Tải bản đầy đủ (.docx) (133 trang)

Quản lí hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ tại các trung tâm chuyên biệt trên địa bàn thành phố quảng ngãi, tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.84 KB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

BÙI QUANG THUẬN

QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG CAN THIỆP SỚM
CHO TRẺ TỰ KỈ TẠI CÁC TRUNG TÂM CHUYÊN BIỆT
•••
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI,
TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Quản lí giáo dục
Mã số : 8140114

Người hướng dẫn: PGS. TS Đậu Minh Long


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nào
khác.

Quảng Ngãi, tháng 03 năm
2021
rri r • *7
1
w
Tác giả luận văn

Bùi Quang Thuận



LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn đến thầy Trưởng khoa và các thầy
cô khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, trường Đại học Quy Nhơn đã tạo điều
kiện cho tôi thực hiện nghiên cứu này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGD.TS Đậu Minh Long, người đã định
hướng, tận tình hướng dẫn, chi ra nhiều vấn đề cịn thiếu sót trong q trình
nghiên cứu để có được thành quả nghiên cứu như bây giờ.
Xin trân trọng gửi lời cám ơn đến đội ngũ CBQL-GV tại các trung tâm
chuyên biệt trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi đã bỏ chút thời gian, giúp đỡ
tơi trong q trình khảo sát thực tiễn.
Mặc dù đã nỗ lực hết mình, tuy nhiên với năng lực cịn hạn hẹp khơng
tránh khỏi những thiếu sót trong đề tài nghiên cứu. Tác giả kính mong nhận
được sự chỉ dẫn, góp ý của q Thầy cơ trong Hội đồng khoa học, của các nhà
khoa học và quý vị quan tâm đến đề tài nghiên cứu này.
Quy Nhơn, ngày 16 tháng 03 năm 2021.
Bùi Quang Thuận


MỤC LỤC
••
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

3.2.1. Tổ chức triển khai hoạt động bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ giáo

PHỤ LỤC

QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (bản sao)
CBQL

: Cán bộ quản lí

CTS

: Can thiệp sớm

ĐG

: Đánh giá

GV

: Giáo viên

GD

: Giáo dục

PH

: Phụ huynh

PP

: Phương pháp

TTK


: Trẻ tự kỉ


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
ĐỒ


Bảng 2.14 Đánh giá của CBQL-GV về quản lí việc kiểm tra, đánh giá hiệu


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ


8

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Tự kỉ là một phần của thế giới này và tôi sẽ không thay đổi cách con trai
tơi nhìn nhận về thế giới này. Thay vào đó, tơi sẽ thay đổi thế giới nhìn nhận về
con trai mình” tâm sự của một người mẹ biết chấp nhận và yêu thương sự khác
biệt của con trai mình [11]. Trên thế giới hơn 70 năm qua, tự kỉ đã trở thành
dạng khuyết tật được sự quan tâm của giới khoa học và cộng đồng nhiều hơn
cả.
Ngày nay, tự kỉ được coi là “căn bệnh của thời đại”, số lượng trẻ tự kỉ tăng
lên nhanh chóng ở tất cả các quốc gia trên thế giới, trẻ tự kỉ được báo cáo xảy
ra trong tất cả các nhóm chủng tộc, màu da, các dân tộc và nền kinh tế xã hội
khác nhau. Ngày 30/3/2012 trên trang tin của Trung tâm phòng chống dịch
bệnh của Mỹ (CDC - Centers for disease control and prevention) chính thức
cơng bố số liệu thống kê mới về Tự kỉ là hiện cứ 88 trẻ có 1 trẻ được xác định

với một rối loạn phổ Tự kỉ (ASD - Autism Spectrum Disorder); tỷ lệ trẻ trai
mắc chứng Tự kỉ cao gấp 5 lần so với bé gái.
Ở Việt Nam, rối loạn phổ tự kỉ chỉ thực sự được biết đến ở những năm đầu
thế kỉ XXI và các nghiên cứu về rối loạn phổ tự kỉ cũng chỉ được tiến hành
trong khoảng hơn mười năm trở lại đây. Hầu hết các nghiên cứu được tiến
hành trên các đối tượng trẻ tuổi mầm non, một số ít trên trẻ tiểu học.
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi đang có 3 trung tâm chuyên
biệt thực hiện hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ; Và mỗi trung tâm chưa có
sự thống nhất trong cách quản lí hoạt động cũng như phương thức can thiệp
sao cho mang lại hiệu quả cao, mà chỉ đang ở mức độ mò mẫm học hỏi từ các
tài liệu cũng như các khóa tập huấn ngắn hạn. Vì vậy tôi thực hiện đề tài
nghiên cứu này nhằm đề ra các biện pháp trong cơng tác quản lí hoạt động can


9

thiệp sớm cho trẻ tự kỉ mang tính đồng bộ và có bằng chứng khoa học rõ ràng,
mang lại kết quả cao, giúp trẻ tự kỉ có được các kĩ năng thiết yếu và có nhiều
cơ hội hịa nhập xã hội sau này.
Từ những phân tích lí luận và thực tiễn trên, tơi thực hiện nghiên cứu đề tài
“Quản lí hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ tại các trung tâm chuyên biệt
trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực trạng quản lí hoạt động
can thiệp sớm trẻ tự kỉ tại các trung tâm chuyên biệt trên địa bàn thành phố
Quảng Ngãi, tác giả đề xuất các biện pháp quản lí hoạt động góp phần nâng
cao chất lượng hoạt động can thiệp cho trẻ tự kỉ.
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
3.1.


Khách thể nghiên cứu

Hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ.
3.2.

Đối tượng nghiên cứu

Quản lí hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ ở các trung tâm chuyên biệt
trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Việc quản lí hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ tại các trung tâm chuyên
biệt trên địa bàn trong thời gian qua cịn nhiều bất cập, chưa có sự thống nhất
và chưa đáp ứng được nhu cầu về tư vấn, hỗ trợ và can thiệp sớm cho trẻ và
gia đình TTK. Vì vậy, việc nghiên cứu dựa trên cơ sở lí luận và đánh giá thực
trạng quản lí hoạt động can thiệp sớm cho TTK hiện nay, từ đó đề ra các biện
pháp mang tính cần thiết và khả thi để nâng cao hiệu quả quản lí hoạt động
này, đáp ứng được mục tiêu can thiệp cho TTK.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.

Nghiên cứu cơ sở lí luận về quản lí hoạt động can thiệp sớm cho


10

trẻ tự kỉ.
5.2.

Khảo sát thực trạng quản lí hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ


tại các trung tâm chuyên biệt trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi,
tỉnh Quảng Ngãi.
5.3.

Đề xuất các biện pháp quản lí hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự

kỉ tại các trung tâm chuyên biệt trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi,
tỉnh Quảng Ngãi.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1.

Phạm vi về địa bàn nghiên cứu: Đề tài được triển khai, nghiên

cứu tại 03 trung tâm chuyên biệt đang thực hiện hoạt động can thiệp
sớm cho trẻ tự kỉ trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng
Ngãi (được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu).
6.2.

Phạm vi về đối tượng khách thể nghiên cứu: Đề tài tập trung

nghiên cứu: 35 cán bộ quản lí, giáo viên can thiệp và 98 phụ huynh
của 3 trung tâm chuyên biệt.
6.3.

Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Phân tích thực trạng, đánh giá

và đưa ra các biện pháp quản lí hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ
ở các trung tâm chuyên biệt trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi trong
năm 2020.
7. Phương pháp nghiên cứu

7.1.

Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận

Bao gồm các PP: phân tích, tổng hợp, phân loại tài liệu, hệ thống hóa các
các nguồn tài liệu khoa học, các văn bản, thông tư, nghị định,...nhằm xây dựng
cơ sở lí luận của đề tài
7.2.

Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1.

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Chúng tơi sử dụng

phương pháp này nhằm tìm hiểu thơng tin làm căn cứ cho cơ sở lí


11

luận.
7.2.2.

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Chúng tôi thiết kế

mẫu nghiên cứu tìm hiểu thực trạng quản lí hoạt động can thiệp
sớm cho trẻ tự kỉ trong những năm qua, đánh giá hiệu quả quản lí
hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ hiện nay ở các trung tâm
chuyên biệt và xác định tính cần thiết, tính khả thi của các biện
pháp quản lí; gồm 2 mẫu phiếu (mẫu phiếu dành cho cán bộ quản

lí, giáo viên và mẫu phiếu dành cho phụ huynh).
7.3.

Phương pháp xử lí số liệu:

Chúng tơi sử dụng một số cơng thức tốn học để xử lí số liệu đã thu thập
được nhằm tăng độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của quản lí hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ.
Chương 2: Thực trạng quản lí hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ tại các
trung tâm chuyên biệt trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương
trẻ
tự
3: Ngãi,
kỉ
tại
Các các
biện
trung
pháp
quản
tâm
chuyên
lí hoạt
biệt
động
trên

canđịa
thiệp
bànsớm
thành
cho
phố
Quảng
tỉnh
Quảng
Ngãi.


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG CAN THIỆP
••••

SỚM CHO TRẺ TỰ KỈ
1.1.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1.

Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi

Trên thế giới, “tự kỉ” đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu từ
những năm cuối thế kỉ XIX, nhưng mãi cho đến năm 1943, nhà tâm thần học
người Mỹ, Leo Kanner mới đưa ra lập luận rõ ràng về tự kỉ. Có khoảng 1%
dân số thế giới có rối loạn phổ tự kỉ (Theo trung tâm phòng chống dịch bệnh
Mỹ (CDC), 2014). Ở nhiều nước trên thế giới, “tự kỉ” trở nên phổ biến và trở

thành một vấn đề mang tính xã hội. Tại các nước phương tây như: Anh, Mỹ,
Úc,...rói loạn phổ tự kỉ đã được xã hội hóa và hầu như mọi người đều có những
hiểu biết nhất định về rối loạn này.
Tỉ lệ trẻ mắc chứng rối loạn phổ tự kỉ thay đổi nhanh chóng trong những
năm gần đây. Theo ước tính của Mạng lưới theo dõi Người khuyết tật tự kỉ và
theo dõi Người khuyết tật của CDC tại Mỹ, tỉ lệ này vào năm 2000 là 1/150
trẻ, năm 2010 là 1/68 tăng 119,4% và phổ biến hơn ở bé trai với tỉ lệ 4,5 lần so
với bé gái (1/41 và 1/189) (CDC, 2014). Tự kỉ là nhóm rối loạn phát triển
nhanh nhất (CDC, 2008)
- Nghiên cứu về phát hiện trẻ Tự kỉ
Jean Marc Itard (1774 - 1838) đã tiếp nhận một cậu bé “hoang dã” tên là
Victor. Những mô tả cho thấy, cậu bé không có khả năng hiểu và biểu đạt ngơn
ngữ, khơng có khả năng giao tiếp hoặc nhận thức, cách ứng xử xa lạ với cuộc
sống của xã hội loài người. Victor bị mất khả năng giao tiếp về mặt xã hội và
khơng có khả năng nhận thức như trẻ bình thường. Ngày nay, người ta cho
rằng Victor chính là TTK. Để khắc phục tình trạng này Itard đã nghĩ rằng giáo


dục TTK khác với những trẻ khác [1, trg.11].
Thuật ngữ Tự kỉ (Autism) được bác sỹ tâm thần người Thụy Sỹ Engen
Bleuler (1857 - 1940) đưa ra năm 1919 để mô tả giai đoạn bắt đầu của rối loạn
thần kinh ở người lớn, đây là hiện tượng mất nhận thức thực tế của người bệnh
khi cách ly với đời sống thực tại hằng ngày và nhận thức của người bệnh có xu
hướng khơng thống nhất với kinh nghiệm thơng thường của họ [1, trg.12].
Cho đến năm 1943 bác sỹ tâm thần người Mỹ là Leo Kanner mô tả trong
một bài báo với nhan đề “Autism Disturbance of Effective Contract”. Ông cho
rằng TTK là trẻ thiếu quan hệ tiếp xúc về mặt tình cảm với người khác; cách
thể hiện các thói quen hằng ngày rất giống nhau, tỉ mỉ và có tính rập khn;
khơng có ngơn ngữ nói hoặc ngơn ngữ nói thể hiện sự bất thường rõ rệt (nói
nhại lời, nói lí nhí, khơng nhìn vào mắt khi giao tiếp); rất thích xoay trịn các

đồ vật và thao tác rất khéo; có khả năng cao trong quan sát khơng gian và trí
nhớ “như con vẹt”; khó khăn trong học tập ở những lĩnh vực khác nhau; thích
độc thoại trong thế giới riêng của mình, khó khăn trong việc thực hiện các trị
chơi đóng vai theo chủ đề như cho búp bê ăn, nói chuyện điện thoại, bác sỹ
tiêm bệnh nhân; chỉ hiểu nghĩa đen của câu nói, thích tiếng động và vận động
lặp đi lặp lại đơn điệu: giới hạn đa dạng các hoạt động tự phát, mặc dù vẻ bề
ngồi nhanh nhẹn, thơng minh. Kanner nhấn mạnh triệu chứng tự kỉ có thể
phát hiện được ngay khi trẻ ra đời hoặc trong khoảng 30 tháng đầu. Cơng trình
khoa học của Kanner đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử giáo dục TTK,
ngày nay là cơ sở của nhiều cơng trình nghiên cứu tại nhiều nước thế giới, [1,
trg.12].
Năm 1944, một bác sỹ tâm thần người Áo là Hans Asperger (1906 - 1980)
sử dụng thuật ngữ Autism trong khi mơ tả những vấn đề xã hội trong nhóm trẻ
trai mà ông làm việc. Mô tả của ông như sau: ngơn ngữ của trẻ phát triển bình
thường, tuy nhiên trong cách diễn tả và cách phát âm nhiều cung điệu lên


xuống khơng thích hợp với hồn cảnh; có những rối loạn trong cách sử dụng
đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất “con, tôi” lẫn lộn với ngôi thứ hai và ba. Trẻ
vẫn có những tiếp xúc về mặt xã hội nhưng có xu hướng thích cơ đơn, đơn
độc. Rối loạn đặc biệt nhất trong hội chứng này là cách suy luận rườm rà, phức
tạp, khơng thích ứng với những điều kiện, hồn cảnh xã hội. Những trẻ này có
sở thích đặc biệt về mặt kỹ thuật và toán học và có khả năng nhớ tốt một cách
lạ thường [17], [18], [19], mọi người lấy tên của ông để đặt tên cho hội chứng
này là Asperger.
Cũng từ những năm 60 của thế kỉ XX, những hiểu biết về tự kỉ đã có những
thay đổi hết sức lớn lao. Đặc biệt, nghiên cứu của Michael Rutter đã chỉ ra
rằng cách chăm sóc, giáo dục của cha mẹ không phải là nguyên nhân chính dẫn
đến việc trẻ bị tự kỉ [17], [18].
Trong những năm 70 và 80 của thế kỉ XX, người ta bắt đầu xem xét đến

khái niệm phổ tự kỉ. Trong cuốn sách “Hiện tượng Tự kỉ”, Lorna Wing (1978)
đã tìm ra những dấu hiệu rối loạn tự kỉ liên quan đến nhân vật “sư huynh
Juniper”.
- Nghiên cứu về công cụ chẩn đoán, đánh giá trẻ tự kỉ
Năm 1996, Baron- Cohen, Allen và Gilber nghiên cứu công cụ sàng lọc Tự
kỉ. Bộ câu hỏi này có tên “Bảng đánh giá tự kỉ ở trẻ nhỏ” (Checklist for
Autism in Toddler - CHAT). Bộ câu hỏi CHAT này (gồm 9 dấu hiệu) có tính
đặc hiệu cao.
Năm 2001, Robin, Fein, Barton & Green bổ sung vào công cụ sàng lọc này
thêm 14 câu hỏi thuộc các lĩnh vực rối loạn vận động, quan hệ xã hội, bắt
chước và định hướng. Bộ câu hỏi bổ sung có tên là M-CHAT 2001, được dùng
để sàng lọc TTK trong độ tuổi 18 - 24 tháng.
Hội tâm thần học Mỹ, sau nhiều năm nghiên cứu năm 1994 đưa ra Sổ tay
chẩn đoán và thống kê các rối nhiễu tâm thần DSM-IV, bao gồm các tiêu chuẩn


chẩn đốn tự kỉ tìm ra những biểu hiện khiếm khuyết về chất lượng quan hệ xã
hội, chất lượng giao tiếp và mẫu một số hành vi bất thường.
Tiếp theo đó, tổ chức y tế thế giới (WHO) cũng đưa ra Bảng phân loại quốc
tế ICD (International Classification of Diseases) qui định những tiêu chuẩn
chẩn đoán các bệnh tâm thần trong đó bao gồm các tiêu chí đánh giá để chẩn
đoán tự kỉ [3].
- Nghiên cứu về phương pháp dạy trẻ tự kỉ
Một nghiên cứu có ứng dụng tích cực trong can thiệp sớm cho TTK là Ứng
dụng phân tích hành vi (Aplied Behavior Analyis-ABA). Đây là kết quả
nghiên cứu của Ivar Lovaas vào năm 1990 ở Đại học Los Angeles - California.
Andrew Bandy (nhà tâm lí Nhi) và Lori Frost (Nhà âm ngữ trị liệu) nghiên
cứu phương pháp PECS (Hệ thống giao tiếp thông qua trao đổi tranh - Picture
Exchange Communication System) ứng dụng vào can thiệp sớm cho TTK.
Có thể nói, các nghiên cứu về Tự kỉ trên thế giới chủ yếu được thực hiện ở

các nước phát triển như Anh, Pháp, Nhật Bản, Úc, Thụy Điển và đặc biệt là
Mỹ. Những nghiên cứu có đủ cả lí thuyết và thực nghiệm với nội dung chủ yếu
là phát hiện TTK, đưa ra các tiêu chí sàng lọc hay xác định tự kỉ, phương pháp
dạy cho TTK [3].
Tóm lại, nghiên cứu cơng tác chăm sóc, giáo dục cho trẻ tự kỉ là một lĩnh
vực nghiên cứu còn mới mẻ. Những cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực này ở
trên thế giới tuy nhiều nhưng chỉ tập trung vào nghiên cứu cách phát hiện,
chẩn đoán TTK, phương pháp dạy TTK, có rất ít cơng trình đi sâu nghiên cứu
về quản lí giáo dục TTK. Nếu được nghiên cứu sâu đề tài sẽ góp phần khơng
nhỏ vào q trình chăm sóc, giáo dục nâng cao chất lượng cuộc sống cho
1.1.2.

Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam

Ở Việt Nam, rối loạn phổ tự kỉ chỉ thực sự được biết đến ở những năm đầu
thế kỉ XXI và các nghiên cứu về rối loạn phổ tự kỉ cũng chỉ được tiến hành


trong khoảng gần hai mươi năm trở lại đây. Hầu hết các nghiên cứu dược tiến
hành trên các đối tượng trẻ bậc mầm non, một số ít trên trẻ bậc tiểu học. Việc
sử dụng các chương trình và các phương pháp can thiệp chủ yếu được kế thừa
từ các công trình nghiên cứu trên thế giới như: Phân tích hành vi ứng dụng
(ABA), Hệ thống giao tiếp bằng trao đổi tranh ảnh (PECS), Trị liệu cảm giác,
Trị liệu vận động (OT),.. .Bên cạnh đó, có hàng loạt các trung tâm, cơ sở thực
hiện công tác can thiệp sớm dành cho trẻ tự kỉ ra đời, mở ra một hướng đi mới
và không ngừng nâng cao nhận thức trong cộng đồng.
- Một số cơng trình nghiên cứu của các bác sỹ, nhà tâm lí, nhà chuyên gia
đầu ngành đã nghiên cứu về phát hiện và can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ
như:
Tác giả Nguyễn Văn Thành, một Việt kiều sống tại Thụy Sỹ, đã xuất bản

cuốn sách “Trẻ em tự kỉ phương thức giáo dục” [12]. Tài liệu đã phổ biến kiến
thức về cách chăm sóc, ni dạy TTK.
Tác giả Vũ Thị Bích Hạnh (2007), “Tự kỉ - phát hiện sớm và can thiệp
sớm”[5]. Tài liệu nêu lên khái niệm, các đặc điểm cơ bản, cách thức phát hiện
sớm, các hình thức hay phương pháp tiếp cận giúp cho phụ huynh có cái nhìn
và định đúng đắn trong vấn đề can thiệp cho trẻ tự kỉ.
Tác giả GS.TS BS Nguyễn Thanh Liêm, “Ni dạy trẻ có rối loạn phổ tự kỉ
trong mơi trường gia đình” [7], được biên soạn nhằm cung cấp cho bố mẹ, ông
bà của trẻ tự kỉ những kiến thức cơ bản nhất, thực tế nhất, dễ áp dụng nhất để
có thể hướng dẫn, giáo dục can thiệp trẻ tại nhà.
- Nghiên cứu về phương pháp dạy trẻ tự kỉ
Năm 2004, tác giả Đỗ Thị Thảo với đề tài “Xây dựng kế hoạch hỗ trợ giáo
viên và cha mẹ có con tự kỉ trong chương trình Can thiệp sớm tại Hà Nội”
[13].
Năm 2007, tác giả Nguyễn Nữ Tâm An với đề tài “Sử dụng phương pháp


TEACCH trong giáo dục trẻ tự kỉ tại Hà Nội” [1], cho thấy được một góc nhìn
về vấn đề định hướng và điều trị trẻ Tự kỉ thông qua giao tiếp, cách vận dụng
phương pháp TEACCH (Treatment and Education of Autistic and related
Communication handicapped Children) vào trong quá trình can thiệp sớm cho
trẻ tự kỉ.
Năm 2009, tác giả Ngô Xuân Điệp trong đề tài “Nghiên cứu nhận thức trẻ
tự kỉ tại Thành Phố Hồ Chí Minh” [4], đã cho thấy được thực trạng mức độ
nhận thức của trẻ tự kỉ và mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố chủ quan và
khách quan đến nhận thức của TTK.
Nguyễn Thị Hoàng Yến (Chủ nhiệm đề tài), Nguyễn Xuân Hải, Đỗ Thị
Thảo, Trần Thị Minh Thành, Nguyễn Nữ Tâm An, Đinh Nguyễn Trang Thu và
Đào Thị Bích Thủy, Nghiên cứu biện pháp can thiệp sớm và giáo dục hòa
nhập cho trẻ tự kỉ ở nước ta hiện nay và trong giai đoạn 2011 - 2020, số

11/2011/HĐ-ĐTĐL, từ việc phân tích tồn diện thực trạng vấn đề trẻ tự kỉ, can
thiệp sớm, giáo dục hoà nhập và bảo trợ xã hội cho trẻ tự kỉ ở Việt Nam, đề tài
xây dựng mô hình giải quyết vấn đề trẻ tự kỉ trên cơ sở sự phối hợp liên ngành
Y tế - Giáo dục - Bảo trợ xã hội. Hệ thống các biện pháp về can thiệp sớm,
giáo dục hoà nhập và các giải pháp về bảo trợ xã hội cho trẻ tự kỉ đã được đề
xuất. Mơ hình can thiệp sớm (tại gia đình, bệnh viện, trung tâm chuyên biệt,
trung tâm hỗ trợ hoà nhập) và giáo dục hoà nhập (bậc mầm non, tiểu học) đã
được thử nghiệm với những kết quả tích cực [20].
- Một số nghiên cứu về công tác quản lí
Nguyễn Mạnh Dũng (2016), Quản lí hoạt động của phịng hỗ trợ giáo dục
đặc biệt trong trường mầm non trên địa bàn một số tỉnh phía Bắc, Luận văn
Thạc sĩ quản lí giáo dục, Viện khoa học giáo dục Việt Nam. Đề tài nghiên cứu
về quản lý hoạt động của Phòng Hỗ trợ giáo dục đặc biệt trong trường mầm
non có trẻ khuyết tật học hịa nhập, đưa ra các giải pháp quản lý hoạt động của


Phòng Hỗ trợ giáo dục đặc biệt nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ khuyết
tật tuổi mầm non.[21]
Phạm Thị Thơm (2015), Quản lí giáo dục hịa nhập cho trẻ tăng động trong
trường mầm non hòa nhập, Luận văn Thạc sĩ quản lí giáo dục, Trường Đại học
Giáo dục, ĐHQGHN. Đề tài nghiên cứu đề xuất một số biện pháp quản lí giáo
dục hịa nhập cho trẻ tăng động trong trường mầm non hòa nhập nhằm giúp
cho cán bộ quản lí nhà trường, giáo viên và phụ huynh có thể áp dụng để nâng
cao khả năng tham gia học hòa nhập cho các em.[22]
Hiện tại, đã có khá nhiều nghiên cứu về phát hiện, sàng lọc, đánh giá,
phương pháp cũng như các hình thức can thiệp sớm dành cho trẻ tự kỉ. Nhưng
vấn đề về cơng tác quản lí hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ sao cho hiệu
quả thì chưa được nghiên cứu nhiều. Hy vọng đây là nghiên cứu mang tính
khai phá, mở đầu cho các nghiên cứu chun sâu hơn về cơng tác quản lí hoạt
động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ sau này.

1.2.

Các khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1.

Khái niệm trẻ tự kỉ

Ngay từ những năm 1774, những ghi chép và mô tả về rối loạn phổ tự kỉ đã
được ghi lại bởi bác sĩ người Pháp Jean Marc Itard, với các biểu hiện như hạn
chế trong việc hiểu và biểu đạt ngơn ngữ có lời cũng như khơng lời, khả năng
nhận thức và ngơn ngữ hạn chế, các hành vi thích ứng mơi trường xung quanh
khơng phù hợp với các tình huống xã hội. Nhưng mãi đến năm 1943, khái
niệm chính thức về“tự kỉ” mới được Kanner đưa ra với nội dung: Tự kỉ là sự
rút lui quá mức của một số trẻ em từ lúc mới bắt đầu cuộc sống, triệu chứng
đặc biệt của bệnh là những trẻ này không có khả năng trong việc thiết lập các
mối quan hệ bình thường với những người khác và hành động một cách bình
thường với các tình huống từ lúc chúng bắt đầu cuộc sống.
Theo ICD-10 định nghĩa: “Tự kỉ là một rối loạn lan tỏa phát triển được xác


định bởi một sự phát triển khơng bình thường và hay giảm sút biểu hiện rõ rệt
trước ba tuổi, bởi một hoạt động bất thường đặc trưng trong ba lĩnh vực: tương
tác xã hội, giao tiếp và những hành vi định hình lặp lại. Rối loạn này thường
xuất hiện ở bé trai nhiều hơn.”
Khái niệm “tự kỉ” của Liên hiệp quốc trong nghị quyết A/RES/62/139 ngày
21/01/2018: “Tự kỉ là một loại khuyết tật phát triển tồn tại suốt đời, thường
được thể hiện ra ngoài trong ba năm đầu đời, là hệ quả của rối loạn thần kinh
ảnh hưởng đến hoạt động của não bộ, ảnh hưởng đến trẻ em ở nhiều quốc gia
khơng phân biệt giới tính, chủng tộc hoặc điều kiện kinh tế - xã hội, và được

đặc trưng bởi khiếm khuyết trong tương tác xã hội, các vấn đề về giao tiếp
bằng lời nói và khơng lời, và có các hành vi, sở thích hạn hẹp và định hình lặp
lại.”
Các khái niệm tuy có khác nhau, nhưng đều đồng nhất trong các nội dung
cốt lõi của khái niệm tự kỉ: Tự kỉ là một rối loạn phát triển, được đặc trưng bởi
các khiếm khuyết cốt lõi như hạn chế về giao tiếp xã hội, hành vi bất thường
và sở thích mang tính hạn hẹp, lặp đi lặp lại. Mặc dù, rối loạn phổ tự kỉ có
những đặc điểm tương đối giống nhau nhưng phạm vi, mức độ, khởi phát và
tiến triển của các triệu chứng có khác nhau [2, trag 17].
1.2.2.

Khái niệm về can thiệp sớm

Can thiệp sớm là những chỉ dẫn ban đầu và các dịch vụ dành cho trẻ và gia
đình trẻ khuyết tật trước tiểu học nhằm kích thích và huy động sự phát triển tối
đa của trẻ, tạo điều kiện và chuẩn bị tốt cho trẻ tham gia vào hệ thống giáo dục
bình thường và cuộc sống sau này [8].
Can thiệp cho TTK càng sớm càng tốt và nên bắt đầu khi phát hiện ra trẻ có
những dấu hiệu bất thường. Can thiệp sớm giảm thiểu ảnh hưởng của tật đối
với sự phát triển của TTK và tận dụng tối đa cơ hội cho trẻ tham gia các hoạt
động bình thường từ khi cịn nhỏ. Can thiệp sớm thể hiện chức năng chữa bệnh


như ngăn chặn các điều kiện, rủi ro hoặc những phát triển bất thường do ảnh
hưởng của khuyết tật, can thiệp sớm có thể ngăn ngừa những nhân tố gây nguy
hiểm tới đứa trẻ hay những nguyên nhân dẫn tới sự chậm phát triển hoặc rối
loạn chức năng. Điều này có thể đạt được bằng cách cho trẻ có được sự kích
thích bằng các phương tiện hỗ trợ và sự tác động qua lại với môi trường xung
quanh ngay ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Can thiệp sớm sẽ giảm ảnh
hưởng của những bệnh mãn tính và khuyết tật chức năng lâu dài, ngăn chặn sự

xuất hiện của một tật thứ hai do hậu quả của tật thứ nhất gây nên.
1.2.3 Khái niệm hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ




•O

•A



Hoạt động CTS cho TTK về bản chất đó là tập hợp con của hoạt động giáo
dục. Bởi hoạt động GD cho người tự kỉ là hoạt động xuyên suốt cuộc đời của
người tự kỉ. Ở gốc độ của đề tài này chỉ nghiên cứu một giai đoạn trong quá
trình ấy.
- Về bản chất, giáo dục là quá trình truyền đạt và tiếp thu những kinh
nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người.
- Về hoạt động, giáo dục là quá trình tác động đến các đối tượng giáo dục
để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách.
Dù tiếp cận ở góc độ và phạm vi nào cũng có thể hiểu hoạt động giáo dục có
những đặc trưng sau:
+ Đây là hoạt động có mục đích, có tổ chức, diễn ra trong mối quan hệ
tương tác giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục.
+ Mục đích của hoạt động giáo dục là phát triển nhân cách của đối tượng
giáo dục theo chiều hướng mong muốn của xã hội, giúp đối tượng giáo dục có
thể hồ nhập và thích ứng với sự phát triển của xã hội.
Nói chung, hoạt động can thiệp sớm cho TTK là những hoạt động thường
bắt nguồn từ khả năng và những hạn chế của trẻ, nhằm cải thiện và nâng cao
khả năng tương tác xã hội, khả năng thích ứng trong các môi trường khác



nhau. Với các hình thức hoạt động can thiệp sau:
- Hoạt động can thiệp cá nhân
- Hoạt động can thiệp theo nhóm
- Hoạt động khác: Hoạt động trải nghiệm, giao lưu, văn nghệ, thể dục thể
thao,...
1.2.4.

Khái niệm quản lí giáo dục

"Quản lí là hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể
quản lí đến khách thể quản lí trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận
hành và đạt được mục đích của tổ chức " [14].
Nếu xem quản lí là một thuộc tính bất biến, nội tại của mọi hoạt động xã
hội, thì quản lí giáo dục cùng là một thuộc tính tất yếu của mọi hoạt động giáo
dục có mục đích.
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lí giáo dục, song thường người ta
đưa ra quan niệm quản lí giáo dục theo hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và vi
mơ.
a. Quản lí cấp vĩ mơ
Quản lí vĩ mơ tương ứng với khái niệm về quản lí một nền giáo dục (hệ
thống giáo dục) và quản lí vi mơ tương ứng với khái niệm về quản lí một nhà
trường.
Ở cấp độ vĩ mơ, quản lí giáo dục được hiểu là hệ thống tác động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lí vào hệ thống giáo dục quốc dân nhằm
huy động và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho mục tiêu
phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia
[14].
Như vậy, quản lí giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành,

phối hợp các lực lượng xã hội nhằm làm cho toàn bộ hệ thống giáo dục vận
hành theo đường lối nguyên lí giáo dục của Đảng, thực hiện có chất lượng và


hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra.
Chủ thể quản lí điều khiển các thành tố trong hệ thống quản lí thơng qua
hoạt động của các tổ chức thành viên trong hệ thống đó.
Tính chất chỉ huy - chấp hành là đặc trưng nổi trội trong quan hệ quản lí.
Tuy nhiên, chủ thể quản lí và đối tượng quản lí đều có mục đích chung. Quản lí
giáo dục có nhiệm vụ tạo ra và duy trì một mơi trường thuận lợi để mỗi cá
nhân có thể hoạt động đạt được hiệu quả cao trong quá trình đạt đến mục đích
chung.
b. Ở cấp độ vi mơ
"Quản lí giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch
của chủ thể quản lí vào hệ thống tổ chức giáo dục của nhà trường nhằm điều
khiển các thành tố trong hệ thống phối hợp hoạt động theo đúng chức năng,
đúng kế hoạch, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt được mục đích, mục tiêu
đã xác định với hiệu quả cao nhất" [14].
Tiếp cận theo góc độ điều khiển học, có thể hiểu q trình quản lí giáo dục
là hoạt động tổ chức và điều khiển quá trình giáo dục nhằm thực hiện có hiệu
quả mục đích, mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Theo khái niệm trên, quá trình quản lí giáo dục được hiểu như một q
trình vận động của các thành tố có mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong hệ
thống tổ chức của nhà trường. Hệ thống đó bao gồm các thành tố cơ bản là:
chủ thể quản lí, đối tượng quản lí, nội dung, phương pháp quản lí, mục tiêu
quản lí. Các thành tố đó ln vận động trong mối liên hệ tương tác lẫn nhau,
đồng thời diễn ra trong sự chi phối, tác động qua lại với mơi trường kinh tế,
chính trị, xã hội xung quanh.
1.2.5.


Khái niệm quản lí hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ.

Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu hoạt động CTS cho TTK được hiểu
là quá trình tác động có mục đích của đội ngũ quản lí lên các đối tượng quản lí


TTK ở các trung tâm nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động can
thiệp cho TTK trên cơ sở tối ưu hóa các nguồn lực.
Trong hoạt động can thiệp cho TTK có nhiều khía cạnh cần quan tâm, đó là
nội dung chương trình can thiệp, PP can thiệp, hình thức can thiệp, các lực
lượng tham gia can thiệp... Vì vậy cơng tác quản lí hoạt động can thiệp cho
TTK cần tiến hành một cách đồng nhất trên tất cả các lĩnh vực nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất.
1.3.

Lí luận về hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ

1.3.1.

Mục tiêu của hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ




•O

•A




Mục tiêu của hoạt động CTS cho TTK là giúp trẻ thích ứng với các mơi
trường khác nhau như: gia đình, nhà trường và xã hội. Cụ thể nó hướng đến
các mục tiêu sau:
* Giúp trẻ phát triển kĩ năng tương tác xã hội
Tương tác xã hội là bao gồm các kĩ năng bắt chước, giả vờ, đóng vai hay
hội thoại và luôn đi cùng với kĩ năng giao tiếp, giúp trẻ có sự tác động qua lại
với những người xung quanh. Phát triển kĩ năng tương tác xã hội giúp trẻ tự kỉ
có thể tự điều chỉnh được hành vi, kĩ năng, thái độ và giao tiếp với mọi người
một cách phù hợp.
* Giúp trẻ phát triển kĩ năng giao tiếp
Kĩ năng giao tiếp là điều kiện tiên quyết trong quá trình phát triển của trẻ tự
kỉ. Với trẻ tự kỉ thì đây là một trong những khiếm khuyết cốt lõi cần khắc
phục, vì vậy cần tập trung rèn luyện các kĩ năng: nghe hiểu, thực hiện mệnh
lệnh, diễn đạt, hội thoại.giúp trẻ về cơ bản có thể giao tiếp với những người
xung quanh.
* Giúp trẻ phát triển nhận thức - ngơn ngữ
Muốn trẻ có thể giao tiếp với mọi người thì trước tiên phải dạy trẻ khả năng
nhận thức tư duy, xử lí những tình huống thơng qua các mệnh lệnh, yêu cầu


đơn giản, sau đó sẽ phát triển ngơn ngữ, tăng cường nhận thức- ngôn ngữ cho
trẻ thông qua các chủ đề, chủ điểm và thế giới xung quanh.
* Giúp trẻ giảm thiểu các hành vi bất thường
Hầu hết trẻ tự kỉ điều có những hành vi bất thường, có những hành vi chỉ
mang tính xoa dịu cảm giác mà khơng gây tổn hại gì, có những hành vi có thể
gây tổn hại đến bản thân và những người xung quanh, gây trở ngại cho việc
hòa nhập của trẻ sau này. Điều cần làm là điều chỉnh các hành vi gây tổn hại có
thể loại bỏ hoặc chuyển hướng qua các hành vi có lợi, chấp nhận được.
* Giúp trẻ điều hòa cảm giác
Rối loạn cảm giác ở một hay nhiều giác quan là khiếm khuyết cốt lõi của

trẻ tự kỉ, rối loạn này làm ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận thơng tin và xử lí
thơng tin ở trẻ, mục tiêu của hoạt động can thiệp là giúp các em điều hòa cảm
giác ở ngưỡng cho phép và điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với quy tắc
ứng xử trong q trình giao tiếp.
* Giúp trẻ có thể tự phục vụ bản thân
Đa số trẻ tự kỉ không thể tự phục vụ cho bản thân, còn phụ thuộc nhiều vào
gia đình và khó thích nghi với mơi trường mới, điều này làm rào cản cho khả
năng hòa nhập cộng đồng sau này. Nên việc hình thành các kĩ năng tự phục vụ
và thích nghi với các mơi trường khác nhau là rất cần thiết đối với trẻ tự kỉ.
* Giúp trẻ có thể sống độc lập
Mục tiêu sau cùng là định hướng cho trẻ có thể sống độc lập sau này mà
khơng phụ thuộc vào gia đình, bằng cách trang bị các kĩ năng mềm, kĩ năng
sinh tồn thiết yếu cho trẻ ngay trong giai đoạn can thiệp sớm.
1.3.2.


Nội dung của hoạt động can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ
^y



• ^y

• Jr



1.3.2.1. Các nguyên tắc cơ bản của can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ
* Mọi trẻ em đều có thể học được
Bất kì trẻ nào cũng có thể tham gia việc học, khơng có bất cứ lí do gì chúng



không được học cả. Ngày nay, vấn đề này đã được đưa vào luật giáo dục, là trẻ
khuyết tật đều có quyền được vui chơi, học tập như bao trẻ em bình thường
khác.
* Trẻ tự kỉ cũng phải học các kĩ năng mà trẻ bình thường học và sử dụng
Trẻ tự kỉ trước hết là một đứa trẻ và nguyên tắc giáo dục là một đứa trẻ có
nhu cầu đặc biệt cần được nhìn nhận trước hết là một đứa trẻ, những nhu cầu
đặc biệt hoặc khuyết tật là thứ hai. Sự phát triển của trẻ tự kỉ cũng tuân theo
tiến trình, quy luật như trẻ bình thường, tuy nhiên có chậm hơn ở những khía
cạnh
* Những năm đầu tiên rất cần để can thiệp
Những năm đầu tiên trong cuộc đời của đứa trẻ là rất quan trọng. Đây là
thời gian cho nền tảng của cuộc sống được hình thành. Một nền tảng tốt tạo
cho đứa trẻ cơ hội để có một cuộc sống hạnh phúc và ý nghĩa, đồng thời để
chúng có thể trở thành những thành viên có ích cho xã hội.
* Cha mẹ là những người quan trọng nhất đối với sự phát triển của trẻ
Mối quan hệ giữa cha mẹ - con cái có ý nghĩa quan trọng cho sự thành
công của công tác can thiệp sớm. Phụ huynh không chỉ là người tiếp xúc với
trẻ nhiều nhất mà cịn là người hiểu trẻ, chăm sóc trẻ bằng cả tình thương ruột
thịt.
1.3.2.2. Quy trình thực hiện can thiệp sớm cho trẻ tự kỉ
Bước 1: Sàng lọc
Các PP sàng lọc TTK: Phỏng vấn thơng tin từ phía gia đình trẻ thơng qua
phỏng vấn tiểu sử, sự phát triển và các vấn đề mà cha mẹ trẻ lo lắng; Quan sát
trẻ; tương tác trực tiếp với trẻ; sử dụng các công cụ sàng lọc,. để đảm bảo chất
lượng cho việc sàng lọc, cần chuẩn bị trước cho hoạt động sàng lọc; sổ và bút
để viết; các trắc nghiệm sàng lọc phù hợp; một ít đồ chơi; một ít sách truyện,
bút, giấy màu; một ít đồ ăn;...



×