiện v.v…) [18, tr.29].


11
Trong cuốn Giáo trình mỹ học đại cương PGS. TS Nguyễn Văn Huyên
cũng cho rằng: “Cái hài là một hiện tượng thẩm mỹ khách quan, mang ý
nghĩa xã hội sâu sắc. Đó là những cái xấu đội lốt cái đẹp, bị phát hiện bất
ngờ và gây ra tiếng cười tích cực, phê phán cái xấu dưới ánh sang của một lí
tưởng thẩm mỹ tiến bộ” [25, tr.177].
Như vậy, cái hài là một phạm trù thẩm mỹ của mỹ học, nó là một hiện
tượng được sinh ra từ các mặt của sự đối lập, nó ln gắn với tiếng cười. Tuy
nhiên, không phải bất cứ tiếng cười nào cũng là biểu hiện của cái hài. Cái hài
thường không phải là tiếng cười thiên về bản năng, sinh lí mà là cái cười gồm
có một đối tượng cười (tức cái có thể gây cười và bị cười) và chủ thể cười.
Đặc điểm của cái hài
Cái hài là sự nhận thức. Đặc điểm của nhận thức gắn với tiếng cười là sự
khám phá một số loại mâu thuẫn nào đó trong sự vật, hiện tượng và quan sát
chúng ở một số bình diện khác, từ một phía khác, từ góc độ của cái buồn
cười. Đồng thời, cái hài cũng mang khuynh hướng xã hội, cười cái xấu là dám
tin, dám khẳng định cái đẹp. Cái hài là một hình thức đánh giá, thể hiện trình
độ con người làm chủ đối tượng, làm chủ bản thân mình, là vũ khí phương
tiện để phê phán mặt trái của cuộc sống, để phủ định tất cả những gì xấu xa,
giả dối, lỗi thời. Nó là một hình thức phê phán xã hội đặc biệt, phê phán bằng
cảm xúc đối với những gì đối lập với lý tưởng xã hội.
Cái hài không giống cái buồn cười nên khơng phải mọi tiếng cười đều là
cái hài. Chỉ có tiếng cười nhằm vào đối tượng cụ thể (đối tượng mang mâu
thuẫn), có mục đích và ý nghĩa xã hội sâu sắc mới mang sắc thái của tiếng
cười trong cái hài.

Cái hài trước hết nói đến cái xấu của con người, hoặc con người có điểm
xấu hay nói đến cái xấu thuộc về đạo đức, lối sống, về lí tưởng xã hội thể hiện
ở quan hệ thẩm mỹ. Nó ln gắn với tiếng cười – tiếng cười tích cực.


12
Khơng chỉ gắn với tiếng cười cái hài cịn gắn liền với yếu tố bất ngờ, nó
là “yếu tố riêng biệt biểu thị biên độ sâu và rộng về không gian và thời gian
của cái hài. Thiếu yếu tố bất ngờ thì khơng có có mối liên hệ giữa chủ thể và
đối tượng của cái hài” [25, tr.175]. Cái bất ngờ ln xốy vào điểm yếu của
con người và ln bất ngờ bị vạch trần, bị đánh bại, lúc đó tiếng cười bật lên.
Nếu vấn đề mà cái bất ngờ nêu ra có giá trị nhân loại và văn hóa, cái hài sẽ có
ý nghĩa xã hội sâu và rộng hơn.
Cái cười mang tính hài địi hỏi phải có một đối tượng cười, có nghĩa là
cái có thể gây cười và bị cười. Trong cuộc sống, cái hài rất đa dạng, nó biểu
hiện rất khác nhau nhưng nói chung nó đều là những cái có mâu thuẫn. Có thể
hiểu nó là sự đối lập, khơng cân xứng, khơng hài hịa.
Trong lịch sử mỹ học, các nhà mỹ học thường gắn liền bản chất của cái
hài đối với những đối tượng mang mâu thuẫn, cái hài là kết quả của những
mâu thuẫn và các loại mâu thuẫn này bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố
bất ngờ, mới mẻ để tạo ra kịch tính. Cái hài chính là sự mâu thuẫn giữa cái
bản chất xấu nằm trong vỏ bọc là cái đẹp hay cái máy móc nằm trong cái sinh
động hay sự trống rỗng bên trong lại nằm trong cái vẻ ngoài khoa trương. Tuy
cái hài bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa cái đẹp và cái không phải cái xấu nào
cũng là nguồn gốc của cái hài, chỉ có những cái xấu không đành phận xấu cố
sức làm ra đẹp, tự nó tạo ra mâu thuẫn, đối lập với bản thân nó mới là nguồn
gốc của cái hài.
Cái có thể gây cười cịn lại chính là chủ thể cười. Đây là mặt chủ quan của
cái hài, khơng có nó thì khơng có cái hài. Bản thân đối tượng cười khơng thể
gây cười nếu chủ thể không thể nhận thức được những mâu thuẫn chứa đựng

trong nó. Điều này giải thích tại sao có nhiều người xem tranh biếm họa, tranh
vui, đọc truyện cười mà vẫn không cười, đến lúc hiểu ra thì mới bật cười.
Do vậy, cái hài là một phạm trù thẩm mĩ cơ bản dùng để nhận thức và


13
đánh giá về một loại hiện tượng của đời sống, đó là những cái xấu nhưng lại
cố sức chứng tỏ là đẹp. Khi mâu thuẫn này bị phát hiện đột ngột tạo nên tiếng
cười tích cực, có ý nghĩa phê phán, phủ định cái xấu nhân danh cái đẹp. Tiếng
cười trong cái hài – đó là sự chiến thắng của cái đẹp đối với cái xấu.
Chất hài là gì?
Chất hài là nghệ thuật của trí tuệ - nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Để phát hiện
và cảm nhận cái buồn cười cũng địi hỏi phải có trí tuệ. Biết cười cũng có trí tuệ.
Hài hước là biểu hiện của một sự thỏa hiệp ngầm. Theo H.Bergson: “Dù
ta tin là có tính cách chân thành đến đâu đi nữa, tiếng cười cũng che dấu một
ẩn ý thỏa hiệp, gần như một ẩn ý đồng lõa với những kẻ vui cười khác”.
Chất hài có thể biểu thị bằng biểu tượng, mơ típ, nhưng nó liên quan chặt
chẽ tới các hiện tượng ngơn ngữ, giọng điệu. Vì có những chuyện cười dựa
trên cơ sở logic, ở đó người ta cười vì những tình huống, sự kiện thể hiện một
sự mâu thuẫn, một hiện tượng tức cười nào đó, trong đó, vai trị của ngôn ngữ
trở nên đặc biệt quan trọng. Người ta nhận ra các tình huống, sự kiện tức cười
nhờ có cơng cụ ngơn ngữ.
Một câu chuyện có chất hài phải đảm bảo được những yếu tố gần như
đặc điểm của cái hài. Tức là tiếng cười nhằm vào một đối tượng cụ thể, cái
cười có ý nghĩa xã hội; có tính bất ngờ; thú vị (hấp dẫn, kích thích sự hiếu kì);
tính hợp lí; có yếu tố trí tuệ; có tính mới lạ.
Vậy, về bản chất cái hài và chất hài là giống nhau. Chất hài nghiêng về
tư duy. Cái hài là hình thức biểu hiện bên ngồi.Tuy nhiên chúng khác nhau
về cấp độ biểu hiện. Cái hài có 3 cấp độ: hài hước, châm biếm, đả kích. Chất
hài nghiêng về hài hước, châm biếm nhẹ nhàng, không đao to búa lớn đến

mức đả kích, phê phán, phủ định quyết liệt sự vật và hiện tượng.
Như vậy, cái hài hay chất hài là rất cần thiết trong cuộc sống nói chung và
trong văn học nói riêng. Thơng qua sự hài hước, nhà văn có thể bộc lộ những


14
quan điểm, những ý kiến tích cực, góp phần điều chỉnh những lệch chuẩn, lệch
pha của con người bằng tiếng cười nhẹ nhàng nhưng mang tính nhân văn.
1.1.2. Vị trí của chất hài trong sáng tác của Di Li
Trước nay, văn học thế giới đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm của
các bậc thầy hài hước. Đưa nụ cười vào văn chương, tạo niềm vui cho bạn
đọc đã có từ những vở kịch của Moliere (Pháp), Azit Neshin (Thổ Nhĩ
Kì)…Và ở nước ta, cái hài như một yếu tố khơng thể thiếu, nó xuất phát từ
tiếu lâm, ca dao, tục ngữ, Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, hề chèo, hề tuồng… rồi
đến Hồ Xuân Hương, là Nguyễn Khuyến, nhất là Tú Xương, Ba Giai Tú
Xuất…một vệt cười lớn trong truyền thống văn học và văn hóa Việt Nam.
Đến văn học Việt Nam hiện đại, ta lại bắt gặp những tràng cười của
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tú Mỡ, Đồ Phồn, Lý Toét, Xã Xệ trong
Tự Lực Văn Đoàn…những tiếng cười mang đậm dấu ấn xã hội đương thời.
Và trên cái nền tảng cười của văn học dân tộc, Di Li cũng mang chất hài
vào văn chương ở các thể loại truyện ngắn, tản văn và bút kí. Tuy nhiên, chất
hài trong sáng tác của Di Li không phải mỉa mai châm biếm hay đả kích mà
đó là sự hài hước, dí dỏm, giễu cợt nhẹ nhàng.
Ở thể loại truyện ngắn của Di Li, người đọc hay bắt gặp các nhan đề,
kiểu tên nhân vật, cách gọi sự vật một cách hài hước, hóm hỉnh. Ta bắt gặp
các nhan đề như: Mối tình Khoai tây, Đồ mọt sách…rồi tên nhân vật : “Hột
cơm”, “Khoai tây Dễ thương”, “Khoai tây Trung Quốc”, “Cheocheo”, “Sếp
lớn”, “Sếp bé”, “Sếp út”… Cách đặt tên nhân vật, sự vật trong truyện ngắn Di
Li bên cạnh mục đích cho người đọc cái nhìn khái qt về nhân vật, nó cịn có
mục đích tạo sự hóm hỉnh, hài hước. Có thể kể đến những cái tên: con tàu

“Mũi tên trên đại dương” trong Hai người trên hoang đảo; “Hội Võ lâm
truyền kỳ”, “Hội sưu tầm xe đạp cổ”, “Hội xài hàng Mango”, “Hội những
người sợ lông mèo”, “Hội những người khơng thích rửa bát”, “Hội sưu tầm


15
bánh xe đã cũ”, “Hội thảo Khoai tây”, “Diễn đàn Khoai tây” trong Mối tình
khoai tây, cửa hàng hoa “Nhanh một phút” trong Điện hoa. Đỉnh cao của tính
hài hước trong việc đặt tên sự vật của Di Li là một loạt tên bó hoa đặt theo tên
bài hát: “Chân tình”, “Người u dấu”, “Người tình mùa đơng”, “Con u”,
“Mẹ yêu”, “Trái tim bên lề”…Bên cạnh cách đặt tên nhan đề, nhân vật hay
cách gọi sự vật Di Li còn tạo ra nhưng mâu thuẫn tiềm ẩn bên trong từng câu
chuyện. Chính cái cách cơ tạo ra mâu thuẫn bên trong mỗi tác phẩm là cơ sở
khiến bạn đọc bật cười.
Nếu tiếng cười trong truyện ngắn Di Li được tạo nên bởi cách gọi tên độc
đáo, các mâu thuẫn tiềm ẩn thì ở bút kí, tạp văn lại có tiếng cười thật khác.
Trong Thị thành ký gồm 28 câu chuyện thể hiện cái nhìn của tác giả về
những buồn vui, thậm chí bi hài của nhiều vấn đề trong cuộc sống đương đại. Mỗi
câu chuyện của cô ngồn ngộn những tư liệu, từ chuyện của bạn bè, đồng nghiệp
trong nước, đến chuyện bên đất Mỹ xa xôi… Nhưng tất cả chúng lại được kết nối
với nhau bởi trải nghiệm, nhận định của tác giả. Chính bởi cái chân thật, cái hài
hước nhẹ nhàng trong từng câu văn làm cho người đọc thấy thích thú.
Hay trong cuốn Gã Tây kia sao lấy được vợ Việt, Di Li tiếp tục được
nhiều nhà phê bình tán dương, được nhiều bạn đọc săn đón. Cuốn sách là 25
câu chuyện viết một cách dí dỏm mà cũng thú vị, sâu cay về hơn nhân, tình
u, gia đình, nữ quyền… Đây là những vấn đề rất nhạy cảm, nếu không chắc
tay sẽ gây ra những làn sóng trái chiều, song Di Li rất khéo léo đưa tiếng cười
nhẹ nhàng vào làm mọi thứ trở nên nhẹ nhàng bởi những lời phê bình, góp ý
bằng tiếng cười sẽ khiến người ta dễ tiếp thu và nhớ lâu hơn.
Di Li đã dùng sự thấu hiểu và cách diễn đạt hóm hỉnh của mình để người đọc

thay đổi. Sự chân thành khiến cho nhiều vấn đề được viết với giọng châm biếm
nhưng khơng hề có sự cay độc, ngược lại chỉ thấy tình cảm thiết tha của cơ dành
cho mọi người. Những câu chuyện trong tản văn, bút kí luôn trẻ trung, văn phong


16
trong sáng khác hoàn toàn với giọng văn lạnh lùng của Di Li ở các tiểu thuyết
trinh thám, khác với giọng văn thông minh, sắc sảo trong các truyện ngắn.
Như vậy, dù ở thể loại truyện ngắn, hay tạp văn, bút kí, nữ nhà văn ln
mang được tiếng cười vào trong tác phẩm. Chất hài này đã làm những trang
sách của cô trở nên sinh động, vui vẻ và nhẹ nhàng. Đối với thể loại truyện
ngắn, tiếng cười chính là nút mở khiến bạn đọc thích thú, làm cho câu chuyện
vỡ òa bởi các yếu tố bất ngờ. Còn trong tản văn, bút kí, chất hài ấy là chất xúc
tác làm bạn đọc thấu hiểu các vấn đề xã hội. Nhiều vấn đề phức tạp đều được
chất hài ấy làm đơn giản. Chính vậy, tạp văn, bút kí của Di Li ln được độc
giả ngóng trơng, chờ đón.
1.2. Di Li – một hiện tượng trong nguồn mạch văn chương Việt Nam
1.2.1. Nhà văn Di Li
Di Li tên thật là Nguyễn Diệu Linh - nữ nhà văn với nhiều cuốn sách bestseller của Việt Nam. Chị sinh ngày 3/9/1978 tại Hà Nội. Từ năm 2000 đến nay,
chị là giảng viên văn hóa Anh - Mỹ, trường Cao đẳng Thương mại & Du lịch Hà
Nội, giảng viên PR của trường ĐH Hoà Bình, Hà Nội và chuyên viên tư vấn
quảng cáo & PR, MC. Ngồi ra, Di Li cịn tham gia viết văn, viết báo và dịch
thuật. Chị trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ 2010), hội viên Hội Nhà
văn Hà Nội (từ 2011), hội viên Hội Nhà văn Châu Á- Thái Bình Dương (từ
2012).
Giới nhà văn nhà báo hiện tại đều dành cho Di Li những lời có cánh như:
Đàn bà đẹp viết truyện kinh dị; “Kiều nữ” Di Li, hiện tượng lạ trong làng
văn; Di Li-Cô gái “kinh dị”; Di Li: Người đẹp đa tài; Nhà văn Di Li-đa đoan
nhàn hạ; Di Li-Người đẹp…kinh dị!; Người đẹp trong làng văn Việt…
Tác phẩm đã in:

- Truyện ngắn: Cocktail, Ma học trò, Tầng thứ nhất (NXB Hội nhà văn
- 2007), Điệu Valse địa ngục (NXB Hội nhà văn - 2007), 7 ngày trên sa mạc


17
(NXB Văn học - 2009), Tháp Babel trên đỉnh thác Ánh trăng (NXB Văn học
- 2010), Đơi khi tình u vẫn hay đi lạc đường (NXB Phụ nữ - 2010), Chiếc
gương đồng (NXB Phụ nữ - 2010), San hô đỏ (NXB Văn học - 2012).
- Tiểu thuyết: Trại hoa đỏ (NXB Công an Nhân dân - 2009), Câu lạc bộ
số 7 (NXB Lao động – 2016)
- Bút ký: Đảo thiên đường (NXB Công an Nhân dân - 2009).
- Hồi ký: Nhật ký mùa hạ (NXB Văn học - 2011).
- Ký sự chân dung: Chuyện làng văn (NXB Văn học - 2012).
- Tản văn: Cocktail thị thành (NXB Phụ nữ - 2011), Adam & Eva
(2013), Gã Tây kia sao lấy được vợ Việt (NXB Phụ Nữ - 2015).
- Sách chuyên ngành: Giáo trình Tiếng Anh chuyên ngành Thương mại
(NXB Hà Nội - 2007), Giáo trình Kỹ năng viết trong quan hệ cơng chúng
(NXB Dân trí - 2011), Tơi PR cho PR (NXB Văn hóa Thơng tin - 2013).
- Truyện dịch sang tiếng Anh: The Black Diamond (NXB Thế giới - 2012)
- Truyện dịch: Người yêu dấu (Tiểu thuyết - Tác giả Sara Zarr, Mỹ) - 2008,
Người làm chứng (Tiểu thuyết - Tác giả Tami Hoag, Mỹ) - 2009, Giết người
đưa thư (Tiểu thuyết - Tác giả Tami Hoag, Mỹ) - 2009, Bóng đêm bao trùm
(Tập truyện ngắn thế giới) - 2009, Rừng Răng-Tay (Tiểu thuyết - Tác giả Carrie
Ryan, Mỹ) - 2010, Tàn tích (Tiểu thuyết – Tác giả Scott Smith, Mỹ)- 2012, Xác
chết dưới nước (Tiểu thuyết - Tác giả Patricia Cornwell, Mỹ) - 2012.
Trong những sáng tác trên, chị đã đạt giải Ba cuộc thi viết tiểu thuyết,
truyện và ký về đề tài “Vì an ninh tổ quốc và bình n cuộc sống 2007 - 2010”
do Bộ Cơng an phối hợp cùng Hội Nhà văn tổ chức - tiểu thuyết Trại hoa đỏ, giải
Ba cuộc thi viết “Hà Nội trong tôi” do báo Kinh tế & Đô thị và Hội Liên hiệp
Văn học Nghệ thuật Hà Nội tổ chức và giải Ba cuộc thi truyện ngắn Tạp chí Văn

nghệ Quân đội năm 2005-2006 - Truyện ngắn Cocktail và Ma học trò.
Đến nay, Di Li đã ra mắt 28 đầu sách bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn,


18
tản văn, bút ký, sách chuyên ngành và sách dịch. Chị đã ra mắt 3 tác phẩm trinh
thám – kinh dị mang tên Trại Hoa Đỏ (2007) và Câu lạc bộ số 7 (2016). Đặc
biệt, tiểu thuyết Trại hoa đỏ đã được tái bản 4 lần. Những tác phẩm của chị đã
phần nào lột tả hết hiện thực đời sống, đồng thời nó cịn phần nào cho bạn đọc
thấy được cuộc sống của người phụ nữ xinh đẹp tài năng này.
1.2.2. Di Li – hiện tượng lạ trong làng văn
Trong dòng văn học hiện đại, Di Li xuất hiện và trở thành một hiện
tượng văn học “hot” và có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam hiện đại. Di
Li xứng đáng là một hiện tượng lạ trong làng văn.
Những cuốn sách của chị làm cho thị trường văn học nóng lên, ln
trong tình trạng “cháy sách”. Với lối viết ma mị, chị đã dấn thân vào nhiều thể
loại như: truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký, hồi ký, ký sự chân dung, tạp văn…
Hầu hết các cuốn sách của chị ở các thể loại này đều là những best – seller.
Ở năm 2007, Di Li trình làng tác phẩm Tầng thứ nhất và Điệu Valse địa
ngục với lối viết huyền hoặc, ma mị có phần ma quái khiến người đọc thích
thú. Đến năm 2009, lúc này Di Li thật sự đóng một dấu mốc quan trong, tạo
chỗ đứng vững chắc cho mình trên văn đàn văn học Việt Nam với tác phẩm
Trại hoa đỏ. Cuốn sách được tặng giải Ba trong cuộc thi tiểu thuyết 2007 –
2010 do Bộ công an tổ chức. Trại hoa đỏ khiến người đọc bị thơi thúc, bị lạc
lối vào mê lộ, rồi ln ngóng trông chờ đợi, luôn hi vọng rồi lại tuyệt vọng
khi khơng đốn được kết thúc của tiểu thuyết. Sau đó là hàng loạt các cuốn
sách khác cũng “cháy hàng” như: 7 ngày trên sa mạc, Đảo thiên đường hay
Adam & Eva. Nếu Trại hoa đỏ là câu chuyện được Di Li đưa vào mê cung
khiến bạn đọc lạc lối, thì những cuốn sách sau này đưa bạn đọc chu du khắp
thế gian. Ở Đảo thiên đường người đọc được Di Li trò chuyện, trao đổi, rồi

truyền lại những kinh nghiệm quý báu khi đi du lịch của chị. Có người đã
từng khuyên nếu bạn muốn đi nước ngoài hãy đọc Đảo thiên đường vì nó có


19
tất cả những thứ bạn cần cho một chuyến đi. Hay ở Adam & Eva bạn đọc
được tiếp cận vấn đề bình đẳng giới một cách hài hước, dí dỏm. Tuy nhẹ
nhàng nhưng tác phẩm để lại ấn tượng mạnh trong lịng bạn đọc.
Nếu chỉ có những cuốn sách best – seller, Di Li chưa thể trở thành một
hiện tượng lạ của làng văn. Điều khiến Di Li trở nên đặc biệt chính là cách chị
dấn thân đến một thể tài mà trước đây dường như đã đi vào quên lãng – truyện
ngắn và tiểu thuyết trinh thám. Chị được coi là người hồi sinh cho thể tài trinh
thám và là người phát triển tiểu thuyết trinh thám kinh dị ở một tầm cao hơn.
Văn học trinh thám theo thời gian đã giành được một vị trí vững chắc
khơng thể thiếu trong nền văn học phương Tây, đặc biệt là Anh, Pháp, Đức,
Thụy Điển, Nga, Mỹ… Ở châu Á, văn học trinh thám tuy không phát triển
bằng nhưng ngày càng có nhiều tác giả tạo được trụ cột vững chắc cho thể
loại này. Ở những năm đầu thế kỷ 21 như Lôi Mễ, Tang Thượng, Chu Hạo
Huy (Trung Quốc), Jeong You Jeong (Hàn Quốc), Higashino Keigo, Yoshida
Shuichi (Nhật Bản)… Tuy nhiên, ở Việt Nam tiểu thuyết trinh thám hầu như
giẫm chân tại chỗ. Trải qua gần một thế kỷ, từ những tập truyện đầu tiên của
Phạm Cao Củng theo trường phái của thám tử Sherlock Holmes cho đến Gói
thuốc lá của Thế Lữ, trinh thám gần như đã dừng lại ở thời điểm 1945. Sau
năm 1975, đất nước thống nhất, văn học trinh thám lúc này vẫn mang đậm hơi
hướng chiến tranh dưới tên gọi tình báo – phản gián tiếp tục có cơ hội phát
triển. Đó là X30 phá lưới của Đặng Thanh, bộ tiểu thuyết Ván bài lật ngửa
của tác giả Nguyễn Trường Thiên Lý (bút danh của nhà văn Trần Bạch
Đằng), tác phẩm đã chinh phục được người đọc, nhận được đông đảo sự ủng
hộ của người hâm mộ đương thời. Sau đó cịn một số nhà văn khác có viết
truyện phản gián, tình báo như Nguyễn Sơn Tùng, Lê Chấn,Thiết Vũ, Lê Tri

Kỷ, Hữu Mai, Đặng Trần Thiết, v.v..…nhưng cũng ít tiếng vang. Sang đầu
thế kỷ XXI, Di Li là tác giả đương đại đầu tiên tiếp nối truyền thống hiếm hoi
này với hai cuốn tiểu thuyết Trại Hoa Đỏ và Câu lạc bộ số 7.


20
Để có thể viết được những tiểu thuyết trinh thám được sự đánh giá cao của
dư luận, Di Li phải tự rèn thói quen tư duy thốt khỏi motip thơng thường, thực
sự nhập tâm vào nhân vật, tình tiết vụ án, cơ cịn đầu tư rất nhiều thời gian,
cơng sức cho việc tìm kiếm tư liệu để tiểu thuyết của mình phù hợp với bối
cảnh Việt Nam. Ngồi ra chị đã phải tìm hiểu hàng trăm cuốn sách về tâm lý
học tội phạm, luật hình sự, giám định pháp y và cả các tác phẩm trinh thám nổi
tiếng trên thế giới. Di Li cũng đồng thời tận dụng lợi thế ngơn ngữ của mình để
tham gia các diễn đàn nước ngồi với mục đích tìm kiếm thơng tin, nâng cao
chất lượng ngòi bút trong thể loại này.
Những tác phẩm của Di Li mang lại những dấu ấn khác nhau trong lịng
độc giả. Tuy khơng gay cấn như tiểu thuyết trinh thám Pháp, cũng chưa hồi hộp
như trính thám Mỹ, nhưng tiểu thuyết trinh thám của Di Li là những hiện thực
gần gũi trong đời sống người dân Việt Nam. Những trang sách của chị phản ánh
từ hiện thực và luôn bám sát vào logic trong cuộc sống. Mục đích Di Li muốn
mang đến cho tác phẩm của mình là tìm ra ý nghĩa nhân bản trong từng vụ án,
tập trung vào lý giải hành động của hung thủ, phân tích tâm lý hành vi bởi văn
chương cuối cùng cũng tìm về với bản ngã của con người. Do vậy, độc giả có
thể tìm thấy sự gần gũi, dễ hiểu khi theo dõi tác phẩm của nữ nhà văn.
Tuy dòng văn học trinh thám Việt đang phải đương đầu với những khó
khăn khi chưa được phần đơng độc giả tiếp nhận và u thích, song nhà văn
Di Li vẫn ln kỳ vọng nền văn chương đương đại Việt Nam sẽ ngày càng có
thêm nhiều cây bút trinh thám sắc sảo, đưa loại hình này tới gần hơn với cơng
chúng. Di Li từ chỗ dũng cảm khai phá một con đường mới, chị đã tạo dựng
được cho mình chỗ đứng vững chắc trên mảnh đất trinh thám. Sau tất cả

những li kì, thật giả đan cài, sự trân trọng những giá trị chân thật của cuộc
sống luôn là điều đọng lại cuối cùng qua hai cuốn tiểu thuyết, với khát vọng
đẩy lui những mảng tối của tham vọng, của thù hận, luôn hướng thiện để có


21
cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thêm một lí do để khẳng định Di Li là một hiện tượng nổi của làng văn.
Những sáng tác của cô bàn khá rộng, khá sâu vào những vấn đề rất mới của
xã hội hiện đại. Đó là những chuyện về giới trẻ đang có lối sống lệch chuẩn,
bỏ qua đạo lý truyền thống, bỏ qua sự quan tâm của các bậc cha, mẹ hiện nay.
Một điều khác khá thú vị được Di Li lưu ý đến là những tác động của công
nghệ tiên tiến vào đời sống con người. Không chỉ trẻ em suốt ngày say mê
game, mà ngay cả những người lớn cũng bị các trò chơi trên mạng cuốn hút,
làm cho mụ mị. Rồi hàng loạt các vấn đề khác được chị thể hiện trên trang
giấy một cách nhẹ nhàng nhưng rất sâu sắc. Đọc những trang sách của Di Li,
bạn đọc đâu đó bắt gặp bản thân, gia đình, mơi trường làm việc hay những
người bạn của mình. Các nhân vật chính là tấm gương phản chiếu rõ hiện
thực cuộc sống của con người hiện đại. Di Li đã “kể” cho chúng ta những câu
chuyện thường nhật của đời sống hàng ngày. Tuy không thể luồn sâu vào từng
ngõ ngách nhỏ nhưng nhờ các tác phẩm của chị, chúng ta phần nào thấy được
hình ảnh của xã hội Việt Nam hiện nay.
1.3. Cảm quan hiện thực hài hước trong các sáng tác của Di Li
Như chúng ta đã biết, văn học luôn luôn phản ánh hiện thực, đưa diện
mạo của cuộc sống vào trong trang văn. Tuy nhiên, hiện thực trên mỗi trang
sách của nhà văn lại khác nhau bởi cuộc sống được nhìn qua lăng kính của
người nghệ sĩ. Có cùng một hiện thực, nhưng mỗi nhà văn lại mang đến cho
bạn đọc cách cảm nhận khác.
Nhà văn Di Li, cũng đưa hiện thực cuộc sống vào trong trang văn. Ấn
tượng đời sống đối với Di Li lúc nào cũng quan trọng, nó giúp chị có những

cuốn tạp văn, bút kí chân thực, và đầy sức hút. Ngoài ra những ấn tượng đó
cịn giúp Di Li thỏa sức tưởng tượng, tao ra một thế giới khác trong những
cuốn tiểu thuyết trinh thám. Tuy nhiên, với đời sống thị dân hiện đại ở thế kỷ


22
XXI, Di Li lại nhìn nó bằng cảm quan hài hước, có chút phê phán ngầm. Điều
đó đặc biệt thấy rõ trong các trang truyện ngắn, tạp văn và bút kí.
Khi tiếp xúc với truyện ngắn của Di Li, ta sẽ bắt gặp các câu chuyện thuộc
thể loại trinh thám và các câu chuyện về cuộc sống đời thường. Với các tác
phẩm của thể loại trinh thám, chị dùng giọng văn sắc lạnh, ma mị, rất cuốn hút
bạn đọc, đưa bạn đọc từ mê cung này tới mê cung khác. Bên cạnh giọng văn
sắc lạnh, Di Li cịn có giọng văn hài hước khi nói đến hiện thực đời sống vốn
có của xã hội hiện nay. Những câu chuyện về nhân phẩm con người, về hơn
nhân, tình u… được Di Li nhìn một cách rất hài hước, dí dỏm.
Ở Hai người trên hoang đảo, Di Li đã nhìn nhân phẩm con người một
cách chân thật mà hài hước. Câu chuyện xây dựng dựa trên tình huống một
nam nhân và nữ nhân lạc trên một hoang đảo. Hai người đã trải qua những
ngày tháng vất vả cho đến ngày trở về đất liền. Ban đầu, theo sự tưởng tượng
của các bạn trẻ đây sẽ là chất xúc tác tạo nên một tình yêu lãng mạn, nồng nàn,
say đắm. Nhưng theo cách nhìn, cách cảm của Di Li thì hồn tồn ngược lại.
Ở trên đảo hoang, để sinh tồn, con người phải bất chấp tất cả, phải từ bỏ
những phẩm chất lịch thiệp của thế giới văn minh, thay vào đó là sự ích kỉ,
nhỏ nhen, là chiếm đoạt đơi khi phải dung đến vũ lực để đạt được thứ mình
muốn. Hai nhân vật chính đã thương lượng mua bán thực phẩm, khâu vá, sửa
lều trại, hàng rào cho nhau… Tất cả đều được tính tốn sao cho có lợi nhất.
Mâu thuẫn giữa nam chính và nữ chính khơng thể cứu vẫn chính là khi cả hai
đều phát hiện ra chiếc xuồng cao su dạt vào đảo. Cả hai đều muốn mình có
được chiếc xuồng. Cuối cùng, họ cầm vũ khí tấn công nhau bởi cái suy nghĩ
nhỏ nhen, sợ đối phương chiếm đoạt chiếc xuồng làm của riêng. Mọi việc chỉ

được giải quyết khi hai vị thuyền trưởng của hai con tàu San Hô Đen, Mũi
Tên Trên Đại Dương cập đảo hoang để tránh bão. Nam chính và nữ chính hân
hoan lên tàu. Câu chuyện tám tháng trôi dạt trên đảo hoang kết thúc khơng có


23
tình yêu khi cả hai đều hạnh phúc tột cùng khi được tách khỏi nhau.
Bạn đọc sẽ bật cười khi tiếp xúc những trang văn miêu tả cái ích kỉ của
hai nhân vật, cũng thở phào nhẹ nhõm khi họ khơng về chung một nhà. Quả
thật, tình u khơng thể đẹp khi ta sống trong hồn cảnh khó khăn. Sau khi
đọc câu chuyện của Di Li, bạn đọc mỉm cười nhẹ nhàng vì nhận ra đâu đó bản
thân bởi đơi khi ta cũng nhỏ nhen. Di Li truyền tải một thơng điệp nhẹ nhàng
bằng sự dí dỏm khiến chúng ta khơng thể khơng thấy thú vị.
Khác với câu chuyện tình chưa bắt đầu đã kết thúc của hai nhân vật chính
trong Hai người trên hoang đảo, Pizza chiều thứ sáu là câu chuyện tình u
của một đơi sinh viên muốn tận hưởng những tháng ngày sống thử ngọt ngào.
Nhưng đời không như mơ, công việc đã chiếm hết thời gian của họ, sẽ khơng
có những bữa cơm ăn chung mà chỉ là thức ăn nhanh – đó là Pizza. Ăn mãi
thay cơm, Pizza trở thành nỗi ám ảnh của chàng trai trong khi cơ gái vẫn hào
hứng, thích thú. Đỉnh điểm, cao trào của xung đột khi chỉ vì hai phiếu khuyến
mãi dùng pizza mà nàng phủ nhận mối tình của hai người. Vậy là cái mộng căn
nhà nhỏ đầy tình u vỡ tan, giải thốt chàng trai với những chiếc bánh pizza
chán ngấy để về với mái nhà có căn bếp ấm cúng của mẹ “với những đĩa cá
quả chiên vàng ruộm, bát canh rau muống dầm sấu chua tê đầu lưỡi, liễn thịt
kho dừa thơm ngậy, và những quả cả pháo giịn tan”.
Đâu đó trong cuộc sống ta vẫn bắt gặp những câu chuyện như trên,
nhưng ta nhìn nó rất màu hồng, tình u sẽ làm mọi thứ trở nên dễ dàng.
Những bước chân vào cuộc sống hôn nhân ta mới thấy khó khan, mới thấy
màu hồng chỉ là tưởng tượng. Di Li đã rất khéo léo đưa câu chuyện muôn thở
của sinh viên vào trang văn, đưa một lời khuyên sâu sắc qua giọng văn bông

lơn khiến bạn đọc phải suy nghĩ. Qua câu chuyện của Di Li, thiết nghĩ, chúng
ta chỉ nên tiến tới hôn nhân khi đã thực sự trưởng thành.
Bên cạnh vấn đề sống thử, nữ nhà văn còn hướng ngòi bút đến vấn đề


×