Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Luận văn Thạc sĩ Tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn và Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn lý thuyết cổ mẫu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (972.06 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM VĂN DỰ

TIỂU THUYẾT MẪU THƯỢNG NGÀN
VÀ ĐỘI GẠO LÊN CHÙA CỦA NGUYỄN XN KHÁNH
TỪ GĨC NHÌN LÝ THUYẾT CỔ MẪU

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

THÁI NGUN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM VĂN DỰ

TIỂU THUYẾT MẪU THƯỢNG NGÀN
VÀ ĐỘI GẠO LÊN CHÙA CỦA NGUYỄN XN KHÁNH
TỪ GĨC NHÌN LÝ THUYẾT CỔ MẪU
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSKH. Bùi Mạnh Nhị


THÁI NGUYÊN - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn và Đội gạo
lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn lý thuyết cổ mẫu” là kết quả
nghiên cứu của riêng tơi, hồn tồn khơng sao chép của bất cứ ai. Các kết quả
của đề tài là trung thực và chưa được công bố ở các công trình khác.
Nội dung luận văn có sử dụng tài liệu, thơng tin được đăng tải trên các tác
phẩm, tạp chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.
Nếu sai tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Thái Nguyên, tháng 7 năm 2018
Tác giả luận văn

Phạm Văn Dự

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài luận văn, ngoài sự cố gắng và nỗi lực của bản thân,
tôi nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy cơ, gia đình và bạn bè. Tơi xin gửi
lời cảm ơn chân thành đến:
- Thầy giáo PGS. TSKH Bùi Mạnh Nhị đã hướng dẫn tận tình, đầy đủ, chu
đáo và đầy tinh thần tâm huyết trong tồn bộ q trình hồn thành luận văn.
- Q thầy cơ khoa Ngữ văn và Phịng Sau Đại học, Trường Đại học sư
phạm, Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em
thực hiện đề tài luận văn này.
- Gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên và nhiệt tình giúp đỡ em
trong suốt thời gian hồn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 7 năm 2018
Tác giả luận văn

Phạm Văn Dự

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. ii
MỤC LỤC .................................................................................................................. iii
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 4
4. Lịch sử vấn đề .......................................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 5
6. Đóng góp của luận văn............................................................................................ 5
7. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 6
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 7
Chương 1. SƠ LƯỢC VỀ VIỆC NGHIÊN CỨU VĂN HỌC TỪ LÝ
THUYẾT CỔ MẪU ..................................................................................... 7
1.1.

Tổng quan về tình hình nghiên cứu văn học từ lý thuyết cổ mẫu ............... 7

1.1.1. Nghiên cứu phê bình văn học trên thế giới từ góc nhìn lý thuyết cổ mẫu .... 7
1.1.2. Tình hình nghiên cứu phê bình văn học ở Việt Nam từ góc nhìn
lý thuyết cổ mẫu ......................................................................................... 13

1.2.

Lý thuyết cổ mẫu .......................................................................................... 16

1.2.1. Định nghĩa cổ mẫu ....................................................................................... 16
1.2.2. Các tính chất của cổ mẫu ............................................................................. 20
1.2.3. Phân loại cổ mẫu .......................................................................................... 21
1.2.4. Giá trị của cổ mẫu......................................................................................... 23
1.3.

Phương pháp tìm và phân tích cổ mẫu trong văn học ................................ 24

Tiểu kết chương 1 ...................................................................................................... 27
iii


Chương 2. TIỂU THUYẾT MẪU THƯỢNG NGÀN, ĐỘI GẠO LÊN CHÙA
VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TỪ LÝ THUYẾT CỔ MẪU ..................... 28
2.1.

Về nhà văn Nguyễn Xuân Khánh .......................................................... 28

2.2.

Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh ........................................ 30

2.3.

Tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn, Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân
Khánh trong tiến trình đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam từ sau năm 1986. .. 34


2.4.

Các hướng vận dụng lý thuyết cổ mẫu và tiếp cận Mẫu thượng ngàn,
Đội gạo lên chùa từ góc nhìn cổ mẫu ......................................................... 40

Tiểu kết chương 2 ...................................................................................................... 42
Chương 3. TIẾP CẬN MẪU THƯỢNG NGÀN VÀ ĐỘI GẠO LÊN CHÙA
TỪ LÝ THUYẾT CỔ MẪU ..................................................................... 43
3.1.

Cổ mẫu Đạo Mẫu ......................................................................................... 43

3.2.

Cổ mẫu ông Đùng bà Đà.............................................................................. 56

3.3.

Cổ mẫu rừng ................................................................................................. 66

3.4.

Cổ mẫu cây đa .............................................................................................. 71

3.5.

Cổ mẫu rắn .................................................................................................... 74

3.6.


Cổ mẫu tiếng đàn, tiếng hát ......................................................................... 80

Tiểu kết chương 3 ...................................................................................................... 89
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................. 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 92

iv


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nghiên cứu văn học ở nước ta đang trong quá trình đổi mới bằng nội lực
và sự giao lưu với các xu hướng lí thuyết nghiên cứu văn học trên thế giới. Giới
nghiên cứu văn học Việt Nam đang cố gắng tiếp cận những cái mới, tiến bộ,
tìm hiểu những cái thích hợp để vận dụng vào thực tiễn nghiên cứu văn học
nước nhà. Lý thuyết cổ mẫu là một trong những hướng nghiên cứu mới của nghiên
cứu văn học thế giới, nhất là trong thế kỉ XX, đặc biệt là từ thế thế kỉ XXI đến nay.
Trong dòng chảy bộn bề của văn xuôi Việt Nam từ sau năm 1986, xu
hướng văn học khai thác đề tài lịch sử và văn hóa phong tục của đất nước ngày
càng rõ. Trong đó, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh là một hiện tượng văn học “lạ”
của văn học đương đại. Nguyễn Xuân Khánh chỉ thực sự thành danh khi đã bước
vào tuổi “thất thập cổ lai hi”. Các giải thưởng văn học những năm qua đều vinh
danh ông. Trong khi nhiều nhà văn cố gắng làm mới tác phẩm của mình bằng
nhiều cách tiếp cận cuộc sống và những vấn đề khác nhau của thời đại, kể cả việc
vận dụng các lý thuyết hậu hiện đại của thế giới, thì Nguyễn Xuân Khánh lại trung
thành với lối viết “đặc sệt cổ điển” bằng bút lực dồi dào và vốn văn hóa uyên bác,
khiến bạn đọc ngạc nhiên, thán phục.
Trong sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh, các tiểu thuyết Hồ Quý Ly
(2000), Mẫu Thượng ngàn (2006), Đội gạo lên chùa (2011) đã được chào đón

nồng nhiệt của độc giả và tác giả đã nhận nhiều giải thưởng danh giá.
Năm 2006, tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn ra đời, là đối tượng được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Hàng loạt các bài viết về Mẫu
Thượng Ngàn xuất hiện trên báo viết lẫn trên báo mạng như: Trần Thị An:
Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn; Vũ
Hà: Sức quyến rũ của Mẫu Thượng Ngàn; Phạm Xuân Nguyên: Mẫu Thượng
Ngàn - Nội lực văn chương của Nguyễn Xuân Khánh; Quỳnh Châu: Nguyễn

1


Xuân Khánh tuổi 74 và cuốn tiểu thuyết mới; Hòa Bình: Mẫu Thượng NgànCơ duyên của Nguyễn Xuân Khánh; Văn Chinh: Nơi bắt đầu Mẫu Thượng
Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh; Yến Lưu: Nỗi đau lịch sử và sự đổi thay;...
Năm 2011, Đội gạo lên chùa ra mắt bạn đọc; tuy có những thành cơng
vang dội và nhận được sự quan tâm từ độc giả cũng như các nhà nghiên cứu,
phê bình nhưng do thời gian xuất hiện chưa lâu nên chưa có cơng trình nghiên
cứu chun sâu nào dành cho tác phẩm này. Chỉ có một số bài đăng trên báo
viết và báo điện tử như: Tiểu thuyết như một tham khảo Phật giáo (Đọc Đội
gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh) của Mai Anh Tuấn; Nguyễn Xuân
Khánh Đội gạo lên chùa của Thu Hà; Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh Đội gạo
lên chùa của Hoài Thương; Kiến giải về dân tộc trong Đội gạo lên chùa của
Nguyễn Xuân Khánh của Đoàn Ánh Dương; Tinh thần dân chủ Phật giáo Việt
qua tiểu thuyết Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh của Văn Chinh;
Gừng già mới cay của Hoài Nam.
Viết tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa, nhà văn Nguyễn
Xuân Khánh luôn luôn trăn trở về những vấn đề lịch sử, văn hóa của đất nước.
Đổi mới về tư tưởng quan trọng hơn đổi mới về bút pháp là mục đích chính yếu và
đóng góp chính yếu của tiểu thuyết gia Nguyễn Xuân Khánh. Những lối viết
tưởng như xưa cũ của ơng vẫn có sức hấp dẫn lớn. Bạn đọc bắt gặp trong tiểu
thuyết của ông không phải những nhân vật, sự kiện, bức tranh lịch sử đã hóa thạch

mà là những chỉnh thể nghệ thuật sống động, luôn đối thoại với bạn đọc và mời
gọi bạn đọc tham gia đối thoại. Tái hiện lịch sử, văn hóa, phong tục là phông nền
để nhà văn đánh giá, đề xuất, kiến giải về quá khứ và gợi mở những vấn đề ngay
trong cuộc sống hôm nay.
Tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh cho thấy rất rõ ý nghĩa của việc trở
về với văn hóa dân gian trong xã hội hiện đại và vai trị của cổ mẫu. Đó chính
là một trong những đặc sắc trong tác phẩm của ông. Tuy nhiên, trước Nguyễn

2


Xn Khánh, đã có những nhà văn nước ngồi vận dụng cổ mẫu vào sáng tác
như Franz Kafka (Tiệp Khắc), Thomas Mann (Đức), James Yoyce (Ireland)….
Tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh ln khơi gợi hứng thú tìm tịi của cơng
chúng tiếp nhận. Là một hiện tượng văn học, Nguyễn Xuân Khánh dành được
nhiều sự quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu nhưng có thể khẳng định, chưa có một
cơng trình hồn chỉnh nào nghiên cứu về lý thuyết cổ mẫu trong sáng tác của
nhà văn này. Vì vậy, việc nghiên cứu “Tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn và Đội
gạo lên chùa của Nguyễn Xn Khánh từ góc nhìn lý thuyết cổ mẫu” là vấn đề
có cơ sở, cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp phần nhất định cho
việc gợi mở hướng mới trong nghiên cứu và giảng dạy văn học Việt nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Chọn nghiên cứu Tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn và Đội gạo lên chùa
của Nguyễn Xn Khánh từ góc nhìn lý thuyết cổ mẫu, luận văn hướng tới
mục đích:
(i) Tiếp tục hệ thống hóa, làm rõ thêm lý thuyết cổ mẫu.
(ii) Vận dụng lý thuyết cổ mẫu để xem xét một số cổ mẫu trong sáng tác
của Nguyễn Xuân Khánh, một nhà văn khá tiêu biểu trong giai đoạn đổi mới
của văn học Việt Nam từ năm1986 đến nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:

(i) Sơ lược hệ thống hóa, làm rõ các khái niệm như: cổ mẫu, biểu tượng,
biểu trưng, vô thức tập thể, huyền thoại,
(ii) Bước đầu giới thiệu, phân tích con đường, các khuynh hướng, các
hướng tiếp cận của phê bình cổ mẫu ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam
qua những tư liệu đã tiếp cận được.
(iii) Chỉ ra những biểu hiện, giá trị cổ mẫu trong Tiểu thuyết Mẫu
thượng ngàn, Đội gạo lên chùa của nhà văn Nguyễn Xn Khánh từ góc
nhìn lý thuyết cổ mẫu; từ đó khái qt vai trị của cổ mẫu, của văn hóa
truyền thống trong đặc điểm sáng tác của nhà văn trong quá trình đổi mới
văn học Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
3


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: lý thuyết cổ mẫu và các cổ mẫu trong tiểu thuyết
Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa của nhà văn Nguyễn Xn Khánh.
Nguyễn Xn Khánh cịn có một tiểu thuyết rất nổi tiếng: Hồ Quý Ly.
Tuy nhiên, đây là tiểu thuyết có “hơi hướng” lịch sử. Hơn nữa, và đây là lý do
chủ yếu, do phạm vi của luận văn thạc sĩ nên chúng tôi không đưa tiểu thuyết
này vào đối tượng nghiên cứu.
4. Lịch sử vấn đề
Về lí thuyết cổ mẫu, tôi thu thập được từ các công trình nghiên cứu
như: Tâm phân học (analitical psychlogy) của Karl Gustave Jung, Nước và
những giấc mơ của Gaston Bachelard, Giải phẫu phê bình (anatomy of
criticism) của Northrop Frye. Nguyễn Quang Huy, Thử dẫn vào nghiên cứu văn
học từ góc nhìn cổ mẫu (archetype). Nguyễn Thị Thanh Xuân, Phê bình cổ mẫu
và cổ mẫu nước trong văn học Việt Nam. Nguyễn Thị Thanh Xuân, Đi tìm cổ
mẫu trong văn học Việt Nam.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu về cổ mẫu chưa nhiều và đây là
hướng nghiên cứu mới của văn học thế giới và Việt Nam trong thế kỉ XX, đặc

biệt từ nửa sau thế kỉ XX cho đến nay. Các tác giả chủ yếu đi sâu vào nghiên
cứu về khái niệm cổ mẫu và mối quan hệ giữa cổ mẫu với văn học.
Nguyễn Xuân Khánh với những sáng tác từ năm 1958 (Làng nghèo 1958), Miền hoang tưởng (1990), Trư Cuồng, Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn,
Đội gạo lên chùa, Xóm nghèo đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt của độc
giả và hàng loạt giải thưởng danh giá. Tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh đã
được tìm hiểu từ nhiều góc độ khác nhau như lịch sử và văn hóa Việt, yếu tố
huyền thoại, những cách tân về kết cấu, vấn đề nữ quyền, v.v… song hướng
tiếp cận từ góc nhìn lý thuyết cổ mẫu thì chưa được quan tâm, mặc dù cổ mẫu
được sử dụng rất nhiều và góp phần quan trọng tạo nên đặc điểm sáng tác của
nhà văn này.

4


5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tôi đã triển khai, sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cơ bản sau đây:
- Phương pháp liên ngành: nghiên cứu các tài liệu về văn hóa lịch sử Việt
Nam làm cơ sở tìm hiểu và lí giải các cổ mẫu, những biểu hiện tái lặp, những
cấu trúc tương đồng, những mối liên hệ giữa các biểu tượng nghệ thuật,…
Cụ thể, chúng tôi sử dụng phương pháp liên ngành để tìm những liên tưởng,
những mạng lưới liên tưởng, những hình tượng thể hiện sự tương đồng giữa
tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh
với hệ thống - sự phát triển, thâm nhập, ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa,
phong tục tập qn đến các hình tượng, chi tiết nghệ thuật trong sáng tác của
Nguyễn Xuân Khánh. Và trên hết, phương pháp này được sử dụng để làm
sáng tỏ những giá trị cổ mẫu trong hai tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn, Đội
gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh.
- Phương pháp phân tích: đi sâu phân tích, xem xét từng phương diện của
cổ mẫu, biểu tượng thể hiện qua hai tiểu thuyết, từ đó rút ra những đánh giá

khái quát và cụ thể, cụ thể và khái quát.
- Phương pháp so sánh và đối chiếu: so sánh, đối chiếu giữa các cổ mẫu,
biểu tượng tiềm tàng của văn hóa dân tộc với các hình tượng, nhân vật trong
tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh để thấy được dòng chảy liên tục của văn
hóa Việt Nam, thấy được nét chung và riêng giữa các hình tượng nghệ thuật
của Nguyễn Xuân Khánh với các cổ mẫu trong văn hóa Việt Nam.
- Phương pháp thống kê - khảo sát: Thiết lập và sắp xếp các vấn đề một
cách logic, khoa học; xem xét, đánh giá trong cấu trúc tổng thể của chúng.
6. Đóng góp của luận văn
(i) Luận văn lần đầu tiên nghiên cứu, phân tích, lí giải một cách hệ thống
tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh từ
góc nhìn lý thuyết cổ mẫu.

5


(ii) Luận văn bước đầu chỉ ra những đặc điểm nhân loại và dân tộc trong
tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh; góp thêm tiếng nói khuyến khích người
cầm bút và cơng chúng tăng cường tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa và tìm
hiểu văn hóa từ góc nhìn văn học.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Phần kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính
của luận văn được triển khai thành ba chương:
Chương 1. Sơ lược về việc nghiên cứu văn học từ lý thuyết cổ mẫu.
Chương 2. Tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa và hướng
nghiên cứu từ lý thuyết cổ mẫu.
Chương 3. Tiếp cận Mẫu thượng ngàn và Đội gạo lên chùa từ lý thuyết
cổ mẫu.

6



PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
SƠ LƯỢC VỀ VIỆC NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
TỪ LÝ THUYẾT CỔ MẪU
Những thành tựu mới trong lý luận nhận thức và lý luận văn học hiện đại
cho thấy khoa học văn học từ cội nguồn của nó luôn không tách rời với tâm lý
học, đặc biệt là hoạt động sáng tạo và hoạt động tiếp nhận văn bản văn học.
Nếu khai mở bản chất của văn học từ chính văn học thì bản thân văn học cũng
dễ trở nên nghèo nàn, đơn điệu. Thậm chí cái hay của văn học nhiều khi lại
chính từ những yếu tố của văn hóa. Mối quan hệ văn hóa - văn học là mối quan
hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa hệ thống và yếu tố trong hệ thống. Nghiên
cứu văn học từ lý thuyết cổ mẫu chính là một hướng nghiên cứu thể hiện mối
quan hệ gắn bó của việc tiếp cận văn học từ văn hóa và tiếp cận văn hóa từ văn
học. Bất kì một hiện tượng văn học nào, nếu ta nghiên cứu nó từ một lý thuyết
khoa học phù hợp, cũng sẽ đem lại những cái mới thú vị. Xin dẫn một so sánh:
cống hiến mới của tư duy vật lí cho ta biết, bản chất của sự vật (ví dụ như ánh
sáng sẽ là sóng hoặc hạt) là tùy theo góc nhìn. Hay đúng hơn, mỗi góc nhìn
đem đến cho ta một hình ảnh khác nhau về bản chất của sự vật.
Trong chương này, chúng tôi sẽ phác họa sơ lược những vấn đề quan
trọng của lý thuyết cổ mẫu. Cụ thể, chúng tôi sẽ đề cập sơ lược đến các khái
niệm, vấn đề như: cổ mẫu, phân loại và tính chất của cổ mẫu, các motif nghệ
thuật từ sự diễn giải ý nghĩa của lý thuyết cổ mẫu. Phần cuối của chương này,
chúng tôi sẽ nêu vấn đề về việc nghiên cứu văn học từ lý thuyết cổ mẫu.
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu văn học từ lý thuyết cổ mẫu
1.1.1. Nghiên cứu phê bình văn học trên thế giới từ góc nhìn lý thuyết cổ mẫu
Lý thuyết cổ mẫu là vấn đề khó, phong phú và phức tạp. Trong chương
này, chúng tôi chỉ xin nêu những vấn đề sơ giản nhất, làm cơ sở cho các
chương sau.


7


Nói về lý thuyết cổ mẫu, đầu tiên, chúng ta phải nhắc tới Phân tâm học
của S. Freud. Tuyên bố nổi tiếng của S. Freud là; ngoài ý thức ra, trong tâm lý
của con người cịn có vương quốc của tiềm thức nữa. Tuyên bố này làm người
ta kinh ngạc, thán phục và được ví chẳng khác nào phát hiện ra một lục địa mới
trong lịch sử. Khi mọi người tơn xưng ơng là người phát minh ra tiềm thức,
chính S. Freud đã nói: “Trước tơi, các thi sỹ và triết gia đã sớm phát hiện ra
tiềm thức, tôi chẳng qua chỉ khám phá ra những phương pháp khoa học để
nghiên cứu tiềm thúc mà thôi” [Dẫn theo 46, tr. 177]. Freud rất q trọng các
nghệ sỹ vì ơng tìm thấy ở họ, những người dễ dàng bước vào lĩnh vực của tiềm
thức và vô thức.
Kế tiếp S, Freud nhưng khác với người thầy của mình, K.G. Jung
(1875-1961) đã đưa ra lý thuyết “vô thức tập thể”. Cống hiến khoa học và
cũng là khác biệt của ông so với S. Freud là phát hiện “vô thức tập thể” nằm
dưới “vô thức cá thể”. Ơng cho rằng “Vơ thức tập thể” có gốc gác sâu xa từ
kinh nghiệm của nhân loại và chủng tộc, thậm chí có gốc gác cả đến hoạt
động của loại thủy tổ tiền nhân loại. Và nói đến vơ thức tập thể, ký ức cộng
đồng khơng có nghĩa là mỗi con người có thể thâu tóm hoặc hồi tưởng tất cả
những thể nghiệm của tổ tiên, mà chỉ là nói đến những khả năng tiềm tàng
hoặc khuynh hướng tiên sử dụng những phương thức tương đồng với cha ông
để nắm bắt và phản ứng trước thế giới. K.G. Jung khẳng định: vơ thức tập thể
chính là một số nội dung kinh nghiệm của lồi người có từ thời nguyên thủy;
trong cuộc sống nguyên thủy, có bao nhiêu cái điển hình thì có bấy nhiêu loại
cổ mẫu: sinh nở, chết đi, sống lại, quyền lực, ma thuật, anh hùng, trẻ con,
giống đực, giống cái, mẹ, cha, đất, nước, mặt trăng, mặt trời, biển, rừng, vũ
khí,... Jung cho rằng, với tư cách là vô thức tập thể, những cổ mẫu này được
bảo tồn trong thần thoại nguyên thủy, đồng thời cũng được biểu hiện trong


8


những ảo giác, giấc mơ, cảm nhận của con người hiện đại. Trong bài báo nổi
tiếng Về quan hệ của tâm lý học phân tích đối với sáng tạo văn học nghệ
thuật, ông viết: “Mọi thái độ đối với cổ mẫu, dù đã trải nghiệm hay chỉ là
nhắc đến, đều “động” đến chúng ta: nó tác động bởi vì nó khơi dậy trong ta
một giọng nói to hơn giọng nói của chính ta. Người nói bằng ngun tượng
(tức cổ mẫu - PVD) dường như nói bằng hàng ngàn giọng, nó mê đắm và
khuất phục, nó nâng cái mình mơ tả từ chỗ ngắn ngủi một lần và tạm thời lên
chỗ tồn tại mn đời, nhờ đó giải phóng trong ta tất cả những sức mạnh cứu
vớt vốn từ xưa đã giúp lồi người tránh thốt được mọi tai họa và thậm chí
nén chịu được qua cái đêm dài nhất” [Xem 65, tr.244].
Có thể nói, “Quan niệm cổ mẫu chứa đựng những vô thức tập thể mang
những dấu ấn của tư duy thần thoại trong Tâm phân học của K.G. Jung
chính là cơ sở lý thuyết của trường phái lý luận phê bình văn học cổ mẫu”
[46, tr.211].
Sức hấp dẫn của học thuyết của C. Jung về cổ mẫu (archétype) được
nhiều nhà nghiên cứu tiếp bước trong phê bình văn học. Đó là Ch.Bauduin,
J.Campbell, M.Eliade, Gaston Bachelard, N. Frye, E. M. Meletinsky... Họ đã
khai triển lý thuyết này theo những hướng khác nhau.
Maud Bodkin, một nhà nghiên cứu người Anh, trong Những kiểu cổ mẫu
trong thơ (Archetypal Patterns in Poetry,1934), Bodkin là người đầu tiên vận
dụng một cách hệ thống tư tưởng cổ mẫu của Jung vào nghiên cứu văn học khi
bà “cố gắng đưa sự phân tích tâm lý và sự nghiền ngẫm tâm lý quy vào cho kinh
nghiệm tưởng tượng được thứ thơ ca tuyệt tác truyền tải và khảo sát những hình
thức hay là những mẫu hình kinh nghiệm kia mà trong những mẫu hình ấy
những sức mạnh vũ trụ của bản chất con người chúng ta tìm được sự thể hiện cụ
thể” [11]. Ch.Bauduin tập trung vào cổ mẫu người anh hùng trong Iliade,


9


Ramayana,... để phân tích tâm lí huyền thoại anh hùng nhằm tìm ra các tổ hợp về
cái chết và sự tái sinh, người thế mạng,... [51].
J. Campbell dẫn ra các cổ mẫu: người anh hùng, vị thần, nhà tiên tri để
tìm cách lí giải các giai đoạn biểu tượng thích hợp cho đời sống con người thời
hiện đại. Qua các sáng tạo huyền thoại Ai Cập, Babilon, Ấn Độ, Trung Quốc,
v.v, ơng tìm ra những ngun mẫu (cổ mẫu) và chức năng tâm lí như nhau của
sự sống và cái chết, sự tái sinh,... Và theo ông, về mặt chức năng, nó chính là
chìa khóa lí giải ngun lí tổng hợp bất biến trong bản tính con người [51].
M. Eliade thì lưu ý rằng, “kí ức tập thể” mang tính phản lịch sử, nó chỉ
thừa nhận các phạm trù và nguyên mẫu, chứ không thừa nhận các sự kiện lịch
sử. Qua đó, ơng đặt vấn đề về cách ứng xử của con người trong cuộc chống
chọi với nỗi đau khổ và nỗi khiếp sợ muôn thuở trước lịch sử. G. Bachelard
thay thế các “giấc mơ” (rêves) bằng “sự mơ mộng” (rêverie). Theo đó, ơng cho
rằng thơ ca chính là sự mơ mộng xoay quanh vật chất nguyên thủy, những yếu
tố đầu tiên làm nên thế giới: đất, nước, lửa, không khí. Và theo ơng, chính các
Cổ mẫu đó đã làm nên đặc trong nghệ thuật của các thiên tài như: E. Poe,
Novalis, Hoffmann,...
Với G. Bachelard, cổ mẫu là các các hình tượng được tạo dựng vượt lên
hiện thực, nó gắn liền với những giấc mơ nguyên thủy. Trong Nước và những
giấc mơ, Bachelard thú nhận nghiên cứu Nước khó hơn nghiên cứu Lửa rất
nhiều. Có lẽ vì Nước là ngun tố có tuổi đời già nhất. Có lẽ, do bản chất “nữ”,
“đằm sâu”, “bền vững” “kín đáo”, “đơn giản” của mình, Nước thường hiện ra
trước mắt Con Người ở phương diện bề mặt, như là cái phơng trang trí, hơn là
tiếng gọi cội nguồn thẳm sâu của nó. Vậy nên, theo G. Bachelard, đi tìm những
“nét đẹp tư duy của nước”, ta phải xuyên qua các bề nổi để thấy bề sâu, xun
qua trí tưởng tượng hình thức để khai mở trí tưởng tượng về nội dung. Có thể


10


nói, G. Bachelard đã khám phá và nhận diện Nước như một khám phá và nhận
diện một con người. Hay nói khác đi, qua Nước, ơng nhận thức lại về vũ trụ và
con người. Theo ông, người nghiên cứu phải bám sát mối liên hệ giữa những
mặc cảm nguyên bản và những mặc cảm văn hóa, dưới một hình thức tốt đẹp
thì mặc cảm văn hóa làm cho một truyền thống được sống lại và trẻ ra, và
ngược lại [75].
Từ lý thuyết cổ mẫu của Carl Gustave Jung và Gaston Bachelard, chúng ta
thấy có Northrop Frye, E. M. Meletinsky... là những người tiếp bước đã tạo ra hệ
phê bình riêng.
Northrop Frye, trong cuốn Giải phẫu phê bình, đã vận dụng những ý
hướng khác nhau trong lý thuyết tâm lí vào nghiên cứu văn học, huyền thoại
học. Theo Northrop Frye, huyền thoại là một quyền lực thông tin trung tâm
cung cấp ý nghĩa cổ mẫu (archétype) cho nghi lễ và cho lời sấm truyền. Vì thế,
huyền thoại là cổ mẫu. Trong văn học, cổ mẫu hiện lên trong cấu trúc ngôn từ,
thậm chí trong những con chữ được tác giả sử dụng một cách đặc biệt như
trường hợp lặp phụ âm đầu chẳng hạn. Và như thế, hai thành tố chúng ta vẫn
thường quan tâm của văn học đã có nguồn gốc trong huyền thoại (và nghi lễ).
Về phương diện thể loại văn học, Northrop Frye đã thay thế khái nệm vô thức
tập thể của những người khơi xướng bằng khái niệm vơ thức của thể loại. Dưới
cái nhìn của N. Frye, đó khơng đơn thuần là hiện tượng chuyển hố của huyền
thoại trong văn học mà là hiện tượng huyền thoại hố văn học. Điều này gợi ra
một hình thức phê bình tổng thể mà trước hết là phê bình huyền thoại, phê bình
cổ mẫu. Theo Đào Ngọc Chương, trong Giải phẫu phê bình, N. Frye coi khái
niệm cổ mẫu như là một sự kiện văn học tự thân, một hiện tượng lặp lại đặc
biệt mang tính liên văn bản giống như một qui ước [11]. Phê bình huyền thoại
cịn gọi là giải huyền thoại, đến N. Frye, trở thành một hợp lưu, một dạng tổng


11


đề, mở ra con đường thênh thang cho những khám phá mới, cho những trào lưu
phê bình mới mở rộng phạm vi hoặc mang tính liên ngành. Họ đã triển khai
rộng rãi các khái niệm vô thức cộng đồng, cổ mẫu để tiến hành những phân tích
cụ thể nhằm khám phá tác phẩm văn chương.
E. M. Meletinsky, tác giả cuốn Thi pháp của huyền thoại, đề cập nhiều
lần tới thuật ngữ “nguyên mẫu” (thuật ngữ tiếng Nga hoặc tiếng Anh, đồng
nghĩa với cổ mẫu). Khi dùng thuật ngữ này trong nghiên cứu về huyền thoại
của các dân tộc trên thế giới, nhà ký hiệu học và folklore học này đã “đưa
những hiệu chỉnh quan trọng vào cách hiểu kinh điển của Jung về những mẫu
cổ đó. Từ việc nghiên cứu các mẫu cổ (thuật ngữ trong bản dịch, tương đương
với thuật ngữ cổ mẫu, tác giả luận án nhấn mạnh) huyền thoại trong cốt truyện
dân gian, ông chuyển sang phân tích những mẫu cổ trong các tác phẩm kinh
điển của Nga,...” [51, tr.XII]. Thơng qua đó, bằng cách đánh giá các cách nhìn
nhận của các nhà nhân chủng học như: J. G. Frazer, Lévi Bruhl, Lévi Strauss,...
ông đã vận dụng khá thành công các thuật ngữ trọng tâm của C. Jung vào
nghiên cứu văn học dân gian cũng như văn học hiện đại, đặc biệt là khuynh
hướng tiểu thuyết huyền thoại, giải huyền thoại của các nhà văn đương đại
phương Tây. Thi pháp của huyền thoại là một đóng góp lớn cho phê bình và lí
luận văn học hiện nay. Tuy vậy, khi đề cập đến các cổ mẫu, ông chỉ đề cập tới
việc miêu tả mang tính sơ lược, hay nói đúng hơn là tác giả đã khơng đi sâu
vào yếu tố cổ mẫu, mà chỉ đề cập như một vấn đề lý thuyết cần thiết và hết
sức quan trọng trong nhiều xu hướng nghiên cứu văn học nghiêng về khuynh
hướng phê bình huyền thoại, phê bình nghi lễ,... trong giới nghiên cứu khoa
học văn học hiện nay, cả văn học dân gian và văn học viết.
Từ đó, phê bình cổ mẫu chính thức bước từ lãnh địa phân tâm học sang
lãnh địa nghiên cứu văn học, với tư cách vừa là một thuật ngữ vừa là một

phương pháp đặc thù trong nghiên cứu văn học.

12


1.1.2. Tình hình nghiên cứu phê bình văn học ở Việt Nam từ góc nhìn lý
thuyết cổ mẫu
Cổ mẫu là gì? Nó được mơ tả và hiểu như thế nào? Và nếu như nó tham dự
vào văn chương thì liệu chúng ta có những hi vọng gì? Các nhà văn và nhà nghiên
cứu Việt Nam trong nỗ lực tìm tịi, thử nghiệm và sáng tạo đã tìm đến cổ mẫu như
một chất liệu nghệ thuật mới để tháo dỡ hiện thực, lắp ghép và cấu trúc lại nó. Và
như vậy, người đọc sẽ có cơ hội tìm thấy ở xu hướng phê bình Cổ mẫu/ phê bình
Archétype những vẫy gọi mới, thực hiện “hành động đọc” từ những “mơ mộng”
của những kẻ sáng tạo trong cái nhìn soi chiếu ở chiều sâu văn bản. Ở Việt Nam,
thuật ngữ cổ mẫu xuất hiện khá muộn, cuối thế kỉ XX và những năm đầu thế kỉ
XXI. Đã có một số cơng trình giới thiệu và vận dụng lý thuyết cổ mẫu trong
nghiên cứu văn học.
Phương Lựu, trong Lý luận Văn học hiện đại phương Tây đã dành một
chương, chương XI (Tâm phân học) để giới thiệu lý thuyết “vô thức tập thể”
của K.G. Jung và lý luận phê bình văn học “cổ mẫu thần thoại”.
Đỗ Lai Thúy với Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực [62], Bút pháp
của ham muốn [63], đã nhìn nhận cổ mẫu như một yếu tố tái sinh nghĩa và là
mã nghệ thuật cơ bản khi đi tìm thơng điệp thơ Hồ Xn Hương, thơ Hồng
Cầm,... Từ đó, theo Đỗ Lai Thúy, tầng sâu trong sáng tác, nếu như ở hiện tượng
bà chúa thơ Nôm là cách lí giải từ tín ngưỡng phồn thực và các biểu tượng
mang tính siêu mẫu về văn hố phồn thực, thì ở nhà thơ xứ Kinh Bắc là khơng
gian văn hố Quan họ cùng những hội hè đình đám, đặc biệt là phức cảm
Oedipe,...
Nguyễn Thị Thanh Xuân, trong bài Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt
Nam in trong Nghiên cứu văn học Việt Nam - Những khả năng và thách thức

[54], đã xuất phát từ lý thuyết của C. Jung, G. Bachelard và N. Frye, để tìm cổ

13


mẫu trong thơ Hồ Xuân Hương, thơ Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng và truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Trong đó, các yếu tố Đất, Nước, Trăng, Máu, Biển,...
được vực dậy từ vô thức tập thể - là những kinh nghiệm nguyên sơ nhất của
con người về vũ trụ và cuộc sống. Tác giả cho rằng cái nhìn và bút pháp của
Bùi Giáng, một nhà thơ hiện đại, đôi chỗ có cái gì đó gần với Hồ Xn Hương:
“thơ Hồ Xuân Hương ngả về bản năng, thơ Bùi Giáng thiên về bản nhiên. Đọc
thơ Hồ Xuân Hương, ta chừng như thấy một người đàn bà Việt nghịch ngợm tai
quái vục chiếc gáo dừa vào cái lu vô thức nhân loại, quậy chơi, và múc ra một
hỗn hợp những Đất - Nước - Trời - Người, vung ra tung toé” [54, tr.194].
Trong trị chơi này, thiên nhiên khơng cịn là Mẹ Đất, Cha Trời của Con Người,
mà như một người đàn ông bị lôi kéo vào cuộc chơi kì thú của người bạn nữ
Việt thông minh và tràn đầy sức sống. Dưới cái nhìn cổ mẫu, thơ Tản Đà đã
vĩnh cửu hoá vầng trăng tự tại, biểu tượng thế giới an nhiên của chốn thiên thai,
và thơ Hàn Mặc Tử thì tràn ngập Trăng “lai láng như nước và cần như hơi thở”.
Đến đương đại, Nguyễn Huy Thiệp làm một cuộc nối mạch trở lại với huyền
thoại. Đất, Nước, Biển, Sông, Rừng, Gió, Mưa, Lửa, Mẹ,... với tư cách là những
cổ mẫu, ám ảnh Nguyễn Huy Thiệp không kém con người, và đây chính là một
trong những yếu tố quan trọng làm cho trang viết của ơng có chiều sâu. Chúng
tham dự vào văn chương đầy mê đắm và khuất phục. Nguyễn Thị Thanh Xn
nhắc đến “Đơi gị bồng đảo sương còn ngậm” (Thơ Hồ Xuân Hương) “Chồi
thược dược mơ mòng thụy vũ” (Nguyễn Gia Thiều, Cung oán ngâm khúc), và
các cổ mẫu: cổ mẫu Đầm xuất hiện như một phép lạ: Đầm Dạ Trạch trong truyện
Chử Đồng Tử, motif bay về trời, cổ mẫu Giếng, đặc biệt, cổ mẫu Nước. Riêng
Hồ Xuân Hương lại chỉ có cảm hứng với những nước trong hang, hẻm, kẽ, khe,
lách, lạch, nước tát, vũng,... nghĩa là những hình thái nước tù đọng, trong quy

mơ nhỏ, hẹp, ở những vị trí khuất nẻo, hóc hiểm,...

14


Cũng theo hướng nghiên cứu phê bình cổ mẫu, Nguyễn Ngọc Chương có
“Trầu cau” hay cịn có tên gọi khác là “Trầu cau Việt điện thư”. Trong cuốn
sách này, ông chủ yếu kể lại hành trình truy tìm và giải mã trầu cau bắt đầu từ
Núi Trâu, giếng Việt. Câu chuyện của ơng có đủ hình tượng của mẹ Đất (bà
Diêm Vương thời mẫu hệ), rốn đất (giếng), nhau thai (rắn có mào) và Núi Trâu
bao bọc và bảo vệ, để từ đó nêu ra nguyên lý, nguyên mẫu ẩn chứa trong văn
hóa trầu cau của mình. Trong cuốn sách thứ 2 mang tên “Trầu cau nguyên nhất
thư”, Nguyên Ngọc Chương vẫn tiếp tục cuộc hành trình đi tìm những giá trị cổ
mẫu của văn hóa Trầu cau, đồng thời chứng minh những giá trị cổ mẫu này.
Đặng Anh Đào, trong bài “Về vấn đề gặp gỡ và ảnh hưởng của văn học
Pháp đối với văn học Việt Nam” đề cập đến mơtíp về thiên đường đã mất vốn
tiềm ẩn ở cả văn hoá Trung Hoa và Việt Nam như một mẫu gốc (archétype - cổ
mẫu) của văn học nhân loại” [20, tr. 327 - 328], coi đó như một yếu tố văn hoá
dân tộc và cá nhân nhà văn mang tính siêu khơng gian.
Tác giả Đào Vũ Hồ An trong Tự sự học cũng thể hiện hướng nghiên
cứu văn học từ lý thuyết cổ mẫu. Bài viết Mẫu gốc như là thành phần tạo nghĩa
(khảo sát qua trường hợp Giàn thiêu của Võ Thị Hảo) đã dựa vào những điểm
mấu chốt trong lý thuyết Mẫu gốc của nhà tâm lý học phân tích C. Jung, qua
đó, khảo sát hai yếu tố “Nước và Lửa như một mã nghệ thuật” [55, tr.496].
Theo một cách riêng, tác giả bài viết đã có hướng đi mới khi chạm vào tầng sâu
của văn bản tác phẩm.
Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Quang Huy (2017) Truyện nơm bác học từ
góc nhìn cổ mẫu đặt truyện Nôm bác học trong sự liên hệ với truyền thống văn
học trước đó, trong kiểu tư duy tiền hiện đại, chứa đựng nhiều mô thức tượng
trưng về thực tại trên các phương diện cấu trúc không gian, các biểu tượng nội

giới, các giới hạn thân phận và thử thách thân phận con người,... Tác giả xem

15


cổ mẫu như một mã (code) để đi vào các miền mộng tưởng văn chương truyện
Nôm bác học, đặc biệt là ở chiều sâu tư tưởng, ở các cấu trúc chìm của của các
hiện tượng văn chương. Trong Thử dẫn vào nghiên cứu văn học từ góc nhìn cổ
mẫu (archetype), Nguyễn Quang Huy cũng đã thông qua một số thành tựu tâm
lý học phân tích, cụ thể là archétype (cổ mẫu), vô thức tập thể, các ảnh tượng
mộng mơ, để xác nhận những tương quan giữa chúng với văn học nhằm tạo lập
một cái nhìn gợi mở cho hướng nghiên cứu mới - nghiên cứu văn học từ góc
nhìn lý thuyết cổ mẫu.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu về cổ mẫu chưa nhiều và đây là
hướng nghiên cứu mới của văn học thế giới và Việt Nam trong thế kỉ XX, đặc
biệt từ nửa đầu thế kỉ XXI đến nay.
1.2. Lý thuyết cổ mẫu
1.2.1. Định nghĩa cổ mẫu
Thuật ngữ “cổ mẫu” xuất phát từ ngành phân tâm học, C.Jung - nhà tâm
lý học Thụy Sĩ là người khởi xướng. Con đường đưa C.Jung đến lý thuyết cổ
mẫu hoàn toàn tình cờ. Khám phá vơ thức tập thể, C.Jung đã bắt gặp mối quan
hệ giữa các huyền thoại cổ với tâm lý của người nguyên thủy. Theo C.Jung,
vô thức tập thể là “những kết tinh từ nhiều truyền thống tâm lý, tâm linh và
văn hóa của nhiều thế hệ lồi người trong lịch sử để lại” [41, tr.28], hình
thành từ hoàn cảnh sống thực tế của tổ tiên như “những hoàn cảnh lo âu và sợ
hãi, vui mừng và phấn chấn, tranh đấu để sống còn, tương giao giữa nam và
nữ, giữa cha mẹ và con cái, những hình tượng người cha người mẹ, những
thái độ đối với hận thù và yêu thương, đối với sinh tử và ly biệt, những quyền
lực của các nguyên lý tối sáng âm dương” [41, tr.29]. Vô thức tập thể được
thể hiện trong vô số huyền thoại, biểu tượng, cấu trúc tâm lý điển hình được

lưu truyền từ đời này sang đời khác qua con đường “di truyền văn hóa”. Mặt

16


khác, vơ thức tập thể nằm ở tầng sâu kín xa thẳm nhất của hệ tâm thức mà con
người bẩm sinh đã có nhưng khơng có cách nào gợi nhớ mà chỉ ngẫu nhiên
xuất hiện. Vô thức tập thể được diễn tả thơng qua các hình ảnh trong chiêm
mộng và mơ tưởng dưới hình thức các cổ mẫu. Và từ đây, khái niệm “cổ mẫu”
do C.Jung đề xuất đã ra đời.
Từ “cổ mẫu” trong tiếng Anh là archetype (từ nguyên “archetypen”)
gồm hai từ đơn “arche” có nghĩa là cổ, khởi đầu, cơ sở, nguyên lý… và
“typen” có nghĩa là mẫu, loại, dấn ấn, hình ảnh, mơ hình, tiêu chuẩn, quy
phạm… [41, tr.94], xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại trước cơng ngun dùng
để chỉ một hình thức gốc, những ý tưởng (idea) hay hình thức (form) mà từ đó
các bản sao của nó được thực hiện và nhân bản. Năm 1912, khi xuất bản cuốn
Tâm lý học vô thức, C. G. Jung (1875 - 1961) đưa ra định nghĩa ngắn gọn về
khái niệm cổ mẫu như sau: “Cổ mẫu có nghĩa là một typos (dấu ấn), một tập
hợp xác định các đặc tính cổ xưa, về hình thức cũng như về ý nghĩa, các motip
huyền thoại” [40, tr.41]. Sau đó, đến năm 1919, ơng mới quảng diễn nó ra.
Muray Stein gọi Jung là người vẽ bản bản đồ tâm hồn con người hoàn hảo nhất
[24. tr.79-87].
Với S. Freud, cổ mẫu là Vết tích tối cổ (résidus archaques). Cịn C. G.
Jung, trong các cơng trình của ơng, gọi cổ mẫu bằng nhiều tên gọi: Siêu
tượng, vết tích bản cổ, hình ảnh nguyên thủy. Sang Việt Nam, Archétype được
định danh theo nhiều cách khác nhau: Sơ nguyên tượng (Kim Định), Siêu mẫu
(Vũ Đình Lưu, Đỗ Lai Thúy), Nguyên mẫu (Phan Quang Định), Mẫu tượng
(Lưu Hồng Khanh), Mẫu cổ (Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu), Cổ mẫu (Phương
Lựu, Nguyễn Thị Thanh Xuân), Đồ hình vĩnh cửu (Đỗ Lai Thúy), Archétype
(Văn Giá, Đào Vũ Hòa An, Lưu Tuấn Ảnh) [30]. Các nhà lý luận huyền thoại

coi archétype của Jung là nguyên mẫu tân sinh...

17


Thực ra, khơng phải đến Jung mới hình thành nên thuật ngữ này. Theo
Bennet, trong cuốn Jung đã thực sự nói gì, cho biết: trong một cơng trình
cuối đời của mình, S. Freud đã đề cập đến những thuật ngữ như: Di sản cổ
xưa hay Dấu vết của tinh thần cổ sơ (le mode de pensée archaïque) [5,
tr.77-78] và [39, tr.23]. Nếu xem cổ mẫu là một cấu trúc tinh thần thì trước
Jung rất xa đã có các quan niệm về những ý niệm hay những hình thức
trong lý thuyết của Platon. Tư tưởng của Jung về archétype gặp gỡ với
những thuật ngữ như hình ảnh thượng đế (image de Dieu), thượng đế như là
cổ mẫu ánh sáng (la lumière archétype) trong tác phẩm của triết gia Philon
d’Alexandrie; trong tư tưởng của Platon, Augustin,... [39, tr.25]. “Nó (Jung
viết) tùy thuộc vào sự phân loại các ý nghĩ mà lúc đầu con người cảm thấy
xa lạ nhưng đã sớm sở hữu và sử dụng chúng như là những khái niệm thân
thuộc,... Cổ mẫu là đúng và hữu ích bởi vì nó cho chúng ta biết rằng những
nội dung vô thức tập thể có liên quan khi chúng ta xem xét những hình thức
cổ xưa, hoặc đúng hơn những hình thức nguyên thủy, tức là những hình
ảnh chung tồn tại từ những thời đại xa xưa nhất” [5, tr.77-78]. Cái psyché
trong quá khứ xa thẳm ấy là nền móng tinh thần của con người. Việc phát
hiện này đã mặc nhiên tạo ra một ảnh hưởng vơ cùng lớn đối với tâm lí học
hiện đại. Cổ mẫu, Jung nói: “cũng như thân thể người ta là một tập hợp
đầy đủ những bộ phận, mỗi bộ phận là kết quả của một cuộc tiến hóa qu a
các thời kỳ tiền sử, ta phải nghĩ rằng tinh thần của ta cũng có một tổ chức
tương tự như thế. Tinh thần cũng như thể chất của ta, khơng thể là một cái
gì khơng có q khứ, một lịch sử của nó” [38, tr.96].
Dựa vào quan điểm của C.Jung, một số từ điển đã đưa ra định nghĩa cổ
mẫu. Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới giải thích: “Các mẫu gốc giống

như những nguyên mẫu của các tập thể biểu tượng ăn sâu trong vô thức đến

18


nỗi chúng trở thành như một cấu trúc, như những kí tích…” [37, tr.XXI] .
Từ điển Văn học định nghĩa: “Cổ mẫu là khái niệm dùng để chỉ những mẫu
của các biểu tượng, các cấu trúc tinh thần bẩm sinh, trong tưởng tượng của
con người, chứa đựng trong vô thức tập thể của cộng đồng nhân loại” [27,
tr.972]. Từ điển Thuật ngữ văn học lý giải: “những mẫu gốc là những mơ típ
và liên kết mơ típ có đặc tính bản chất phổ quát, là sơ đồ tâm lý bền vững,
được tái hiện lại một cách vơ thức và tìm thấy nội dung trong các nghi lễ,
thần thoại tượng trưng, tín ngưỡng cổ xưa, trong những hành vi tâm lý (ví
dụ: giấc mơ) và cả trong sáng tác nghệ thuật ngay đến thời nay” [26,
tr.192]. Mặc dù có nhiều cách gọi tên, kể cả do cách dịch, nhưng các định
nghĩa về cổ mẫu đều thống nhất ở cách hiểu chung: Archétype “là những yếu
tố tâm thần (psyché) không thể cắt nghĩa được bằng một sự việc xẩy ra trong
đời sống (...). Nó hình như bẩm sinh đã có, có từ nguyên thủy, nó là một
thành phần trong gia tài tinh thần nhân loại” [30].
Tóm lại, cổ mẫu cổ mẫu là “những nguyên mẫu sơ khai” hình thành từ
cội nguồn xa xưa, là “cấu trúc tâm thần bẩm sinh” sinh tạo trong vô thức tập
thể được kế thừa qua các thế hệ bằng con đường “di truyền văn hóa” và “chúng
xuất hiện ở bất cứ thời đại nào, bất cứ ở đâu trên khắp thế giới”. Cổ mẫu thuộc
về lĩnh vực của vơ thức (vơ thức tập thể), thốt thai từ vô thức tập thể, kết tinh
từ “những kinh nghiệm được lặp đi lặp lại nhiều lần của loài người. Bởi vậy, cổ
mẫu có mặt trước khi đi vào tác phẩm. Nói cách khác, trước khi là mã nghệ
thuật, thủ pháp nghệ thuật hiện diện trong tác phẩm, cổ mẫu tồn tại ngẫu nhiên
trong tâm thức nghệ sĩ. Tồn tại ít hay nhiều, nơng hay sâu và việc nhà văn có
phát huy được ký ức tập thể, ký ức nhân loại, ký ức dân tộc hay khơng,… tất cả
những điều đó lại phụ thuộc vào vốn sống, vốn hiểu biết, cảm xúc thăng hoa và

tài năng của từng con người, từng nghệ sỹ. Cổ mẫu thốt thai từ vơ thức tập thể

19


×