Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Cái tôi trữ tình trong thơ nguyễn khuyến và trần tế xương từ góc nhìn so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (996.25 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

LÝ THỊ NGỌC MAI

“CÁI TƠI” TRỮ TÌNH TRONG THƠ
NGUYỄN KHUYẾN VÀ TRẦN TẾ XƢƠNG TỪ GĨC NHÌN SO SÁNH

Chun ngành : Văn học Việt Nam
Mã số

: 60 22 01 21

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. PHẠM THỊ NGỌC HOA


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của TS. Phạm Thị Ngọc Hoa. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa được cơng bố trong bất cứ một cơng
trình nghiên cứu nào.


M C
TRANG PH

C

ÌA

LỜI CAM ĐOAN


M C

C

Trang

1. Lí do chọn đề tài .................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................... 12
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 13
6. Cấu trúc luận văn ............................................................................... 13
Chƣơng 1. NGUYỄN KHUYẾN, TRẦN TẾ XƢƠNG - CON NGƢỜI
VÀ THỜI ĐẠI ............................................................................................. 15
1.1. ối cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX ................. 15
1.1.1. Xã hội nửa thực dân, phong kiến đầy biến động ........................ 15
1.1.2. Nguyễn Khuyến, Tú Xương - Những nhà nho cuối mùa của chế
độ phong kiến ........................................................................................ 18
1.2. Hình tƣợng “cái tơi” trữ tình trong thơ ca trung đại ............... 22
1.2.1. Giới thuyết về “cái tơi” trữ tình trong thơ ca trung đại...............22
1.2.2. Nguyễn Khuyến với “cái tơi” trữ tình của một bậc cao nho....... 25
1.2.3. Tú Xương với “cái tôi” trữ tình nhà Nho thị dân........................ 29
Tiểu kết ................................................................................................. 33
Chƣơng 2. BIỂU HIỆN “CÁI TƠI” TRỮ TÌNH TRONG THƠ
NGUYỄN KHUYẾN, TRẦN TẾ XƢƠNG - TỪ GĨC NHÌN SO SÁNH.. 34
2.1. Nguyễn Khuyến - “cái tơi” trữ tình cao nhã, thâm thúy .......... 34
2.1.1. “Cái tôi” sâu lắng, khắc khoải niềm đau ..................................... 34
2.1.2. “Cái tôi” dung chứa tiếng cười trào lộng, u mua ........................ 41



2.2. Tú Xƣơng - “cái tôi” bi phẫn, tuyệt vọng trƣớc thời cuộc ....... 46
2.2.1. “Cái tơi” trữ tình sâu lắng, bế tắc ................................................ 46
2.2.2. “Cái tôi” tự trào - con người trượt chuẩn .................................... 52
2.3. Sự tƣơng đồng và khác biệt của “cái tơi” trữ tình Nguyễn
Khuyến, Tú Xƣơng ..................................................................................... 57
2.3.1. Sự gặp gỡ giữa “niềm đau” và “tiếng cười” trong thơ Nguyễn
Khuyến, Tú Xương........................................................................................ 57
2.3.2. Sự khác biệt giữa “Cái tôi” trầm tĩnh Nguyễn Khuyến và “cái tôi”
bi phẫn Tú Xương ......................................................................................... 62
Tiểu kết ................................................................................................. 69
Chƣơng 3. PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN
KHUYẾN, TRẦN TẾ XƢƠNG - TỪ GĨC NHÌN SO SÁNH ................. 70
3.1. Ngơn ngữ nghệ thuật và hình ảnh thơ thể hiện “cái tơi” trữ
tình Nguyễn Khuyến ................................................................................... 72
3.1.1. Nghệ thuật sử dụng đại từ nhân xưng - một cách vinh danh chủ thể. 72
3.1.2. Nghệ thuật tổ chức, sắp xếp hình ảnh thể hiện “cái tơi” trữ tình
Nguyễn Khuyến ............................................................................................ 75
3.2. Hệ thống ngơn ngữ và hình ảnh thể hiện “cái tơi” trữ tình trong thơ
Tú Xương…………………………………………….. ................................ 79
3.2.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ thị dân thể hiện “cái tôi” ngông
ngạo .............................................................................................................. 79
3.2.2. Hệ thống hình ảnh xã hội thị dân trong thơ Tú Xương............... 82
3.3. Tương đồng và khác biệt trong phương thức thể hiện “cái tôi” của
Nguyễn Khuyến, Tú Xương .......................................................................... 85
3.3.1. Sự gặp gỡ về phức điệu trào phúng, trữ tình trong phương thức thể
hiện của hai nhà thơ ...................................................................................... 85
3.3.2. Sự khác biệt trong phương thức thể hiện “cái tôi” “cổ điển”


Nguyễn Khuyến và “cái tôi” “bung bứt” Tú Xương..................................... 88

Tiểu kết ............................................................................................... 94
KẾT LUẬN ........................................................................................ 95
DANH M C TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................... 99
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI UẬN V N THẠC S

ản sao


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn chương không chỉ là bức tranh đời sống mà còn là bức chân
dung tinh thần của chủ thể sáng tạo. Chủ thể ngoài tư cách là người sáng tạo
ra những giá trị tinh thần còn là đối tượng miêu tả, biểu hiện; chủ thể không
chỉ được xem như là một yếu tố tạo nên nội dung tác phẩm mà còn được xem
như là một phương tiện bộc lộ nội dung của tác phẩm, là một thành tố của thế
giới nghệ thuật do tác phẩm tạo ra. Ở những nhà thơ có cá tính sáng tạo độc
đáo thì chủ thể càng in đậm trong sáng tác của họ. Một số nhà thơ tiêu biểu
cho giai đoạn văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX càng minh chứng rõ
điều đó.
Xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX có nhiều biến động ngay khi mở
đầu tiếng súng xâm lược của Thực dân Pháp vào năm 1858. Một xã hội hiện
diện với nhiều hình thái ý thức, tư tưởng, cái cũ chưa mất đi, cái mới chưa
được hình thành. Cái mới chen lẫn cái cũ, kiểu Tây hòa trộn kiểu ta…, tất cả
lẫn lộn, đan chen vào nhau cùng với bao sự nhố lăng, kệch cỡm… Đó chính là
một trong những ngun nhân cơ bản cho một bộ phận văn học trào phúng
xuất hiện.
Văn học trung đại từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX về cơ bản phát triển
trong môi trường xã hội phong kiến với ý thức hệ nho giáo. Từ trước thế kỷ
XVIII, tiếng cười của các nhà nho, nhà thơ “bật ra” sau nỗi ưu tư đã xuất hiện

trong thơ văn, đặc biệt là trong nhiều sáng tác khuyết danh. Song, phải đến
thế kỷ XIX, khi Nho giáo đã bộc lộ những mặt hạn chế không thể khắc phục
trước sự xâm nhập của thực dân phương Tây thì đằng sau tấc lịng ưu ái, tiếng
cười châm biếm, đả kích mới đến độ cao trào.
1.2. Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương là đại biểu xuất sắc của làng
thơ trào phúng Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ XIX. Một trong những


2
lý do làm cho thơ trào phúng Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương có sức sống
trường tồn và ngày càng khẳng định vị thế của mình trên văn đàn nghệ thuật
chính là chất trữ tình ẩn sau tiếng cười đả kích sâu cay theo hướng phản tỉnh,
trào phúng và phủ định thực tại.
Tuy có sự chênh lệch về tuổi tác, về đường công danh, nhưng Nguyễn
Khuyến và Trần Tế Xương có một số điểm gần gũi trong cách nhìn nhận và
đánh giá thời cuộc. Bức tranh thời đại qua cái nhìn của hai nhà thơ cùng thời
là một bức tranh xã hội với nhiều mảng màu đậm, nhạt, trắng, đen... Ở đó,
dung chứa một trái tim sâu lắng với đời và cả tiếng cười u mua, trào lộng…
Tuy nhiên, thể hiện niềm đau và tiếng cười chua cay trước thời đại của
những nhà nho vẫn có những “cung bậc” khác nhau. Với Nguyễn Khuyến,
nhà Nho “đại nhân quân tử”, đằng sau nỗi niềm trầm lắng ưu tư thời cuộc là
tiếng cười nhẹ nhàng thâm thúy, kín đáo “khuyên răn”. GS. Dương Quảng
Hàm nhận định: “Nguyễn Khuyến chỉ trích thói đời một cách nhẹ nhàng kín
đáo, rõ ràng bậc đại nhân quân tử muốn dùng lời văn trào phúng để khuyên
răn người đời” [19, tr.38]. Nhà nho thị dân, Trần Tế Xương “ban ngày” ln
dí dỏm sâu cay, cười cợt đả kích vào mọi đối tượng để rồi “ban đêm” lại trở
về với chính mình trong thui thủi, cơ đơn. GS. Nguyễn Đình Chú nhận xét:
“Có hai Tú Xương trong thơ: Một ban ngày và một ban đêm, ban ngày thì
xơng xáo, quan sát nghe ngóng săn tìm mọi thứ để rồi phá lên những trận đòn
cười như muốn xé xác chúng ra. Nhưng ban đêm khi một mình với bóng thì

chao ơi! Buồn ơi là buồn!” [5, tr.62].
Như vậy, hai nhà nho Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương trong cùng
thời đại lịch sử đầy giông bão đều mang hai tâm sự buồn vui trước thế sự
nhân sinh và cùng trải lòng trên những trang thơ đậm tiếng cười trào lộng lẫn
những tâm sự sâu kín u uẩn. Cùng khóc, cùng cười trước con người, cuộc đời
và số phận dân tộc, nhưng giọng thơ của hai nhà nho cùng thời chẳng hề


3
giống nhau, nói như nhà thơ Chế Lan Viên: Yên Đỗ khóc dẫu cười khơng thể
giấu/ Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh.
Thơ văn Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương được coi là thành tựu cuối
cùng của nền văn học trung đại Việt Nam. Nghiên cứu thơ văn Nguyễn
Khuyến và Trần Tế Xương, hơn trăm năm nay đã được quan tâm trên nhiều
bình diện. Kế thừa thành tựu những cơng trình đi trước, chúng tơi tiếp tục tìm
hiểu một khía cạnh khác về sự đan xen các tâm trạng của hai nhà nho trong
sáng tạo nghệ thuật được thể hiện qua thơ. Từ đó, chúng tơi nhận diện hình
tượng “cái tơi” trữ tình được thể hiện trong thơ qua sự phức hợp các giọng
điệu của mỗi nhà thơ, từ góc nhìn so sánh.
Đề tài “Cái tơi” trữ tình trong thơ Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương
- Từ góc nhìn so sánh của chúng tơi được hình thành, xuất phát từ những lý
do trên.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương là những nhà thơ lớn, những nhân
cách lớn của dân tộc. Sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Khuyến và Tú Xương được
đánh giá cao. Việc nghiên cứu thơ văn của hai nhà thơ cũng đạt được nhiều
thành tựu trên nhiều phương diện: sưu tầm, dịch thuật, giới thiệu, nghiên cứu…
Trong phạm vi liên quan đến đề tài, chúng tơi lược thuật một số cơng trình
nghiên cứu sau.
Nghiên cứu sự nghiệp thơ ca của nhà Nho Nguyễn Khuyến, một người

luôn coi trọng danh dự và tỉnh táo với cơng danh phú q, trong cơng trình
nghiên cứu “Thi hào Nguyễn Khuyến - đời và thơ” do Nguyễn Huệ Chi (chủ
biên), tác giả nhận ra con người “thực” Nguyễn Khuyến được thể hiện trong
thơ khá rõ. Đó là một nhà nho có nhân cách trong sáng, tâm hồn cao thượng
tồn tại giữa một xã hội nhố nhăng tốt xấu, thực hư lẫn lộn. GS. Nguyễn Huệ
Chi nhận định: “Nhận thức ra được sự bất lực của bản thân và cả lớp người


4

cùng thế hệ, Nguyễn Khuyến châm biếm, phê phán, chê trách những mặt hạn
chế của lớp người đó. Vì thế mà trong đối tượng bị phê phán kia có chính
hình bóng con người nhà thơ… Sự bộc lộ cái tơi trữ tình tác giả đã thực sự
góp phần tạo cho thơ trào phúng Nguyễn Khuyến có bản sắc độc đáo” [1,
tr.46]. Nhận định trên đã chỉ ra trong thơ trào phúng độc đáo của Nguyễn
Khuyến có “hình bóng” con người nhà thơ với “cái tơi trữ tình” độc đáo.
Nhận xét này gợi dẫn chúng tơi tìm hiểu cái tơi nhà nho Nguyễn Khuyến
trong sự đối sánh với cái tôi nhà Nho cùng thời Trần Tế Xương.
Tìm hiểu tâm sự Nguyễn Khuyến qua một số bài thơ “Thu”, GS. Lê Trí
Viễn khẳng định: “Nhà thơ say vì nỗi buồn trước vận nước và bứt rứt khơn
ngi trong lịng. Mượn vài chén rượu cho khuây nhưng uống vào lại thấy nỗi
niềm ấy hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo đến cả cảnh vật đêm thu. Có những
lúc khơng rượu và tâm trạng chừng vui hơn, cụ Tam Nguyên đã tự cười mình
và cũng thấy người mình như say: “Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say” kia mà!”
[22, tr.359]. Có hai con người trong một Nguyễn Khuyến; con người “tâm
trạng” đầy ưu thời mẫn thế và con người “tự trào”. Hai con người ấy, đơi khi
khó tách bạch, nó hịa vào nhau, đan cài vào nhau trong tình huống “dở tỉnh
say”, và dù hiển hiện kiểu“con người” nào, “cái tơi” trữ tình nhà thơ cũng bộc
lộ trên những trang thơ khá rõ.
Nghiên cứu về những nhà thơ cổ điển Việt Nam, nhà thơ Xuân Diệu

dành cho Nguyễn Khuyến những lời nhận định trân trọng: “Nguyễn Khuyến
luôn nghĩ đến danh tiết. Ngồi trước đèn, ơng nhìn con thiêu thân nghĩ ngợi về
phẩm chất của nó, thấy ở nó một tượng trưng: Biết tìm đến nơi sáng mà chết,
và không chết hăng máu một lúc, ung dung bay lượn như suy nghĩ trước rồi
mới chết (Xuân dạ liên nga) (…). Cái tâm huyết Nguyễn Khuyến bàng bạc
trong thơ, kết đọng lại trong nhiều bài thơ Nơm rất hay (Nghe cuốc kêu).
Tiếng kêu có máu, khắc khoải, tiếng huyết kêu: mất nước! nhớ nước!”[10,


5
tr.65]. Đó là hình ảnh nhà nho cao nhã ln kín đáo, thâm thúy gửi gắm tâm
sự nặng lịng trên những trang thơ. Bên trong một nhà nho uyên thâm, cịn có
bóng dáng của nhà thơ trào phúng làng n Đỗ sâu sắc. Hai “con người” này
hòa vào nhau trong một bậc “đại nho, cao sĩ” Nguyễn Khuyến giữa thời kỳ
lịch sử xã hội rối ren tạo cho thơ ông một phức điệu thơ trữ tình và trào phúng
đặc sắc.
Trong cơng trình nghiên cứu “Việt Nam văn học sử yếu”, GS. Dương
Quảng Hàm đặt vị trí Nguyễn Khuyến vào hàng ngũ các nhà thơ trào phúng
nổi tiếng của văn học dân tộc. Nhìn ở góc độ con người tự trào trong thơ
Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu cũng nhận định: “Nguyễn Khuyến cười chế nhẹ
nhàng, hóm hỉnh khơng cấu xé vào nhân vật, sự vật như Tú Xương (…). Đây
cũng là một thứ u mua (humour) “phớt ăng lê”, và đây là một thứ cười “mát”,
nói “mát”, chửi “mát” theo lối của Việt Nam, nói ngọt mà lọt đến xương, rất
sâu sắc !” [6,tr.102]. Nhận xét trên cho thấy trong tiếng cười u mua, “chửi
mát”, “cười mát” của Nguyễn Khuyến khác với tiếng cười “cấu xé vào nhân
vật” của Tú Xương. Rõ ràng, hai nhà nho cùng thời này đã cất lên tiếng cười
“chua chát” như nhau, nhưng trong sắc thái giọng điệu có phần riêng biệt
khác nhau.
Trong Cơng trình nghiên cứu “Văn học trung đại Việt Nam” (GS.
Nguyễn Đăng Na chủ biên), nhận định về Nguyễn Khuyến, tác giả cho rằng:

“Nguyễn Khuyến là một gương mặt độc đáo, đại diện cho lớp nho sĩ cuối thế
kỷ XIX, yêu nước thương nhà nhưng bế tắc về lý tưởng và lúng túng trong
hành động (…) Nhẹ nhàng, trân trọng, sâu lắng và không khỏi pha chút đắng
cay suy ngẫm…, tất cả được thu kết lại trong “hạt lệ” cạn kiệt khổ đau của thơ
ơng. Đó là tâm huyết của một tài năng xuất chúng, một tâm hồn trong sáng,
bình dị, nhân ái đầy tin yêu” [55, tr.306]. Một Nguyễn Khuyến đại diện cho lớp
nho sĩ cuối thế kỷ XIX, yêu nước thương dân nhưng “bế tắc về lý tưởng và


6
lúng túng trong hành động” đã hiện diện trong những vần thơ đa giọng điệu.
Nghiên cứu thơ văn Nguyễn Khuyến trên phương diện kiểu hình tượng
tác giả trong tác phẩm, trong cơng trình nghiên cứu Loại hình văn học trung
đại Việt Nam, PGS.TS. Biện Minh Điền nhận định: “Ta có thể nhận thấy
những biến thức sinh động từ các mô hình, chuẩn mực của văn học nhà nho
trong thơ Nguyễn Khuyến, có thể nhận thấy kiểu hình tượng tác giả, hình
tượng nhân vật trữ tình truyền thống nhưng mang dấu ấn cá tính nhà nho cũng
đầy sức sống trong thơ ơng (…). Từ cái nhìn kín đáo, thâm thúy, bao dung…,
thao thức vận đời vận nước… đến hổ thẹn dằn vặt vì sự bất lực của kẻ sĩ…”
[13, tr.173]. Như vậy, trên những trang thơ Nguyễn Khuyến mang “dấu ấn cá
tính nhà nho” khá rõ.
Tuy khơng cùng vị thế như Nguyễn Khuyến, nhưng Trần Tế Xương
cũng luôn được nhắc đến là một nhà Nho cuối mùa cùng thời đại. Nhà nho
“thị dân” Trần Tế Xương cũng có một số điểm tương đồng với nhà nho “đại
nhân” Nguyễn Khuyến trong các cung bậc cảm xúc khi thể hiện trong thơ.
Nghiên cứu về thơ Trần Tế Xương, trong cơng trình: “Trong dịng sơng Vị,
phê bình văn chương và thân thế Trần Tế Xương”, Trần Thanh Mại khẳng
định giọng thơ trào phúng Tú Xương “dung chứa” nhiều gam độ: “… Giọng
phong lưu đã chiếm phần quan trọng nhất trong văn nghiệp của ông, chẳng
qua là những tiếng cười gàn, “cười ra nước mắt” để che đậy cái “khóc sợ

càng thêm hổ ngươi” mà thôi” [18, tr.49]. Cùng là tiếng cười “cười chua
chát” về thế thái nhân tình đảo lộn mọi trật tự, kỷ cương, nhưng tiếng cười
của ông Tú thành Nam là tiếng cười chua chát“cười ra nước mắt”.
Các nhà soạn giả văn học đã đưa thơ văn Nguyễn Khuyến và Tú Xương
vào “Hợp tuyển thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX” như một sự khẳng
định về tài năng sáng tác của hải nhà thơ. Chế Lan Viên chia thơ văn trào
phúng Việt Nam xưa nay thành hai dòng: lớn và bé. Lớn là có sự kết hợp giữa


7

trào phúng và trữ tình, bé là khơng có hoặc ít có sự kết hợp giữa trào phúng
và trữ tình; Nguyễn Khuyến và Tú Xương thuộc dòng lớn.” [5, tr.40]. Cách
phân chia trên, cho thấy có sự gặp gỡ trong sáng tác nghệ thuật qua việc “kết
hợp giữa trào phúng và trữ tình” trong việc thể hiện cái tơi của hai nhà thơ
cùng thời Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương.
Nghiên cứu về phong cách thể hiện thơ “khơng tắt gió”, “khơng bay ra
khói” của Tú Xương, Nguyễn Tn lý giải điều đó chính là vì: “Thơ Tú
Xương đi bằng cả hai chân: hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện thực ở
người Tú Xương chỉ làm một cẳng chân trái tả thực, chủ đạo cho đà thơ là ở
chân phải mà Tú Xương đã băng được mình tới chúng ta bằng nước bước
lãng mạn trữ tình [29, tr.72]. Rõ ràng, trong thơ Trần Tế Xương có sự kết hợp
hài hịa hai chân “hiện thực và trữ tình, hiện thực và lãng mạn”. Sự kết hợp ấy
đã tạo cho thơ Trần Tế Xương có một lối đi riêng, khó lẫn.
Tú Xương dù có làm thơ theo kiểu “xuất khẩu thành chương” cười cợt
giễu nhại cuộc đời hay có lúc nào đó cầm bút mà trải lịng trên những trang
thơ thì dứt khốt vẫn khơng phải thơ ra từ miệng, từ bút, mà trước hết là từ
cõi lòng, từ cõi tâm… Cái tâm tức là thế giới trữ tình của chính nhà thơ, nó
gắn liền với vận mệnh của đất nước, với thời thế, với giai cấp và với chính cả
ngay số mệnh của nhà thơ giữa cuộc đời… Nhận xét về “gốc rễ” trào phúng

và trữ tình trong thơ Trần Tế Xương, GS. Nguyễn Đình Chú nhận định: “Tú
Xương được mệnh danh là nhà thơ trào phúng kiệt xuất, trước hết cũng là nhờ
có cái “tâm” (…). Cõi tâm tức là thế giới trữ tình trong thơ Tú Xương. Nó gắn
với vận mệnh đất nước, với thời thế, với giai cấp Tú đã đưa chính mình vào
thơ mình như một nhân vật khách thể: Nhân vật Tú Xương, có cá tính rõ rệt
và ít nhiều có ý nghĩa điển hình sâu sắc cho cả một lớp người, lớp người của
Tú Xương trong một thời buổi, thời buổi của Tú Xương” [4, tr.27]. Như vậy,
nhân vật trữ tình trong thơ Tú Xương, hay “cái tơi” trữ tình phần nào được thể


8
hiện chính ngay số mệnh nhà thơ giữa cuộc đời.
Trong cuốn Văn học Trung đại Việt Nam, nghiên cứu về hiện tượng
ngôn ngữ “độc đáo” trên phương diện trào phúng - hiện thực của thơ Tú
Xương, GS. Nguyễn Đăng Na nhận định: “Thơ Trần Tế Xương có lắm bài
hay, dù trữ tình hay trào phúng. Những bài thơ xuất sắc của ông hay cả ý lẫn
lời, cấu tứ và sử dụng ngơn từ độc đáo. Tuy nhiên, nói đến thơ Trần Tế
Xương, cái phong cách gây ấn tượng nhất lại tập trung ở phương diện trào
phúng, đả kích” [56, tr.318].
Nghiên cứu thơ và cuộc đời con người nhà thơ biểu hiện trong thơ Trần
Tế Xương, Xuân Diệu cho rằng: “Có sự thống nhất hai luồng trữ tình và trào
phúng trong một con người: một trái tim, một linh hồn, một trí tuệ, một tài
năng của một thi sĩ, nhà thơ lớn Tú Xương !” [6 tr.137]. Nhận xét của Xuân
Diệu góp thêm sự khẳng định có hai luồng trữ tình và trào phúng đan xen
trong một con người: một trái tim, một linh hồn, một trí tuệ, một tài năng của
một thi sĩ Tú Xương.
Trên Tạp chí Sáng tạo năm 1957, Nguyễn Sỹ Tế có bài viết “Hệ thống
trào phúng của Trần Tế Xương”. Nghiên cứu sâu sắc hệ thống “tiếng cười”
trong thơ Trần Tế Xương, tác giả đã khái quát một cách ngắn gọn truyền
thống trào phúng trong văn học Việt Nam, phân tích nguyên nhân và đối

tượng trào phúng trong thơ Tú Xương là do yếu tố khách quan xã hội cộng
với tài thơ trào phúng của nhà thơ “non Côi - sông Vị”. Tác giả nhấn mạnh:
“Tú Xương không đạo đức hão, không vị nể, không tự ái, khơng nhẹ nhàng
kín đáo, khơng đại cương lý thuyết, không gián tiếp, không sợ người ta
giận thù, không sợ sự thật… đó là những yếu tố góp phần tạo nên tính đặc
sắc trong phương thức biểu hiện nghệ thuật của thơ văn Trần Tế Xương”
[81, tr.36].
Từ lâu nay, nghiên cứu về Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương trên


9
nhiều phương diện, về con người cuộc đời; về nội dung phản ánh; về hình
thức thể hiện … đã có rất nhiều cơng trình đề cập đến. Thơ là tiếng lòng của
chủ thể. Dù sống cùng thời đại, cùng bước qua nền giáo dục Nho giáo, song
rõ ràng, tiếng thơ hai nhà thơ, nhà nho cuối mùa ở cuối thế kỷ XIX cất lên
trên những trang thơ hẳn chẳng thể trùng khớp nhau. Ở hai nhà thơ tài hoa
cùng thời này có những điểm tương đồng và cũng có những độc đáo trong
sáng tác nghệ thuật của mình. Đề cập đến vấn đề này, Xuân Diệu cho rằng:
“Nguyễn Khuyến là nhà đại nho, người cao sĩ trong thời kỳ bắt đầu mất nước,
bao nhiêu sự kiện phản ánh vào ông, bao nhiêu dằn vặt, tranh đấu trong tâm
hồn ông. Tú Xương chỉ đỗ tú tài, chỉ hơn anh đồ một bậc, danh vị trong xã hội
chưa đến là bao, cho nên dễ tung tẩy, dễ phá phách, dễ ăn nói, dễ viết thơ
phóng túng hơn! (…). Nguyễn Khuyến làm quan đế bậc quyền Tổng đốc, dẫu
sao cũng không thể trở xuống làm anh đồ, thầy tú, cho nên phải tự mình câu
thúc mình hơn (…). Cịn Tú Xương đã nói là nói đến mức cao độ, đến mức
điển hình, đến mức nổi bật hết tất cả những gì gai góc của vấn đề của sự vật,
tức là từ những gì sâu thẳm của mình mà nói ra. Đó là một giọng nói cất lên
từ tâm huyết, nó trào phúng, nó đả kích cũng là tâm huyết, nó trữ tình lại càng
tâm huyết, mà tâm huyết chứa đựng trong những lời thơ rất hay. Đó là vinh
quang của nhà thơ Tú Xương”[5, tr.125]. Rõ ràng, giữa hai nhà thơ, nhà nho

cùng thời này có những điểm tương đồng và khác biệt trong sự thể hiện “cái
tơi” trữ tình qua thơ.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai đại biểu xuất sắc nhất thuộc
khuynh hướng phản tỉnh, trào phúng và phủ định thực tại. Song, thơ văn ở hai
nhà thơ, nhà nho cuối mùa này vẫn có những “đường nét” riêng. Nhận xét về
điều này, Đặng Thai Mai cho rằng: “Yên Đổ với một vài người bạn vẫn tủm
tỉm những nụ cười khinh bỉ. Tú Xương chế giễu đời và tự chế giễu cả mình,
cười mình để cười đời” [13, tr.146]. Lý giải đôi chút về sự khác nhau giữa hai


10
nụ cười “cười mình cười đời” của Tú Xương và Nguyễn Khuyến, PGS.TS. Biện
Minh Điền giải thích: “Xuất phát điểm để Tam Nguyên Yên Đổ bước vào làng
văn sĩ Nho gia là hết sức thuận lợi (…). So với Yên Đổ thì Tú Xương bất lợi hơn
nhiều. Có lẽ một phần vì thế mà Tú Xương lắm phen buồn giận tư cách “nhà
văn” của mình: Muốn bỏ văn chương học võ biền” [13, tr.172].
Hơn một thế kỷ qua, nghiên cứu thơ văn Nguyễn Khuyến, Tú Xương,
có rất nhiều cơng trình tiêu biểu như: “Thi hào Nguyễn Khuyến - đời và thơ”
(Nguyễn Huệ Chi); “Nguyễn Khuyến - tác giả và tác phẩm” (Vũ Thanh);
“Luận về Nguyễn Khuyến” (Nguyễn Duy Diễn);“Nguyễn Khuyến, nhà thơ
Việt Nam kiệt xuất” (Văn Tân);“Nguyễn Khuyến - thân thế và thi văn” (Thế
Nguyên);“Tú Xương - Thơ, lời bình và giai thoại” (Mai Hương);“Thi pháp
thơ Tú Xương” (Hồ Giang Long); “Tú Xương - con người và nhà thơ” (Trần
Thanh Mại); “Thơ văn Trần Tế Xương” (Nguyễn Đình Chú, Lê Mai); “Trần
Tế Xương về tác gia và tác phẩm” (Vũ Văn Sỹ, Đinh Minh Hằng, Nguyễn
Hữu Sơn); “Thơ Tú Xương trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam”
(Đồn Hồng Ngun)… Đây là những cơng trình nghiên cứu, sưu tập về thơ
văn Tam nguyên Yên Đổ và Tú Xương một cách quy mơ, hệ thống. Những
cơng trình trên, đặt vấn đề nghiên cứu trên nhiều bình diện khác nhau, các nhà
nghiên cứu giải quyết theo mục đích của mình. Ở những cơng trình nghiên

cứu ít nhiều đều có quan tâm đến sự thể hiện con người Nguyễn Khuyến và
Tú Xương biểu hiện trong thơ.
Nghiên cứu trên phương thức nghệ thuật thể hiện của hai nhà thơ
Nguyễn Khuyến, Tú Xương cũng có rất nhiều cơng trình đề cập đến. Đánh
giá về những đóng góp lớn lao thơ Nơm trên phương diện nghệ thuật thể hiện
của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương trong dịng thơ Nơm Đường luật, GS.
Nguyễn Đăng Na cũng đã khẳng định: “Hai tác giả lớn cuối cùng của dịng
thơ Nơm Đường luật là Trần Tế Xương và Nguyễn Khuyến. Hai tác giả này


11
đã chuyển thơ Nôm Đường luật từ văn học trung đại sang văn học cận - hiện
đại” [55, tr.293]. Điều đó cho thấy, thơ Nơm Nguyễn Khuyến và Trần Tế
Xương có những đóng góp lớn trong việc chuyển biến từ văn học trung đại
sang văn học cận - hiện đại Việt Nam.
Cùng thời với người “bế tắc về lý tưởng” Nguyễn Khuyến, “ánh sao lạ
vụt sáng trên bầu trời văn chương nước Việt”, Trần Tế Xương cũng rơi vào bi
kịch “bế tắc”, bi kịch “con người thừa”. Nhận định về Trần Tế Xương, GS.
Nguyễn Đăng Na cho rằng: “Thơ ca Trần Tế Xương đã thể hiện một cách cụ
thể, sinh động tâm trạng chán nản, phẫn uất đến cực điểm của ông đối với
hiện thực cuộc sống đương thời (…). Thơ ơng cịn là giọng trào lộng đầm đìa
nước mắt của một nạn nhân trước bi kịch thi cử. Đây là mâu thuẫn giữa lý
tưởng và hiện thực” [53, tr.308]. Trước hiện thực xã hội như nhau, hai nhà
Nho cùng thời đã có những phương cách thể hiện cảm xúc khơng giống nhau
trong việc thể hiện cái tơi trữ tình.
Đặt trong tương quan thời đại, xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, hai
nhà Nho đều rơi vào “bi kịch”, đều giống nhau trong sự “bế tắc về lý tưởng”.
Hẳn nhiên, hành xử ở từng người là không giống nhau. Theo đánh giá của Vũ
Tiến Quỳnh về Nguyễn Khuyến “tuy có lúng túng, song đã kịp thời đi tìm sự
giải thốt “thử ướm mình qua nhiều tâm trạng, nhiều địa vị mong tìm nơi ẩn

náu yên ổn, khả dĩ đưa lại ít nhiều thanh thản cho tâm hồn trong bối cảnh đầy
bão tố” [68, tr.299]. Trong khi đó, Trần Tế Xương cũng “bế tắc” trong cái
đêm đen “lẩn quẩn” của xã hội, ơng lựa chọn cách thể hiện mình, ơng vung
vít, ngoa ngoắt, khinh mạn, chì chiết về giống bất nhân, rồi lại đau đáu với
người thân, với bạn bè… trong những lời chân thành hết mực. Để từ đó thơ ca
Trần Tế Xương đã thể hiện một cách cụ thể, sinh động tâm trạng chán nản,
phẫn uất đến cực điểm của nhà thơ. Tất cả những biểu hiện về “cái tơi” trữ
tình của hai nhà thơ đã thể hiện trong thơ khá rõ.


12
Nghiên cứu thơ văn Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương trên nhiều bình
diện khác nhau từ trước đến nay ln được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm,
tìm hiểu và có, những đánh giá nhận định xác đáng về biểu hiện cái tơi trữ
tình trong thơ của hai nhà thơ. Vì những mục đích nghiên cứu khác nhau,
phần lớn các cơng trình nghiên cứu độc lập hai nhà thơ hoặc đặt hai nhà thơ
trong sự đối sánh cũng chỉ để phục vụ cho mục đích nghiên cứu riêng. Những
cơng trình nghiên cứu trên sẽ là những gợi dẫn cần thiết để chúng tơi tiếp nối
đi vào tìm hiểu một cách hệ thống thơ ca của hai nhà Nho cùng thời với
những nét tương đồng và khác biệt trong việc thể hiện cái “tơi” trữ tình của
từng nhà thơ thể hiện trên thi phẩm.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là sự đối sánh giữa “cái tơi” trữ
tình trong thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Trên cơ sở so sánh sự thể hiện
“cái tôi” trữ tình trong thơ của hai nhà thơ, chúng tơi hướng đến làm rõ giá trị
nội dung và nghệ thuật trong hệ thống sáng tác, từ đó nhận diện sự suy
nghiệm trong tính đa diện, trầm lắng, xót xa ngay trong tiếng cười châm biếm
của mỗi nhà thơ.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hệ thống các bài thơ của hai tác giả,
Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Chúng tôi chọn cuốn Nguyễn Khuyến - tác

phẩm (Nguyễn Văn Huyền chủ biên) và cuốn Thơ văn Trần Tế Xương của
Nguyễn Đình Chú (1988), NXB Giáo dục Hà Nội để làm văn bản khảo sát.
Trong quá trình nghiên cứu, khảo sát văn bản, chúng tôi tham khảo, vận
dụng một số nhận xét, đánh giá từ những kết quả nghiên cứu của một số cơng
trình khác nhằm làm rõ hơn nội dung đề tài.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trong dịng chảy thời đại, trong bối cảnh lịch sử chung có cùng ý thức
hệ thời đại, những người sáng tác nghệ thuật, bên cạnh sự “tuân chuẩn” giống


13
nhau trên cái nhìn đại thể, mỗi cá nhân nhà thơ vẫn có sự khác biệt trong cách
nhìn, cách cảm, cách thể hiện… của mình trong từng thi phẩm.
Thơng qua việc khảo sát, phân tích “cái tơi” trữ tình trong thơ của
Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương, chúng tôi hướng đến đối sánh “cái tơi”
trữ tình thể hiện trong thơ của từng cá nhân tác giả. Đồng thời, qua nội dung
biểu hiện và phương thức nghệ thuật thể hiện “cái tôi” trong thơ của Nguyến
Khuyến và Tú Xương, việc dẫn ra những điểm tương đồng và khác biệt của
hai tác gia lớn trong dòng văn học Trung đại vào thời điểm Nho tàn cuối thế
kỷ XIX là mục đích của luận văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng linh hoạt một số phương
pháp cơ bản sau:
5.1.Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại: Khảo sát tồn bộ tác
phẩm chữ Nơm của Nguyễn Khuyến và Tú Xương để minh chứng nét tương
đồng, khác biệt giữa “cái tơi” trữ tình của hai nhà thơ.
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Là phương pháp phân tích giá
trị nội dung và nghệ thuật của hai hệ thống tác phẩm để minh chứng cho đề
tài này.
5.3. Phương pháp so sánh và đối chiếu: Trong quá trình nghiên cứu,

chúng tôi đặt thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương trong tương quan so sánh để
thấy được những nét chung và điểm khác biệt giữa hai nhà thơ. Bên cạnh, sự
so sánh, đối chiếu với một số tác giả khác cùng thời để làm nổi bật luận điểm
đề ra là hết sức cần thiết.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Nội
dung chính của khóa luận được chia thành 03 chương, cụ thể như sau:
Chƣơng 1: Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương - Con người và thời đại


14
Chƣơng 2: Biểu hiện “cái tơi” trữ tình trong thơ Nguyễn Khuyến, Trần
Tế Xương - Từ góc nhìn so sánh
Chƣơng 3: Phương thức nghệ thuật thơ Nguyễn Khuyến và Trần Tế
Xương - Từ góc nhìn so sánh


15
Chƣơng 1
NGUYỄN KHUYẾN, TRẦN TẾ XƢƠNG - CON NGƢỜI VÀ THỜI ĐẠI
1.1. ối cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX
1.1.1. Xã hội nửa thực dân, phong kiến đầy biến động
Việt Nam vào những thập niên cuối thế kỉ XIX là một thời kỳ lịch sử
rối ren, phức tạp với các thể chế chính trị nửa thực dân, phong kiến cùng với
các ý thức hệ “nhập nhằng” xuất hiện. Cái cũ truyền thống chưa mất đi, cái
mới “nhố nhăng” lại tràn vào xã hội, tạo nên một xã hội đầy biến động mới cũ, Tây - ta hỗn loạn.
Một vấn đề lớn đặt ra cho sự sống còn của đất nước khi thực dân Pháp
tiến quân xâm lược nước ta là canh tân cải tổ đất nước hay thủ cựu giữ. Tuy
nhiên, các triều đại phong kiến nhà Nguyễn vẫn giữtư tưởng thủ cựu, lo chăm
chút, xây dựng cung điện, “trọng nông, ức thương”, cho phương Tây là

“ngoại di”, hơn là cải tổ, canh tân đất nước, điều đó đã dẫn đến việc nước ta
rơi vào tay chủ nghĩa thực dân.
Những năm cuối cùng của thế kỷ XIX, chế độ phong kiến của nhà
Nguyễn hoàn toàn sụp đổ kéo theo sự sụp đổ của ý thức hệ Nho giáo. Nho
giáo với tư tưởng trung quân, ái quốc “Sống thờ vua, thác cũng thờ vua”
(Nguyễn Đình Chiểu) đã tồn tại qua bao thế hệ nhà Nho ở Việt Nam. Thế
nhưng, khi gót giày xâm lược thực dân Pháp vào Việt Nam mang theo nền
văn minh của khoa học kỹ thuật và tư tưởng cá nhân chủ nghĩa đã làm biến
đổi sâu sắc xã hội Việt Nam. Triều đình hỗn loạn, vua chẳng ra vua, tơi chẳng
ra tơi, nhà Nguyễn chính thức làm bù nhìn, làm tay sai cho giặc. Tư tưởng
trung quân, ái quốc giờ đây rơi vào khủng hoảng trầm trọng, vua khơng cịn
tận trung với nước, triều đình khơng cịn chăm lo đến đời sống của nhân dân.
Đứng trước cảnh quân giặc làm càn trên đất mẹ, triều đình nhà Nguyễn lại


16
không xuất binh kháng Pháp, các sĩ phu yêu nước như Nguyễn Tri Phương,
Hồng Hoa Thám, Phan Đình Phùng… phải đi tìm một con đường mới để
mong thốt khỏi những bế tắc hiện tại. Những cuộc khởi nghĩa tự phát của
nhân dân nổ ra rồi cũng lụi dần, sự khủng hoảng về mặt tư tưởng sâu trong
lòng xã hội ngày càng bộc lộ rõ nét hơn.
Những biến động của xã hội và sự khủng hoảng, suy vong của ý thức
hệ Nho giáo khiến nhà nho hoang mang, nhận thức về nhân cách của họ cũng
dần có sự thay đổi. Xã hội thực dân tư sản dần thay thế xã hội phong kiến cũ,
nho phong tàn tạ, sĩ khí tiêu tán, bút lông hết thời…
Thực dân Pháp tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, cơ
bản bình định xong về mặt quân sự, tiếp đến chúng xây dựng một trật tự xã
hội mới. Bộ máy cai trị được tổ chức theo lối hiện đại hơn, chặt chẽ hơn và có
quyền lực hơn, chi phối tồn diện mọi hoạt động xã hội. Sự tiến bộ của khoa
học kỹ thuật dẫn đến sự phá sản của những hoạt động mang tính thủ cơng, tạo

nên một nguồn nhân cơng rẻ mạt dồi dào phục vụ cho các cơng trình khai thác
của chúng. Đi kèm là chính sách sưu cao thuế nặng cùng với những luật lệ hà
khắc của bộ máy quan liêu thống trị. Đó cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến mâu thuẫn sâu sắc giữa người với người chốn thành thị và nông thôn,
giữa giai cấp tư bản và phong kiến.
Chế độ thực dân nửa phong kiến hình thành đã kìm hãm sự phát triển
của đất nước bởi một mặt, giao thơng, bn bán, kinh tế hàng hóa phát triển
tạo nên một thị trường sôi động khắp cả nước, mở rộng giao lưu với thị
trường quốc tế, mặt khác, Pháp lại dựng lên một hàng rào thuế quan làm cho
Việt Nam hoàn toàn bị phụ thuộc vào nước mẹ Đại Pháp. Với sự hà khắc của
những chính sách kinh tế do Pháp đặt ra, nước ta vừa trở thành một nơi cung
cấp nguồn nguyên liệu hàng xuất khẩu cho thương nghiệp Pháp, vừa trở thành
một thị trường tiêu thụ những sản phẩm ế thừa cho chúng.


17
Chế độ thuộc địa dẫn tới sự hình thành một thành phần mới trong xã
hội - tay sai của thực dân. Đầu tiên là đội ngũ nhân công bản xứ, tiếp đến là
những kẻ làm trong bộ máy cai trị thực dân, nào là thông ngôn, ký lục phụ
trách việc giao thiệp giấy tờ, rồi đến các me Tây, thầu khoán… tất cả tập hợp
lại thành tầng lớp thị dân xốy trong vịng quay qn xâm lược.
Chứng kiến biến động toàn cảnh của xã hội, lớp nhà nho trong giai
đoạn này đã bộc lộ thái độ của mình một cách thẳng thắn, dù thất thế nhưng
vẫn quyết liệt phản kháng, phản kháng bằng hành động và bằng ngòi bút sáng
tác văn chương. Tuy nhiên, ưu thế của tinh thần dân tộc và đạo nghĩa thánh
hiền vẫn không thể nào lấn át nổi những biến đổi nhanh chóng của xã hội thực
dân nửa phong kiến, những nhà nho chấp nhận sự thất thế của mình trước
cuộc đổi thay từ trước đến nay chưa từng chứng kiến. Cuộc sống khơng cịn
bó hẹp trong khuôn khổ cũ mà trở nên đa dạng hơn. Chính trị, kinh tế, văn
hóa của dân tộc đã và đang thay đổi. Văn hóa hiện đại từ phương Tây tràn

vào, trộn lẫn với văn hóa truyền thống tạo nên một thứ văn hóa lai căng Tây
ta lẫn lộn. Đó là một xã hội mà theo GS. Trần Đình Huợu: “Sự êm ấm của
lòng từ hiếu, cung thuận trong gia đình khơng giữ được gia đình, cha mẹ, tình
làng xóm quê hương với cái rộn ràng của học hệ đình đám không giữ được
chân chàng trai sau lũy tre xanh. Bước ra ngồi khn khổ cuộc sống chật
hẹp, n lặng, họ hàng, làng mạc, người ta phải tỉnh táo, vật lộn trong tình thế
“khơn sống mống chết” của một quan hệ lạnh lùng “tiền trao cháo múc”.
Người ta phải tự ý thức, phải sống, phải suy nghĩ, ước mơ cho riêng mình
trong những điều kiện của một xã hội rộng lớn” [29, tr.17]. Cái xã hội đi vào
hỗn độn, xô bồ, mọi kỷ cương, trật tự đều bắt đầu bung bứt, cái xã hội thị
thành ngày càng lộ dần “nguyên hình” với tất cả những nhố nhăng kệch cỡm.
Sự biến đổi xã hội dẫn đến sự thay đổi trong nhận thức của người dân,
đặc biệt là tầng lớp trí thức Nho học. Trước thực trạng này, nhiều nhà nho vô


18
cùng đau xót. Xót xa nhưng bất lực, chỉ biết gửi tâm sự vào những trang thơ.
Hiện thực xã hội là những nhân tố khách quan dẫn đến tiếng cười chua chát
ẩn chứa bao nỗi xót xa của các nhà nho - nhà thơ trong buổi giao thời giữa hai
hình thái ý thức xã hội phong kiến và tư bản thuộc địa ở Việt Nam vào cuối
thế kỷ XIX.
1.1.2. Nguyễn Khuyến, Tú Xương - những nhà nho cuối mùa của
chế độ phong kiến
Nguyễn Khuyến thường được gọi là ông Nghè Và hay Tam Nguyên
Yên Đổ, hiệu là Quế Sơn, sinh năm 1835, trước tên là Nguyễn Tất Thắng,
người làng Yên Đổ tục gọi là làng Và (sau này là làng Vị Hạ), huyện Bình
Lục, tỉnh Hà Nam. Tổ phụ là Nguyễn Mại đậu Tiến sĩ sung chức Hiến Sát Sứ
triều Lê. Thân phụ ông là Nguyễn Lệ đậu 3 khoa Tú Tài, gần 40 tuổi mới sinh
hạ ra ông. Từ nhỏ đã rất thông minh và chăm học, nổi tiếng thần đồng. Năm
12 tuổi đã thuộc Kinh Sử, 14 tuổi văn lý đã thông, 15 tuổi đỗ đầu kỳ hạch

tỉnh. Hai năm sau sửa soạn thi Hương thì thân phụ mất phải ở nhà cư tang.
Sau đó cửa nhà sa sút túng thiếu lại rủi mấy khoa thi Hương sau đều rớt nên
phải đi dạy học để độ nhật. Hoàng Giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị mến tài
chu cấp cho ăn học. Năm 1864 đỗ Giải Nguyên trường Hà Nội nhưng năm
sau thi Hội trượt, rồi lại hỏng luôn hai khoa nữa nên đổi tên là Nguyễn
Khuyến để tự răn mình. Đến khoa thi năm 1871 ơng mới đỗ Hội Ngun và
Đình Ngun Hồng Giáp.
Lúc đầu, Nguyễn Khuyến được sơ bổ Nội Các Thừa Chỉ rồi làm Đốc
Học Thanh Hóa, tiếp đó được thăng Bố Chánh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ơng
chính sự cần mẫn, thanh liêm lại có tài thao lược trong nhiều vụ tiêu trừ giặc
giã. Một lần ông dâng sớ xin về hưu nhưng vua Tự Đức không chấp thuận,
triệu về kinh làm Sử Quán Toản Tu. Năm 1882, Pháp lấy cớ thông thương uy
hiếp Hà Nội, ông được cử làm Thương Biện lo việc giao thiệp và thương


19
thuyết với Pháp. Sau đó sung chức Tổng Đốc Sơn - Hưng - Tun. Tình hình
trong nước lúc đó rất nguy ngập, Pháp hạ thành Hà Nội năm 1883. Năm sau,
1884 vua Tự Đức băng hà triều đình Huế phải ký hịa ước Patenơtre cơng
nhận cho Pháp quyền bảo hộ Bắc và Trung Kỳ. Năm 1885 Nguyễn Khuyến
lấy cớ đau mắt cáo quan xin về quê sống đời thanh bần nơng thơn. Sau khi
bình định các nơi, Pháp tìm cách mua chuộc sĩ phu để thu phục nhân tâm nên
ủy cho Hoàng Cao Khải rồi Vũ Văn Báo nhiều lần mời Nguyễn Khuyến ra
làm quan nhưng ông nhất định khước từ.
Nguyễn Khuyến làm quan lúc vận nước rơi vào tay giặc, các phong trào
yêu nước lần lượt bị dập tắt, cơ đồ nhà Nguyễn gần như sụp đổ hoàn toàn nên
ông không thực hiện được lý tưởng xây dựng đất nước tốt đẹp như ông hằng
mơ ước. Không thay đổi được thế cục, cũng không thể thỏa hiệp với thực dân,
ông bất mãn, u uất, chán nản chọn con đường lánh đục khơi trong như bao ẩn
sĩ khác. Cáo quan về ở ẩn, “minh triết bảo thân” là con đường mà các nhà nho

tiền bối vẫn từng làm. Nguyễn Khuyến cũng theo con đường ấy để giữ trọn khí
tiết bằng sự lựa chọn về nơi chốn làng quê yên ả làm một dật dân, ẩn sĩ.
Sinh ra sau Nguyễn Khuyến 35 năm, nhưng lớn lên và phải chứng kiến
bao điều nhố nhăng của xã hội Thực dân nửa phong kiến, Tú Xương gần như
là chứng nhân của thời đại ấy. Ông tên thật là Trần Duy Uyên, thường gọi là
Tú Xương, tự là Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích, đến khi thi Hương mới lấy tên
là Trần Tế Xương. Đã có lần trong thơ, ơng nói thẳng điều này một cách “cay
phẫn”: “Tế đổi thành Cao mà chó thế!”.
Được sinh ra trong một gia đình đơng con, thuộc dịng dõi Nho gia tại
Vị Xuyên (Nam Định), Tú Xương nổi tiếng thơng minh, có tài và có cá tính.
Tiếc thay, con đường khoa cử của ông mãi lận đận. Mười lăm tuổi, ông tham
gia kỳ thi Hương, hai khoa tiếp theo cũng “lều chõng” đến trường thi cũng
trượt cả hai. Mãi đến khoa Giáp Ngọ (1894), ông đậu tú tài khi ông hai mươi


20
bốn tuổi.Với học vị tú tài thời ấy, ông cũng chỉ làm ông đồ dạy học chứ vẫn
chưa được chức quan nào. Các khoa thi tiếp theo (cứ ba năm một khoa), ông
lại vác lều chõng đi thi, nhưng rồi khoa nào cũng trượt. Chính Tú Xương đã
khơng ngần ngại để tổng kết về con đường khoa cử lận đận đầy chua chát của
mình: “Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”. Tú Xương nói nhiều đến
“điều tu sĩ” của kẻ sĩ, ông mạt sát bọn cử nghè… tưởng như ông căm ghét chế
độ khoa cử. Nhưng ông vẫn đi thi vẫn khun người khác đi thi. Tú Xương
khơng thốt được vịng danh lợi. Ơng chỉ thấy có một lối thốt cảnh nghèo,
con đường lập thân chính là con đường khoa cử. Suốt đời “lóc cóc lụi cụi”,
mà cuối cùng ơng vẫn không trang trải xong với nợ công danh, để rồi, cay
đắng thốt lên: “Hổ bút hổ nghiêng/ Tủi lều tủi chõng”…
Bi kịch đáng kể của ông Tú thành Nam gói gọn trong 37 năm ngắn ngủi
(1870 - 1907) lại nằm trọn trong giai đoạn lịch sử vô cùng bi thương của thảm
cảnh nước mất nhà tan. Một nhà Nho được trang bị học thuyết Nho giáo với

những vấn đề cương thường đạo nghĩa, trí quân trạch dân…, rồi chính ông
phải chứng kiến mọi sự đổ vỡ của Nho giáo trong lòng xã hội thị thành với tất
cả những nhố nhăng kệch cỡm của nền văn hóa, chính trị, kinh tế lai tạp hỗn
độn ở buổi giao thời.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều xuất thân từ dòng dõi Nho học.
Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên khi Pháp chưa xâm lược còn Tú Xương
sinh ra khi đất nước đang rơi vào cảnh lâm nguy. Xã hội Việt Nam lúc ấy đã
chuyển sang một xã hội mới là xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái xã hội ấy
gắn với mọi sự thay đổi, thay đổi trong từng bộ phận giai cấp, trong mọi nền
nếp sinh hoạt, trong mọi trạng thái tâm lí xã hội… Đây là lúc mọi trật tự cứ
đảo lộn cả lên, ông làm thằng, thằng làm ông, cậu bồi, cậu bếp, thầy thơng,
thầy kí,... rặt một phường bất tài vô liêm sỉ nhưng sẽ làm anh làm chị, nghênh
ngang vênh mặt với đời. Và đây cũng là lúc nho phong tàn tạ, sĩ khí tiêu điều,


×