Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Đề tài phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại vận dụng quy luật này để luận giải quá trình tất yếu của việc quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.76 KB, 12 trang )

HP: TRIẾT HỌC
Đề Tài: phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến
thay đổi về chất và ngược lại. Vận dụng quy luật này để luận giải quá trình
tất yếu của việc quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay

Lý do chọn đề tài
Triết học Mác-Lênin là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động,
phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan,
phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. 
Trong đời sống hàng ngày, đằng sau các hiện tượng mn hình mn vẻ, con
người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của các
hiện tượng, từ đó hình thành nên khái niệm “quy luật”. Với tư cách là phạm trù
của lý luận nhận thức, khái niệm “quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học,
phản ánh sự liên hệ của các sự vật và tính chỉnh thể của chúng.
Các quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của tư duy con người đều mang
tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc tự ý xố bó được quy luật mà
chỉ nhận thức và vận dụng nó trong thực tiễn.
Quy luật “từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại”
là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, nó cho biết phương thức
của sự vận động, phát triển. Nhận thức được quy luật này có ý nghĩa rất quan
trọng trong hoạt động thực tiễn khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng.
Nếu nhận thức không đúng quy luật này sẽ dẫn đến tư tưởng tả khuynh, hữu
khuynh. Tả khuynh là phủ nhận sự tích luỹ về lượng, muốn có ngay sự thay đổi
về chất, còn hữu khuynh là khi chất đã biến đổi vượt quá giới hạn độ nhưng
Hv: Trần Thị Hoa – CN Dệt May K10Đ2


HP: TRIẾT HỌC
không dám thực hiện sự thay đổi căn bản về chất.
Nước ta đang quá độ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển của CNTB, việc
nhận thức đúng đắn quy luật lượng- chất sẽ có ý nghĩa rất lớn trong quá trình


hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trong phạm vi của tiểu luận này, em xin được trình bày nhứng cơ sở lý luận
chung về nội dung của quy luật lượng- chất, trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực
tiễn của việc nhận thức quy luật này, sự vận dụng quy luật này để phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam từ trước đến nay đã có nhiều tác phẩm, các bài viết, chuyên mục,
tạp chì bàn về con người ở nhiều khìa cạnh khác nhau. Những năm về trước, dưới
góc độ triết học con người thường được bàn đến với tư cách là con người mới xã hội
chủ nghĩa mà ở đó chủ yếu đề cập đến nghĩa vụ của công dân đối với đất nước. Vấn
đề quyền lợi, sự cơng bằng xã hội cũng được đề cập nhưng cịn mang tình tư biện, ìt
gắn liền với thực tế. Những nhu cầu tự nhiên, tất yếu của con người chưa được quan
tâm thìch đáng.
Trong những năm gần 5 đây kể từ đại hội Đảng lần thứ VI, trong các nghị
quyết của các kỳ đại hội, Đảng đã đặt con người vào vị trì trung tâm của mọi chình
sách kinh tế - xã hội thí việc nghiên cứu về con người ngày càng được chú trọng
hơn. Các cơng trính nghiên cứu con người đã đề cập đến nhiều mặt, nhiều khìa cạnh
khác nhau. Chủ đề thường được chú ý đến trong các cơng trính nghiên cứu là nguồn
gốc, bản chất con người, nhân tố con người trong lực lượng sản xuất, quyền con
người, mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong
con người. Do đó triết học Mác - Lênin có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội
con người việt nam.
Hv: Trần Thị Hoa – CN Dệt May K10Đ2


HP: TRIẾT HỌC
Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đìch tiểu luận tập trung phân tìch quan điểm triết học Mác – Lênin về
những thay đổi về lượng ảnh hưởng đến sự thay đổi về chất và ngược lại , từ đó tiểu
luận cho thấy triết học Mác - Lênin có vai trị và chưc năngquan trọng trong đời sống

xã hội.
Để đạt được mục đìch đó, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ quan điểm của triết học Mác – Lênin về những thay đổi về lượng làm
ảnh hưởng đến sự thay đổi về chất
- Luận giải mối liên hệ giữa các yếu tố về sự thay đổi về chất làm ảnh hưởng
đến sự thay đổi về lượng
- Nêu ra một số ý nghĩa của triết học với sự phát triển tư tưởng xã hội và với
thực tiễn đời sống xã hội .
Phạm vi nghiên cứu dựa vào cơ sở lý luận của học thuyết Mác – Lênin,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chì Minh về con người
và phát triển con người. Đồng thời luận văn cũng tham khảo các tài liệu, các
cơng trính nghiên cứu, các bài viết của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề
này

Những vấn đề lý luận của quy luật, từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất và ngược lại.
Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là
một trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này chỉ
rõ tính chất và cách thức của sự phát triển.
Khái niệm về chất
Hv: Trần Thị Hoa – CN Dệt May K10Đ2


HP: TRIẾT HỌC

Chất là tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng được biểu hiện thông qua các
thuộc tính và đặc điểm cấu trúc của sự vật. Tính quy định là cái vốn có của sự
vật, hiện tượng để phân biệt sự vật này với sự vật khác. Tính quy định này được
thể hiện thơng qua các thuộc tính. Có thuộc tính cơ bản và khơng cơ bản. Thuộc
tính cơ bản quy định chất của sự vật.

Nếu thuộc tính cơ bản mất đi thì chất của sự vật thay đổi. Cịn thuộc tính khơng
cơ bản thì trong q trình tồn tại của sự vật, có những thuộc tính khơng cơ bản
mới nảy sinh vàcó những thuộc tính khơng cơ bản mất đi nhưng chất của sự vật
không thay đổi. Thuộc tính chỉ bộc lộ thơng qua quan hệ với sự vật khác.
Trong sự vật, hiện tượng, chất không tách rời với lượng
Lượng của sự vật
Là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, chỉ rõ về mặt quy mơ, tốc độ,
trình độ phát triển của sự vật, hiện tượng. Nói đến lượng sự vật tức là sự vật đó
lớn hay bé, tốc độ phát triển nhanh hay chậm, trình độ cao hay thấp..v..v..đo
bằng các đại lượng cụ thể, bằng số tuyệt đối như trong lượng, thể tích hoặc so
sánh với vật thể khác, thời kỳ này với thời kỳ khác.
Ví dụ tốc độ của ánh sáng là 300.000km/giây, một cái bàn có chiều cao 80 phân,
một nước có 50 triệu dân..v..v
Khái niệm về Độ
Độ là giới hạn mà trong đó lượng biến đổi chưa gây nên sự thay đổi căn bản về
chất. Sự vật vẫn là nó, mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong một độ thích hợp
Hv: Trần Thị Hoa – CN Dệt May K10Đ2


HP: TRIẾT HỌC
khi lượng biến đổi vượt quá giới hạn độ thì sự vật khơng cịn là nó.
Trong phạm vi một độ nhất định hai mặt chất và lượng tác động qua lại lẫn nhau
làm cho sự vật vận động. Mọi sự thay đổi về lượng đều có ảnh hưởng đến trạng
thái chất của sự vật, nhưng không phải những thay đổi về lượng nào cũng dẫn
đến thay đổi về chất. Chỉ trong trường hợp khi sự thay đổi về lượng đạt tới mức
phá vỡ độ cũ thì chất của sự vật mới thay đổi, sự vật chuyển thành sự vật khác.
Điểm nút
Là điểm mà tại đó lượng biến đổi đã gây nên sự thay đổi căn bản, tập hợp những
điểm nút gọi là đường nút.
Bước nhảy

Sự thay đổi căn bản về chất, cái cũ mất đi cái mới ra đời phải thông qua bước
nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi căn bản từ chất sự
vật này sang chất của sự vật khác.
Bước nhảy đốt biến là bước nhảy xảy ra trong thời gian ngắn làm thay đổi bản
chất của sự vật. Bước nhảy này diễn ra bằng một sự bùng nổ mãnh liệt. VD cách
mạng tháng Mười Nga là một bước nhảy đột biến.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện bằng việc loại bỏ dần những
yếu tố, những bộ phận chất cũ xảy ra trong một thời gian dài mới loại bỏ hoàn
toàn chất cũ thành chất mới.
Nội dung quy luật từ những thay đổi dần về lượng dấn đến sự thay đổi về chất

Hv: Trần Thị Hoa – CN Dệt May K10Đ2


HP: TRIẾT HỌC
và ngược lại.
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội cũng như sự
phát triển nhận thức tư duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về lượng được
tích luỹ lại khi vượt quá giới hạn độ tới điểm nút thì thì gây nên sự thay đổi căn
bản về chất. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.
Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt đối lập vốn có của sự vật hiện
tượng. Lượng thì thường xun biến đổi, cịn chất tương đối ổn định.
Do đó sự phát triển của lượng tới một lúc nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ. Khi
chất cũ kìm hãm thì qua đó nảy sinh u cầu tất yếu phải phá vỡ chất cũ, mở ra
một độ mới để mở đường cho lượng phát triển. Sự chuyển hoá từ những thay đổi
về lượng dẫn đến những thay đổi vê chất, diễn ra một cách phổ biến trong tự
nhiên, xã hội và tư duy.
Quy luật này còn có chiều ngược lại, tức là khơng chỉ thay đổi về lượng dẫn đến
thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời do sự biến đổi về lượng gây nên thì

chất đó lại quy định sự biến đổi về lượng, ảnh hởng của chất mới đến lượng thể
hiện ở quy mô, mức độ, nhịp điệu phát triển mới.
Nội dung duy luật này được phát biểu như sau:
Mọi sự vật hiện tượng dều vận động, phát triển bằng cách thay đổi dần về lượng,
lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì
diễn ra bước nhảy, tạo sự thay đổi về chất của sự vật. Kết quả là sự vật cũ, chất
cũ mất đi và sự vật mới, chất mới ra đời. Chất mới lại tác động trở lại lượng
mới, lượng mới lại tiếp tục thay đổi dần, đến lúc nào đó, vượt quá độ tồn tại của
sự vật tới điểm nút thì lại diễn ra bước nhảy tạo sự thay đổi về chất, cứ như vậy
sự tác động qua lại giữa hai mặt chất và lượng tạo ra con đường vận động, phát
Hv: Trần Thị Hoa – CN Dệt May K10Đ2


HP: TRIẾT HỌC
triển không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng.
Điều cần chú ý là:
Quy luật này chỉ được thể hiện trong mối quan hệ giữa chất và lượng hoàn tồn
xác định, mối quan hệ này hình thành một cách khách quan chứ không thể gán
ghép một cách tuỳ tiện. đồng thời sự chuyển hoá lượng và chất bao giờ cũng phụ
thuộc vào những điều kiện nhất định.
Quy luật lượng-chất được vận dụng trong xã hội thể hiện ở mối quan hệ giữa
tiến hoá và cách mạng. Trong sự phát triển của xã hội, sự thay đổi dần về lượng
gọi là tiến hố, cịn sự thay đổi về chất theo hướng tiến hoá lên gọi là cách
mạng, tiến hoá chuẩn bị cho cách mạng. Trong giai đoạn tiến hoá, chế độ xã hội
chưa có sự thay đổi căn bản về chất, cịn cách mạng là kết quả của q trình tiến
hố, chấm dứt một q trình này, mở ra một q trình tiến hố mới cao hơn, chế
độ xã hội cũ bị xoá bỏ, chế độ xã hội mới ra đời thay thế. Cách mạng xã hội là
phương thức thay thế xã hội này bằng xã hội khác, bạo lực là hình thức cơ bản
của cách mạng.
Ý nghĩa phương pháp luận

Trong hoạt động nhận thức thực tiễn, cần phải coi trọng q trình tích luỹ về
lượng, nếu khơng coi trọng q trình này thì sự khơng có sự biến đổi về chất.
Vì bất kì sự vật nào cũng có hai phương diện chất và lượng tồn tại trong tính
quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó trong nhận thức
cần phải coi trọng cả hai chỉ tiêu, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật.

Hv: Trần Thị Hoa – CN Dệt May K10Đ2


HP: TRIẾT HỌC
  Cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự vật;
đồng thời phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của
sự vật.
Quy luật này có chiều ngược lại, chất mới ra đời thì làm biến đổi tốc độ, quy mô
lượng mới. Cho nên khi chất mới ra đời phải biết xác định tốc độ, quy mơ phát
triển về lượng cho thích hợp, khơng được bảo thủ, dừng lại
Cần phải chống quan điểm tả khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là phủ nhận tích
luỹ về lượng muốn có ngay sự thay đổi về chất, cịn hữu khuynh là thì ngược lại
khi lượng biến đổi đã tới vượt quá độ nhưng không dám thực hiện sự thay đổi
căn bản về chất
  Cần khác phục tư tưởng nôn nóng, tả khuynh và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh
trong công tác thực tiễn.
Cần phải vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng
điều kiện, lĩnh vực cụ thể

Luận giải quá trình tất yếu của việc quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay
Tính tất yếu khách quan của kinh tế thị trường định hướng CNXH ở nước ta
Kinh tế thị trường định hướng XHCNthực chất là phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN nhưng được diến đạt gọn hơn, nói rõ được mơ

hình hinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ.

Hv: Trần Thị Hoa – CN Dệt May K10Đ2


HP: TRIẾT HỌC
Nói nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế của chúng
ta khơng phải là kinh tế hiện vật, tự cấp, tự túc, quản lý theo kiểu tập trung, quan
liêu, bao cấp. Nhưng đó cũng khơng phải là nền kinh tế thị trường tự do theo
cách nói của tư bản, tức là khơng phải nền kinh tế thị trường TBCN, và cũng
chưa hoàn tồn là kinh tế thị trường XHCN, cịn có sự đan xen và đấu tranh giữa
cái cũ và cái mới, vừa có lại vừa chưa có đầy đủ các yếu tố CNXH.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một tất yếu khách
quan. Bởi vì.
-Kinh tế thị trường định hướng XHCN là kết quả của sự nhận thức và vận dụng
quy luật vè sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Cùng với CNH, HĐH đất nước, nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN là con đường kinh tế cơ bản đưa nước ta quá độ lên CNXH.
- Nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, là thời kỳ đang thực hiện hoá dần dần
CNXH, thời kỳ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế q độ, vừa có CNXH vừa cịn
CNTB. Chủ trương xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN là phù hợp
với bản chất của thời kỳ lịch sử đặc biệt này.
- Chúng ta đã biết thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong đó kết cấu
kinh tế - xã hội vừa bao hàm những yếu tố của xã hội cũ đang suy thoái dần, vừa
bao hàm những yếu tố của xã hội mới ra đời đang lớn lên từng bước nhưng chưa
dành toàn thắng.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà xã hội đang chuyển từ chế độ này sang chế độ
khác, ở đó chưa có phương thức sản xuất nào giữ vị trí thống trị tuyệt đối, trong
đó mỗi phương thức chỉ là một “mảnh” một “bộ phận” của kết cấu kinh tế xã
hội, vừa độc lập tương đối, vừa hợp tác và đấu tranh với nhau. Mỗi “mảnh”, mỗi

“bộ phận” ấy là một thành phần kinh tế.
Hv: Trần Thị Hoa – CN Dệt May K10Đ2


HP: TRIẾT HỌC

Thành phần kinh tế khác phương thức sản xuất ở chỗ khi nó chưa vươn lên đóng
vai trị thống trị, nhưng cũng khơng ở vào vị trí chi phối, nó tồn tại như một bộ
phận tương đối độc lập, đan xen với các bộ phận khác của kết cấu kinh tế-xã
hội. Do vậy, nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng riêng có của thời kỳ quá
độ lên CNXH.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là thực hiện nhất quán và
lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, qua đó tiềm
năng của các thành phần kinh tế được khai thác để phát triển lực lượng sản xuất,
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân, đảm
bảo xây dựng thành công CNXH.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu khách
quan, là sự nhận thức đúng đắn quy luật từ những thay đổi về lượng sẽ dẫn đến
sự thay đổi về chất và ngược lại. Điều đó có nghĩa là khi chúng cha chưa tích
luỹ được đầy đủ những điều kiện vật chất cho CNXH thì chúng ta chưa thể nóng
vội xây dựng quan hệ sản xuất XHCN ngay như trước năm 1986 chúng ta đã
làm, mà chúng ta phải tiến hành dần dần, hay nói cách khác, chúng ta phải có
một thời kỳ quá độ.
Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được sau 15 năm đổi mới.
Sau năm 1975 khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên CNXH, chúng ta đã
nóng vội và nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần dựa trên cơ sở
công hữu XHCN về tư liệu sản xuất, mọi thành phần kinh tế khác bị coi là bộ
phận đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải tạo, xoá bỏ, làm
như vậy là chúng ta đã đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, tạo ra mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất thấp

Hv: Trần Thị Hoa – CN Dệt May K10Đ2


HP: TRIẾT HỌC
kém với một bên là quan hệ sản xuất được xã hội hố giả tạo, dẫn đến kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất, hay nói cách khác khi lực lượng sản xuất
của chúng ta còn quá thấp kém chưa tích luỹ đủ về lượng (tính chất và trình độ)
đã vội vã thay đổi chất (quan hệ sản xuất XHCN) làm cho đất nước lâm vào tình
trang khủng hoảng kinh tế – xã hội.
Từ đại hội VI của đảng cộng sản Việt nam đến nay, khắc phục sai lầm trên
chúng ta thực hiện xây dựng nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần, xuất phát từ
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nước ta là đa dạng, không đồng đều
và chưa cao.
Thực tiễn sau 15 năm đổi mới đã khẳng định chủ trương xây dựng kinh tế nhiều
thành phần là phù họp với phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta. Nó đã thực sự
giải phóng, phát triển và khơi dậy các tiềm năng của sản xuất. Khơi dậy năng
lực sáng tạo chủ động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất đưa nước ta ra khỏi
thời kỳ khủng hoảng kinh tế- xã hội.
Kết luận

Như vậy, lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ khi nào
lượng được tích luỹ tới một độ nhất định mới làm thay đổi về chất, nên trong chỉ
đạo hoạt động thực tiễn cũng như trong nhận thực khoa học phải chú ý tích luỹ
dần dần những thay đổi về lượng, đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp
thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi.
Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH chính là bước nhảy dần dần từ chất cũ sang
chất mới. Trong quá trình tiến hoá cách mạng, một mặt phải chống khuynh
hướng bảo thủ, trị trệ, nhằm tạo ra những bước nhảy để đẩy nhanh sự phát triển,

Hv: Trần Thị Hoa – CN Dệt May K10Đ2



HP: TRIẾT HỌC
mặt khác, lại phải chống tư tưởng nóng vội, muốn đưa nhanh sự phát triển, tiến
hành những bước nhảy khi chưa có điều kiện chín muồi, bất chấp những quy
luật khách quan.

Hv: Trần Thị Hoa – CN Dệt May K10Đ2



×